“Bạch
Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai
nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng,
không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân
duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”
Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:
“Sau
khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ
trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên
tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y
phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham
đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.
“Vào
lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính,
siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi, họ đều giáo hóa
bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm
người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi
người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng
từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình,
thường nhẫn nhục nhân hòa.
“Nếu có những người như
vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng,
xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó,
các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang
vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành
hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật
tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.
“Vào
lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt
phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở
thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn
dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu
phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của
ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy
có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật,
không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn
văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ. Chẳng bao
lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người
tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn, vẫn khăng khăng cho họ là
đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiếng, ra vẻ tao nhã để mong cúng
dường.
Khi mạng căn của các ác ma tỷ-khưu này chấm
dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội
trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc
sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông
Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có
Tam bảo lưu hành.
“Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ
nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên
lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp. Những vị sa-môn chân chính sẽ
bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp
suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc
loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp
đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa
phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối
loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu
như chỉ có được một hoặc hai người.
“Khi kiếp sắp
hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống
của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc. Đàn ông dâm dục, cạn
kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống
của nam giới giảm, thì mạng sống của nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc
đến 100 tuổi.
«Những dòng sông lớn sẽ dâng cao
bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý
hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường.
Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi
nổi như cá rùa kiếm ăn .
«Lúc đó các vị Bồ-tát,
Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự
trong chúng hội. Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh,
những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên
sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp
hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm,
kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên
rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến
khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh
điển sau đó hoàn toàn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị
biến thành màu trắng.
«Khi giáo pháp của ta sắp biến
mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi
tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói
chắc được điều gì sẽ xảy ra.
«Thời kỳ này sẽ kéo dài
suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị
Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị
tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn năm thứ cốc loại tươi tốt, cây cối sum
suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét) tuổi thọ
trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có
thể tính đếm được.»
Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật:
«Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?»
Đức Phật bảo:
«Này
A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá
rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người
ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được.»
Khi
bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi,
mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ
cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
Trích từ sao lục của SENG YU Bản dịch Hán văn: Vô danh
Đại Chánh Tạng Quyển 13 Hịệt 1118 Số 396 Niết Bàn Bộ
Bản dịch Anh ngữ: Tỷ-khưu THÍCH HẰNG THẬT Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ
Bản dịch Việt ngữ: THÍCH NHUẬN CHÂU (Tịnh thất Từ Nghiêm, Đại Tòng Lâm)
Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành đối chiếu Hán văn và hiệu đính
Tác giả bài viết: Thích Nhuận Châu