Không sợ hoạn nạn
Quán vô ngã để vượt qua hoạn nạn
Hoạn nạn là thường tình
Phớt lờ thị phi
Giá trị của rũ bỏ tích cực
Điều 3,4: Sở học thấu đáo và đạo hạnh thanh cao
Các cõi quy chiếu vào tâm
Làm chủ tâm ý
Nền tảng Phật pháp cần nắm
Hai lớp nghĩa của lời Phật
Truyền thống và tiếp biến
Đại nghi đại ngộ
Xây dựng đạo hạnh
Nghịch cảnh và đạo hạnh
Điều 5, 6, 7: Thái độ lập nghiệp
Thái độ lập nghiệp
Lợi hành vô ngã vị tha
Không bận tâm trước khen chê
Điều 8,9,10: Ân nghĩa và oan trái
Thi ân bất cầu báo
Danh lợi là phù hoa
Chuyển hóa nỗi oan
Nói thật để giải oan
Im lặng như thiền định
Đừng để kiên nhẫn bị hàm oan
Nỗi oan Thị Kính
Tuyên bố sự thật
Vấn đáp
THAY LỜI TỰA
Cấu trúc của
Mười điều tâm niệm gồm ba phần:
- Phần một,
mô tả về mười nghịch cảnh với các đối tượng và cách đối trị để tất cả hành giả
phải giữ chánh niệm và tỉnh thức, nhằm thấy được “mặt mũi” của chúng, nguyên
nhân và cách thức đối trị.
- Phần hai
là giải pháp đối trị, tìm đối tượng có tính đối lập ở mức độ cao nhất hay hơn để
từ vế A của hiện thực khổ đau, ta có được vế B của tâm linh như là kết quả tất
yếu của sự hành trì.
- Phần ba là
phần khuyến tu như tựa đề chung của tác phẩm Bảo vương tam muội niệm Phật trực
chỉ, để giúp ta thấy rõ hiện tính vô thường như bản chất và quy luật của sự
vật hiện tượng để từ đó ta không quá bận tâm về những đổi thay liên hệ đến bản
thân và tất cả những gì diễn ra xung quanh.
Trong phương
pháp tu học của Phật giáo Bắc tông, vấn đề quán chiếu trên tâm niệm được xem
như là phương pháp hành trì phổ biến nhất. Tác phẩm Mười điều tâm niệm đã
được dịch và in ấn hầu hết trong các bản kinh tiếng Việt. Xuất xứ trong Đại
chánh tân tu đại tạng kinh quyển 47 trang 373. Nội dung tác phẩm nhằm cô đọng
về phương pháp khích tấn
hành giả tu
tập, được trích trong Luận bảo vương tam muội niệm Phật trực chỉ của Hòa
thượng Diệu Hiệp và trở thành phổ biến trong sự tu học của Phật tử Bắc tông.
Trong các bản
kinh, trang cuối thường có ghi Mười điều tâm niệm, và bên cuối dòng ghi
chú Luận bảo vương tam muội. Nội dung nhằm chỉ thẳng về kỹ năng niệm Phật,
giúp cho hành giả thiết lập được chánh niệm nhứt tâm bất loạn. Ai đạt được
phương pháp thực tập như thế, thì sẽ sống trong thiền định mang tính cách là Bảo
vương.
Tam muội là
một loại thiền định, Bảo vương là tên của một loại ngọc quý. Trong kinh thường
mô tả ngọc ngà, pha lê, mã não, san hô, hổ phách, trân châu. Gồm bảy loại ngọc
quý; vua các loại ngọc quý này được hiểu theo kinh điển Ðại thừa chính là kim
cương. Kim cương được đức Phật sử dụng ẩn dụ sánh ví cho tuệ giác mà hành giả
có thể đạt được thông qua tiến trình tu tập và hành trì. Khi đã đạt được tuệ
giác Bảo vương tam muội, hành giả sẽ rất nhẹ nhàng và thư thái trong sinh hoạt,
không bị vướng chấp trong tình đời; vươn lên, phấn chấn, tấn tu trong mọi chướng
duyên, do vậy không có gì làm trở ngại.
Tại Việt Nam
sự ứng dụng phổ biến của Mười điều tâm niệm vượt lên trên sự ứng dụng và hành
trì của Phật tử Trung Quốc. Nguyên tác của tác phẩm, trong phần chính văn không
có tiêu đề Mười điều tâm niệm mà là Mười chướng duyên hay Mười điều buông xả.
Hòa thượng Trí Quang - dịch giả của tác phẩm đã chỉnh sửa tựa đề nhằm phù hợp với
nội dung trong bối cảnh tu học của Phật tử Việt Nam để có sự hài hòa giữa Thiền
tông và Tịnh Độ tông
Chữ “Tâm niệm”
gợi lên sự thực tập, tiến trình của nó được diễn ra theo hai vế. Vế một là sự
kiện có thực bao gồm rất nhiều điều không như ý. Vế hai là quán tưởng để mở ra
một nội dung
tâm linh. Trên cơ sở đó ta quên được nỗi khổ niềm đau. Kết quả còn lại là sự
chuyển hóa tâm thức.
Việc thực tập
cần phải được ghi nhớ trong tâm. Nghĩa là lúc nào hành giả cũng phải nhớ, và ứng
xử trên nền tảng của những điều đạo lý được giảng dạy.
Tâm niệm là
một tiến trình tự ý thức, nhằm nâng cao năng lực và sự tập trung của ta hướng đến
một mục đích cao thượng tốt đẹp. Học thuộc lòng chỉ là cách cài đặt dữ liệu vào
trong kho tàng trí thức, ký ức của con người. Qua thời gian, các dữ liệu của sự
thuộc lòng có thể quên mất bởi vì nó không gây một sự chấn động tâm nào hay một
ý niệm sâu sắc nào có thể dẫn đến khuynh hướng hành động trong cuộc sống. Trong
khi đó, những điều quan trọng được chư Phật và các vị Tổ sư Phật giáo dạy ta phải
tâm tâm niệm niệm. Nghĩa là trong mỗi khoảnh khắc thời gian trôi qua, ta phải
luôn ghi nhớ những điều này trong tâm khảm của mình, để trước nhất trở thành phản
ứng có điều kiện và sau đó trở thành phản ứng vô điều kiện. Hành giả tiếp nhận
nó một cách linh hoạt trong hoàn cảnh hay điều kiện nào, con người cũng có thể ứng
xử và ứng dụng nó nhằm giúp mình được lợi lạc và an vui.
Như vậy, Mười
điều tâm niệm không chỉ là những điều ta học thuộc lòng, vì đó chỉ là tính năng
theo thói quen biến nó trở thành mình. Trong khi tâm niệm là sự quán chiếu thường
xuyên dưới góc độ của tác động tỉnh thức, làm tâm không bị phiền não, nghiệp
chướng, trần ô tác động chi phối. Học thuộc lòng mà không có sự quán chiếu thì
tâm sẽ như cái máy, lặp lại những triết lý mà tính minh triết chỉ có mặt khi sự
quán chiếu được thực tập.
TT. Thích Nhật
Từ
Tổng Biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
Xem chi tiết nội dung (phiên bản PDF): MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM - Thích Nhật Từ