1939
�
ra
Huế
học
tư
thục
với
những
thầy
Cao
Xuân
Huy,
Trần
Đình
Đàn,
Hoài
Thanh
Nguyễn
đức
Nguyên,
Đào
duy
Anh,
vân
vân�
1940
�
về
Quảng
Nam
chăn
bò
1942
�
trở
ra
Huế,
vì
nhớ
nhung
gái
Huế
1949
�
nhập
ngũ
�
bộ
đội
công
binh.
Hai
năm
sau
giải
ngũ
1952
�
vào
Sài
gòn
�
1955
(57)
khởi
sự
viết
về
Nguyễn
Du
và
một
vài
nhận
xét
về
Truyện
Kiều
và
một
vài
nhận
xét
về
Bà
Huyền
Thanh
Quang,
một
vài
nhận
xét
về
Chinh
Phụ
Ngâm
...(TÂN
VIỆT
xuất
bản)
1957
�
TÂN
VIỆT
xuất
bản
:giảng
luận
về
Tản
Đà
Nguyên
Khắc
Hiếu,
giảng
luận
về
Chú
Mạnh
Trinh,
giảng
luận
về
Tôn
Tho
Trường
và
Phan
Văn
Trì
1962
�
Tập
thơ
Mưa
Nguồn
Tư
Tưởng
Hiện
Đại
1963
�
Lá
Hoa
Cồn
(thơ)
Ngân
Thu
Rớt
Hột
(thơ)
Màu
Hoa
Trên
Ngàn
(thơ)
Martin
Heidegger
và
Tư
Tưởng
Hiện
Đại
(hai
tập)
(do
đứa
em
..)
1965
�
nhà
cháy
mất
trụi
bản
thảo
In
vội
vàng
Sa
Mạc
Phát
Tiết
(An
Tiêm)
Dialogue
(viết
Avantpropos
(viết
giúp
cho
Nhất
Hạnh,
Lá
Bối)
và
Letre
à
René
char)
(Lá
Bối
in)
Sa
Mạc
Trường
Ca
(An
Tiêm
in
bản)
1968
�
68
Dịch
Martin
Heidegger
Erlauteninger
gu
Heidergger
dich
�.
Giảng
giải
về
thơ
�.
(Lời,
Cố
Quận
(An
Tiêm)
Lễ
Hội
Tháng
Ba)
(Quế
sơn
Võ�
Tánh)
Con
Đường
Ngã
Ba
(An
Tiêm)
Bài
Ca
Quần
Đạo
(Nguyễn
Đình
Vương)
1969
�
Bắt
đầu
điên
rực
rỡ
1970
�
1.
Lang
Thang
Du
hành
Lục
Tỉnh
(Khách
sạn
Long
xuyên
Bà
Chủ
cho
ở
đầy
đủ
tiện
nghi
không
lấy
tiền)
2.
Gái
Châu
Đốc
Thương
yêu
và
Gái
Long
Xuyên
Yêu
dấu
3.
Gái
Chợ
Lớn
Khiến
bị
bịnh
lậu
(bịnh
hoa
liễu)
1971
�
75
-
93
Điên
rồ
lừng
lẫy
chết
đi
sống
lại
vẻ
vang
Rong
chơi
như
hài
nhi
(con
nít)
Được
gia
đình
ông
Phó
Chủ
Tịch
(482)
Lê
Quang
Định,
Hội
Đồng
Thành
Phố
đối
xử
thơ
mộng
thênh.
Kính
dâng
Kim
Thúy,
Kim
Hồng,
Kim
Hoa,
đôi
lời
rốt
cuộc.....
Bình
sinh
mộng
tưởng
vấp
phải
niềm
thương
yêu
của
Kim
Cương
Nương
Tử,
Hà
Thanh
Cố
Nương
và
Mẫu
Thân
Phùng
Khánh
(tức
Trí
Hải
Ni
Cô)
Do
đâu
mà
ra
được
như
thế
?
Đáp:
Có
lẽ
đầu
tiên
kỳ
tuyệt
là
do
ân
nghĩa
bốn
bề
thiên
hạ
đi
về
tập
họp
tại
Già
Lam,
Vạn
Hạnh
và
Long
Huê
và
Tịnh
Xá
Trung
Tâm
và
Pháp
Vân
và
xiết
bao
Chùa
Chiền
Miền
Nam
nước
Việt,
không
biết
nói
sao
cho
hết.
22-8-93
(*)
Đây
là
tài
liệu
do
cố
thi
sĩ
Bùi
Giáng
ghi
chép
ngay
trong
cuốn
sổ
tay
của
chúng
tôi
vào
một
buổi
trưa
ngày
mùng
10
tháng
11
năm
1993
tại
chùa
Pháp
Vân,
Gia
Định,
Sàigòn.
Nay
công
bố
nguyên
văn
để
các
nhà
tiểu
sử
học
có
thêm
một
tư
liệu
chân
xác
về
cuộc
đời
của
cố
thi
sĩ.(Thích
Nguyên
Tạng)