Đến phiên vị trà giả, chị chia sẻ, “Công
việc của tôi là pha trà mời mọi người uống, mong tất cả được thưởng thức
một tách trà thơm ngon” (My job is to serve you tea). Xong
buổi thiền trà, sau khi mọi người đã ra về, vị Thầy quay sang nói với
người trà giả, “Con nói như vậy là không đúng, đó không phải là ‘công
việc’ mà phải là ‘niềm vui’ của mình mới đúng chứ!” (It's not a job, it's a joy).
Thiết thực hiện tại
Và trên con đường tu học của mình
cũng vậy, tôi nghĩ đó phải là một niềm vui. Con đường của Phật dạy có
hai yếu tố là thiết thực, practical, và hiện tại, here now, hay nói một
cách khác là nó có thể mang lại sự an vui cho ta ngay bây giờ và ở đây.
Giáo lý của Phật dạy rất sâu sắc và nhiệm mầu, nhưng đừng vì thế mà
chúng ta đánh mất đi yếu tố thiết thực hiện tại của nó.
Có một
câu truyện vui kể về nhà hiền triết Nasrudin. Có lần vì gia cảnh túng
thiếu nên ông Nasrudin phải đi buôn để kiếm thêm tiền. Nhà ông ở gần
biên giới nên mỗi sáng ông cứ đi bộ sang xứ láng giềng và đến chiều thì
ông cưỡi một con lừa đi về. Và từ đó ông cũng trở nên giàu có hơn, nhà
cửa xây cất rộng lớn hơn. Lính biên phòng nghi ngờ, nghĩ là ông có mua
bán thứ gì đó mà không khai báo để trả thuế, nên mỗi ngày khi ông trở về
họ khám xét con lừa của ông cưỡi rất kỹ lưỡng, xem ông có cất dấu một
món hàng nào đó không. Nhưng ngày qua ngày, khám xét mãi họ vẫn không
tìm thấy một điều gì khác thường. Cuối cùng, người lính biên phòng nói
với ông Nasrudin, “Chúng tôi biết là ông buôn bán một thứ gì đó mà không
khai báo, nhưng tìm không ra. Thôi bây giờ ông cứ nói thật đi, chúng
tôi cũng chẳng làm khó dễ ông đâu.” Ông Nasrudin, quay sang nói nhỏ với
người lính biên phòng, “Tôi buôn lừa!”
Chúng ta cũng dễ giống như
những người lính ấy, có thể vì lo tìm kiếm sâu xa quá mà quên nhìn thấy
những gì ở ngay trước mắt. Ta vô tình đánh mất đi những niềm vui thiết
thực hiện tại của mình.
Bạn biết không, với một rừng kinh điển
mênh mông, chúng ta có thể nghĩ rằng những điều Phật dạy rất là huyền bí
cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng thật ra chúng cũng rõ ràng ngay
trước mắt ta. Tăng Chi Bộ Kinh ghi, có một người ngoại đạo tên Sivaka
đến hỏi Phật “Con nghe nói giáo pháp của Ngài là rõ ràng ngay trước mắt (the dhamma is directly visible)... Thưa Ngài thế nào là rõ ràng ngay trước mắt?”
Đức
Phật đáp, “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội
tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông
Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có
biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm
ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp ấy là rõ ràng ngay trước
mắt, (the dhamma is directly visible)...”
Chúng ta đâu cần phải tìm kiếm đâu xa xôi để chuyển hóa những muộn phiền và khó khăn của mình phải không bạn?
Bình đẳng và bao dung
Đức
Phật dạy rằng chúng ta sẽ có nhiều niềm vui trong giờ phút hiện tại,
nếu như ta biết nhìn lại và tiếp xúc với cái hay cái đẹp của mình. Tôi
nghĩ, trong đạo Phật thì những cái hay và đẹp này không phải là sự tài
giỏi, thông minh hoặc những thành đạt của ta, mà là ở tấm lòng của mình.
Và trong chúng ta ai cũng có một tấm lòng ấy. Bạn nghĩ đi, những khi ta
làm một việc tốt, dầu không ai biết đến nhưng mình cũng cảm thấy an
vui, khi nghe kể những hoàn cảnh bất hạnh ta cảm thấy thương xót và muốn
chia sẻ, giúp đỡ. Và mỗi khi làm một việc gì không tốt ta cảm thấy bứt
rứt, khó chịu. Chúng ta cảm nhận được những điều ấy là vì trong ta, tự
bản chất, có những hạt giống tốt lành rất lớn.
Ngày xưa đức Phật
đã giúp cho biết bao nhiêu người từ bậc vua chúa, tu sĩ, cho đến những
hạng thấp nhất trong xã hội. Tiếp xúc với ai Phật cũng nhìn thấy được
cái bản chất hay đẹp, những hạt giống thiện lành đang có mặt sẵn trong
tất cả mọi người. Có một lần trên đường đi, A Nan gặp một cô thiếu nữ
đứng bên cạnh một giếng nước, ngài đi đến gần và xin cô ta một bát nước.
Cô thiếu nữ vừa thấy ngài A Nan đến vội tránh xa ra và nói rằng, “Thưa
ngài tôi thuộc giai cấp hạ tiện, tôi không có quyền cúng dường nước cho
ngài, tôi sợ sẽ làm ô uế ngài.” A nan nhìn cô thiếu nữ và nói rằng, “Tôi
đâu có hỏi hay là xin địa vị, giai cấp của cô đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xin
cô nước mà thôi.”
Lời nói của ngài A Nan thật bao dung quá phải
không bạn. Chúng ta nhiều khi cũng giống như cô thiếu nữ ấy, có những
quá khứ, có những việc xưa cũ mà mình cứ ôm ấp và giữ chặc mãi, khiến
cho ta không còn có thể tiếp xúc được với niềm vui hiện tại.
Empty your cup of suffering
Có
lần, thiền sư Nan-in tiếp một vị giáo sư đại học đến để tham vấn về
Thiền. Nan-in rót trà mời khách, ông rót đầy tách của vị giáo sư, và cứ
tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông
không nhịn được nữa, “Thưa Ngài tách trà đã đầy tràn ra ngoài rồi, không
còn thêm được nữa!”, “Như là tách trà này,” Nan-in nói, “nếu ông đã có
đầy ý niệm và thành kiến rồi, làm sao tôi có thể chỉ gì thêm cho ông
nữa. Ông hãy đổ sạch tách của ông đi!”
Tôi nghĩ lời khuyên của
ngài Nan-in cũng có thể áp dụng cho vấn đề hạnh phúc của chúng ta nữa.
Hạnh phúc sẽ không thể có mặt nếu như tách trà của mình còn đầy những
muộn phiền. Thật ra chúng ta cũng đâu cần phải đi tìm kiếm hay xây dựng
một trạng thái hạnh phúc nào mới lạ đâu, điều chúng ta cần chỉ là biết
buông bỏ mà thôi. Ta buông bỏ những ganh tỵ, tham lam, nhỏ nhoi của
mình. Có người nghĩ rằng nếu như mình bỏ hết rồi thì ta sẽ còn lại gì
đây? Nhưng ta đâu phải chỉ là những tham lam, giận hờn thôi đâu! Chúng
là gốc rễ của khổ đau, thì thật ra ta chỉ buông bỏ những nguyên nhân của
khổ đau mà thôi. Và hễ không cái này thì là có cái kia. Không mưa thì
nắng, không bóng tối thì ánh sáng, không khổ đau thì là hạnh phúc, không
có giận hờn thì ta sẽ có niềm vui. Buông cái này thì ta sẽ được cái
kia.
Bạn biết không, nếu như ta cứ cầm mãi một tách trà trên tay,
thì dầu có nhẹ đến đâu rồi nó cũng sẽ trở thành nặng. Và nếu như ta
không đặt tách trà xuống thì làm sao mình có thể nhặt một chiếc lá thu,
viết một bài thơ, hứng một hạt mưa, hay nắm tay một người thân. Nếu như
một tay ta cứ nắm chặt vào khổ đau bên này, thì dù có cố với mấy ta cũng
sẽ không thể nào chạm được hạnh phúc phía bên kia. Buông bỏ là để giúp
ta có khả năng đi tới, nhờ buông thả khổ đau mà ta tiếp xúc được với
hạnh phúc đang có mặt.
Trong kinh có một danh từ chuyên môn gọi là kiết sử hay là nội kết, samyojana,
chúng là những gút thắt, những khối vui buồn, khổ đau được kết tụ lại
trong lòng ta theo ngày tháng. Trong chúng ta ai cũng có một số những
muộn phiền hoặc khó khăn nào đó. Và tôi thấy, đôi khi muốn mở những gút
thắt ấy, thật ra chúng ta cũng không cần phải tìm cách tháo gỡ chúng ra,
mà chỉ cần đừng cột chặt thêm vào nữa mà thôi. Sự sống là một dòng sông
linh động, nó luôn trôi chảy và biến đổi, không có một hờn giận, muộn
phiền nào sẽ còn mãi nếu như ta thôi đừng ôm chặt nó lại. Đừng nhốt sự
sống của mình vào một tách nước nhỏ bé, nước nếu bị cô đọng thì dầu
trong mát đến đâu cũng sẽ trở thành nước ao tù. Hãy để cho nó được tiếp
tục lưu chuyển, để ta có thể tiếp nhận được một hạnh phúc mới của ngày
hôm nay.
Ánh xuân về trên đóa hoa tươi
Trên
con đường tu học ta ý thức rằng, trong giây phút hiện tại này chúng ta
có thể tiếp xúc được với niềm vui, nếu mình muốn. Chúng ta không phải ai
cũng đang có hạnh phúc, nhưng đa số chúng ta ai cũng đang có những điều
kiện của hạnh phúc. Nếu như chúng ta vẫn còn sức khỏe, vẫn còn nhìn
thấy được trời xanh mây trắng, vẫn còn bước đi được trên con dường nhỏ…
đó là những điều kiện của hạnh phúc. Tôi nghĩ, nếu sự tu học của mình có
hay hơn người khác chăng là ở chỗ mình đã thực tập ý thức điều này được
bao nhiêu mà thôi.
Tôi nhớ đến bài thơ của Tế Hanh:
Nếu không có hạnh phúc một đời
Thì tìm hạnh phúc một năm một tháng
Nếu không có hạnh phúc một năm một tháng
Thì tìm hạnh phúc một ngày một giờ
Sáng nay
Tôi tìm thấy hạnh phúc
Sau một đêm yên giấc
Tôi nhìn thấy ánh xuân về
Trên một đóa hoa tươi.
Và
nếu như mình có được hạnh phúc trong một ngày một giờ, thì ta cũng sẽ
có hạnh phúc trong một đời, phải không bạn. Vì đời sống cũng chỉ làm
bằng ngày hôm nay, và hạnh phúc cũng có thể rất đơn sơ như một sợi nắng
vàng trên đóa hoa tươi của buổi sáng này...■
Nguồn: Tập San Pháp Luân 81