Một
 câu hỏi thường được đặt ra đối với những người xuất gia trẻ chúng tôi 
là: Tại sao chú / thầy đi tu? Không biết các huynh đệ tôi trả lời thế 
nào, nhưng đối với tôi, câu hỏi ấy như là một câu Tham thoại đầu[1],
 không làm sao trả lời cho minh tường được. Câu hỏi ấy tôi cũng từng đặt
 ra cho chính bản thân mình, và có lẽ tôi đi xuất gia là theo tiếng gọi 
của Sư Phụ tôi, vị Ân sư khả kính; và cũng có lẽ là đi theo tiếng gọi 
của của nhân duyên tiền kiếp từ xa xưa vọng về.
Sự thật, lúc còn nhỏ ở nhà với bố mẹ, với anh chị em, nhà tôi ở đối diện
 với chùa Thiên Trúc và có nhiều thiện duyên với Phật pháp: Bố mẹ tôi 
đều là những Phật tử thuần thành, các anh chị em tôi đều được quy y ngay
 từ thuở mới lọt lòng. Hầu hết Bố mẹ và các anh chị em tôi đều thích đi 
chùa tụng kinh, lễ Phật, tham gia Gia đình Phật tử… và cả người em kế 
tôi cũng phát tâm đi xuất gia ngay từ khi tuổi còn rất nhỏ[2]
 ở ngôi chùa đối diện với nhà v.v… nhưng bản thân tôi lúc ấy lại không 
biết đi chùa lễ Phật, không biết tụng kinh, niệm Phật hay tham gia Gia 
đình Phật tử… ấy thế mà tôi lại đi xuất gia.
Vào một buổi chiều cuối đông năm 1994, lúc ấy tôi đang ở nhà. Sư chú em tôi[3] từ trong chùa chạy ra nói với tôi “Có ông Ngài Giác Ngộ trên Gia Lai về thăm chùa Thiên Trúc”.
 Ngài Giác Ngộ, ba tiếng nghe thân quen lắm, nhưng tôi chưa bao giờ một 
lần được diện kiến Ôn hay nghe tin tức gì về Ôn. Gia Lai, một địa danh 
xa xôi, tôi chưa bao giờ đặt chân đến… ấy vậy mà trong tôi nghe như có 
gì quen thuộc, vừa nghe xong câu nói ấy của chú em, trong tôi như rúng 
động cả tâm mình. Tôi liền đến bên mẹ tôi nói: “Má má, con đi tu nha”. Mẹ tôi ngạc nhiên nói: “Có mới nói, mày mà đi tu được thì tốt”.
 Chỉ có vậy, tôi bảo sư chú em tôi đưa tôi vào chùa Thiên Trúc để xin 
theo Ôn đi xuất gia, nhưng lúc ấy ông Ngài vừa rời chùa Thiên Trúc đi 
lên thăm tổ đình Thiên Đức. Về lại nhà, lấy vài bộ đồ, bỏ vào cái xách 
cũ, tôi cùng sư chú em tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ và đi lên tổ 
đình Thiên Đức. Lên đến nơi, quí Thầy ở tổ đình Thiên Đức cho hay, ông 
Ngài vừa lên chùa Hưng Long để dự lễ Chung Thất của ngài Hưng Long[4]
 rồi. Hai anh em tôi lại tiếp tục đèo nhau lên tổ đình Hưng Long. Tại 
ngôi tổ đình này, tôi được diện kiến ông Ngài và cầu xin theo Ôn xuất 
gia tu học, Ôn đã hoan hỷ nhận tôi làm đệ tử. Qua hôm sau, sau lễ Chung 
thất Trai tuần của ngài Hưng Long, Ôn lên thăm tổ đình Thập Tháp, đàm 
đạo với ngài Kế Châu, tôi cũng được phước duyên hầu ông Ngài và ngài Kế 
Châu hôm ấy. Sáng hôm sau, Ôn rời tổ đình Thập Tháp về lại chùa Bửu 
Thắng, Gia Lai, và tôi đã theo chân ông Ngài xuất gia tu học từ khi ấy. 
Sự
 xuất gia tu học của tôi quả là câu Thoại đầu đầy nan giải cho chính bản
 thân tôi, và cả gia đình tôi, ngay cả người mẹ thân yêu của tôi cũng 
không tin được. Bởi lẽ, nếu bảo tôi đi tu vì mến chùa, yêu luật Phật, 
thích kệ kinh, kính mến Thầy… thì đều này chưa thấy, nếu không muốn nói 
là ngược lại. Nếu bảo tôi chán đời, bạn bỏ… thì điều này không có, vì 
lúc ấy tuy đã 16, 17 tuổi nhưng thân thể tôi đẹt lét, nhỏ bé và vô tư, 
cho đến khi xuống tóc xuất gia vẫn phải để một chỏm tóc trên đầu… làm 
chú điệu rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh. Mãi đến tận bây giờ tôi cũng chỉ tự 
hiểu rằng, sự xuất gia ấy là đi theo tiếng gọi “vô ngôn” đã
 gieo trồng trong những đời kiếp trước, bước theo tiếng gọi và bóng hình
 khả kính của bậc Ân sư, Hòa Thượng thượng Giác hạ Ngộ.  
  
Nếu
 có ai hỏi rằng, trong cuộc đời tu học của tôi, ai là vị Thầy kính yêu 
và cao quí nhất? Tôi sẽ không chút do dự trả lời rằng đó là Sư Phụ tôi, 
HT. thượng Giác, hạ Ngộ. Trong hàng đệ tử của Ôn, có lẽ tôi là một trong
 những đệ tử có phước duyên được Ôn thương mến và dành cho nhiều ưu ái 
nhất. Xuất gia tại chùa Bửu Thắng chưa được một ngày, qua sáng sớm hôm 
sau, sau giờ công phu khuya đã được Ôn cấp cho một cuốn tập, tự tay Ôn 
ghi sáu chữ Hán: “毘 尼 日 用 切 要” (Tỳ ni nhật dụng thiết yếu), và Ông cắt nghĩa rõ rằng: Tỳ
 Ni là Luật, Nhật là ngày, Dụng là dùng, Thiết yếu là hết sức cần thiết.
 Nghĩa là Luật dùng cần thiết hằng ngày. Đây là tên của một bộ Luật cơ 
bản nhất của người xuất gia, Luật này sẽ giúp con thiết lập chánh niệm 
trong mọi sinh hoạt của đời sống hằng ngày, và thực hiện lý tưởng Bồ 
Tát, làm bất cứ việc gì cũng phải cầu nguyện cho mọi chúng sanh (Đương 
nguyện chúng sanh), v.v… Những ngày kế tiếp, mỗi ngày Ôn đều ghi một
 câu kệ bằng chữ Hán trong bộ luật Tỳ Ni. Hết bộ luật Tỳ Ni, Ôn lại dạy 
sang bộ luật Sa Di, rồi đến bộ Oai Nghi, rồi bộ Cảnh Sách. Bộ nào cũng 
được đích thân Ôn ghi từng chữ từng dòng, cắt nghĩa từng câu từng chữ và
 bắt chúng tôi[5]
 phải học thuộc lòng, phải cắt nghĩa từng chữ dịch lại cho Ôn nghe… Ngày
 nào cũng vậy, cứ đến 3h15 sáng là Ôn bấm chuông (3 hồi chuông điện) 
đánh thức mọi người dậy đánh răng súc miệng, rửa mặt, 3h 30 tôi đi đánh 
chuông (thầy Nhuận Nhàn thắp hương tất cả các bàn Phật, bàn Tổ, bàn 
Linh…) đến 4h, rồi lên tụng kinh Lăng Nghiêm đến 5h, 5h15 lên phòng Ôn 
học Luật khoảng 30 phút, sau đó thì đi quét dọn các phòng, tay trái cầm 
tờ giấy để học bài, tay phải thì cầm chổi quét… Thầy Nhuận Nhàn lúc này 
thì lo thổi lửa nấu nước, nấu cháo… (O Đắc vì lớn tuổi sáng dậy ko 
được), sau đó thì hầu Ôn và thầy Quảng Cố dùng sáng, dùng sáng xong thì 
đi tưới cây, học kinh, học nghi lễ,  bữa củi… đến trưa 11h hầu Ôn dùng 
cơm trưa, xong bưng mâm xuống dùng cơm, nghỉ trưa. Buổi chiều thì lại 
học bài, tưới cây, hay bữa củi…. đến 16h thì đi Thí thực, cúng Cô hồn, 
rồi dọn cơm chiều hầu Ôn… đến 19h là thời Công phu tụng kinh đến 20h30. 
Thời khóa sinh hoạt ấy là của Ôn qui định, tối không được thức khuya hơn
 21h30. Lúc đó tuổi Ôn ngoài 70, đã vượt khỏi cái tuổi Thất thập cổ lai hy, nhưng
 thời khóa sinh hoạt của Ôn cũng ít Thầy trẻ tuổi nào theo kịp. Không 
những Ôn hướng dẫn chúng tôi tu học những kinh luật, nghi lễ, mà Ôn còn 
chăm lo cho chúng tôi từng miếng ăn cái mặc, có những bánh kẹo hay sữa 
đường của Phật tử nào cúng cho Ôn, thì mỗi sáng Ôn dạy luật xong, hay 
buổi tối tụng kinh xong là Ôn đều đem ra cho chúng tôi dùng, thậm chí Ôn
 còn quan tâm đến những bước chân chúng tôi, đi sao phải nhẹ nhàng, 
khoan thai, không được kéo lê đôi dép, hay vừa đi vừa chạy. Cũng nhờ 
cách chỉ dạy, sinh hoạt đúng thời khóa, và sự chăm sóc của Ôn mà tôi 
thật chóng lớn cả thể xác lẫn tinh thần. Hình ảnh của Ôn vừa nghiêm nghị
 như một người cha, lại quan tâm để ý, nhắc nhở và chăm sóc chúng tôi 
như một người mẹ hiền. Cho mãi đến tận bây giờ, tôi đã đi thật nhiều nơi
 trong nước, thậm chí cả nước ngoài, tôi thật ít thấy có vị Thầy nào tận
 tình chu đáo như Ôn vậy, thời khóa Ôn dạy và sinh hoạt cho một chú tiểu
 như tôi thuở ấy, cũng ít có nơi nào so sánh được. Quả thật tận trong 
đáy lòng tôi, chưa có vị Thầy, hay Giáo sư tiến sĩ nào có thể thay thế 
bóng hình Ôn được. 

Người thế gian, những người chưa hiểu được cuộc sống Thiền môn, họ thường cho rằng: Đi tu hay xuất gia là chôn vùi tuổi thanh xuân, đánh mất lý tưởng cuộc sống…
 lối suy nghĩ ấy quả là thiển cận, thiếu hiểu biết và lệch lạc. Họ có 
biết đâu rằng sự nỗ lực làm việc và tu học của một vị xuất gia còn hơn 
người tại gia đến mấy lần, và lý tưởng của người xuất gia thì mênh mông 
và cao siêu không lường được. Lý tưởng không phải sống vì mình, mà phải 
học cách sống vì người, vì chúng sanh; không phải sống chỉ biết đời này,
 mà phải có sự quán chiếu về đời trước, và đời sau v.v… Một chú tiểu như
 tôi thời ấy, nếu ở nhà chỉ biết theo học các lớp phổ thông, và nhỏng 
nhẻo với bố mẹ… nhưng xuất gia rồi thì ngoài học phổ thông, phải học 
Luật, học kinh điển, giáo lý, nghi lễ, còn phải công phu, chấp tác, hầu 
thầy… Hình ảnh của một chú tiểu để chóp trên đầu đã thức dậy từ lúc 3h15
 sáng trong cái lạnh giá buốt canh khuya của miền Cao nguyên trung phần,
 tay cầm chùy đánh lên những tiếng đại hồng chung thức tỉnh cả thiên hà,
 miệng đọc lên những câu kệ tỉnh thức, để nguyện cầu cho mọi người và 
cho cả những chúng sanh đang chịu khổ đau trong địa ngục tăm tối, quả là
 đã bắt đầu thực hiện lý tưởng Bồ Tát đối với cuộc đời.
Đã
 hơn 20 năm theo học các lớp phổ thông ngoài đời, các lớp trung học, đại
 học, rồi cao học Phật giáo… ở trong và ngoài nước, tôi đã từng thân cận
 và học hỏi với nhiều bậc thầy khả kính và mô phạm; nhưng với tôi, ông 
Ngài, bậc Ân sư khả kính vẫn là bậc thầy mô phạm nhất. Điều ấy không 
phải là nhận xét theo thiên kiến của sư đồ, mà trên tiêu chuẩn của một 
nhà giáo dục. Tôi còn nhớ rõ, vào chùa mới được vài hôm, kinh thì chưa 
thuộc, thậm chí bài chú Đại bi, chú Bát nhã… cũng chưa thuộc, nhưng Ôn 
chỉ dạy tôi học Luật. Mỗi thời Công phu tối, nhìn các bác Kiên, cô Cán, 
cô Mười… tụng kinh làu làu, lòng tôi ái ngại, kính cẩn thưa Ôn cho con 
học kinh trước, Ôn liền bảo: “Nghi tiên học Luật, hậu học Tu đa la”
 nghĩa là trước tiên phải học luật, sau mới học kinh điển, thời gian 
rảnh mới học kinh, bởi giới luật là nền tảng của Phật pháp, là thọ mạng 
của Phật giáo… Sau này tôi mới nhận ra câu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” cũng chỉ là ý nghĩa thu nhỏ, mô phỏng lại lời dạy “Nghi tiên học Luật, hậu học Tu đa la” mà
 chư Phật, chư Tổ đã dạy từ cách đây đến mấy ngàn năm. Và một nhà giáo 
dục mô phạm phải dạy học trò của mình trên nền tảng ấy. Dưới sự chỉ dạy 
và hướng dẫn của Ôn, chỉ sau một năm, chúng tôi đã làu thông 4 bộ luật 
(Tỳ ni – Sa di – Oai nghi- Cảnh sách), thuộc cả chữ Hán và ý nghĩa của 
từng chữ… bên cạnh ấy cũng thuộc luôn kinh Lăng Nghiêm, kinh Di Đà, Thập
 Chú, những cách thức tán tụng, lễ nghi v.v…
Lúc
 chúng tôi còn học ở Tu Viện Nguyên Thiều, cứ mỗi năm đến dịp Tết là 
Trường được nghỉ, về lại chùa để đón Xuân, lo công việc trong những ngày
 Tết. Sau rằm tháng Giêng lại từ giả Ôn để tiếp tục đi học lại. Lần đó, 
chúng tôi y áo lên đảnh lễ Ôn để xuống Tu Viện học, Ôn dạy: Hai con[6]
 thấy đó, chùa không có người, rất ít Tăng và điệu chúng để lo mọi việc 
của một ngôi chùa Tỉnh (ngôi chùa lớn nhất tỉnh Gia Lai lúc bấy giờ)… 
nhưng Thầy phải cho hai con đi học, do vậy hai con phải cố gắng tu học 
thật tốt. Hai con nên biết, nếu hai con có làm gì nên tội, tội đó là do 
nơi Thầy; bởi một vị Thầy mà có những đệ tử hư hỏng, làm chuyện phá đạo…
 tội của vị thầy ấy nặng bằng tội của người đồ tể (người chuyên giết các
 loài thú vật như heo, bò… để bán), v.v… Lời dạy ấy còn vang mãi bên
 tai chúng tôi đến tận bây giờ, và có lẽ, chúng tôi sẽ không sao quên 
được. Tâm huyết của một bậc Thầy, với tinh thần và trách nhiệm cao cả 
đến dường ấy, đi cả cuộc đời này không dễ gì mấy ai có duyên may để tìm 
được một bậc Thầy như Ôn vậy.
Trong rất nhiều kinh điển Phật giáo, nhất là các Kinh Trường Bộ, Trung Bộ… đều có đề cập đến sáu loại thần thông[7],
 nhưng đức Phật luôn đề cao một loại thần thông khác, mà ý nghĩa của nó 
được đức Phật nhấn mạnh là siêu việt hơn, đó là Giáo hóa thần thông. 
Giáo hóa, thuật ngữ tương đương là giáo dục, giáo dục con người bằng hai
 cách: thân giáo và khẩu giáo, và trong hai loại này, thân giáo luôn 
được đề cao hơn khẩu giáo. Những ai đã từng diện kiến, gặp gỡ và sống 
với Ôn, chắc chắn họ sẽ nhận ra ở nơi Ôn một thân giáo nghiêm minh và 
chuẩn mực. Những năm Ôn đã 70, và 80 tuổi, nhưng sự hành trì giới luật 
nghiêm minh, công phu tu tập và hướng dẫn hàng Tứ chúng[8]
 tu tập của Ôn ít ai sánh bằng: Ôn thức dậy trước 3h sáng, súc miệng, vệ
 sinh, đánh thức cả chùa dậy, rồi thọ trì kinh điển, đến 5h thì dạy kinh
 luật cho các đệ tử, 6h đọc sách hay nghe Radio, 7h tiểu thực, 8h đến 
11h (hay 13h đến 17h) hoặc thọ trì kinh điển, hoặc nghiên cứu kinh luật,
 bữa củi, làm vườn, hay ứng phó đạo tràng… 17h30 dược thực, 18h nghe 
Radio, 19h thọ trì kinh bộ… Quả thật thời khóa của một bậc cao niên như 
vậy, hàng hậu bối chúng con cũng ít người theo được. Con còn nhớ, cách 
đây khoảng 8 năm, lúc ấy Ôn đã 78 tuổi mà Ôn phát nguyện thọ trì bộ kinh
 Đại Bát Nhã 600 cuốn, bằng tiếng Hán, ngày đêm sáu thời, tụng liên tục 
đến cả một năm trời, không bao giờ Ôn bỏ thời khóa, chỉ trừ những khi có
 công việc đặc biệt, hay bệnh duyên… thì Ôn mới tạm nghỉ một vài thời. 
Ngoài thời khóa niên mật ấy, Ôn còn lo bao nhiêu việc Phật sự khác.
Những
 thầy bạn đồng tu học của chúng tôi (thầy Quảng Phát, Nhuận Nhàn, Đức 
Thi…), lúc còn học ở Tu Viện Nguyên Thiều, nghe nói đến chùa Tỉnh Hội 
Gia Lai, đến Phố núi cổng trời… đều muốn đến thăm cho biết, và khi đã 
đến rồi, ấn tượng khả kính và hình bóng uy nghiêm của Ôn sẽ in đậm trong
 tâm những vị thầy trẻ ấy không nhòa được. Câu nói đùa mà thật của các 
thầy ấy là: Đến cao nguyên Gia Lai, ở chùa Tỉnh Hội, sáng 
sớm trời lạnh, ngủ mà quên dậy Công phu khuya (tụng kinh Lăng Nghiêm) sẽ
 không có tiền về xe! 
Đức
 tánh nghiêm minh thọ trì giới luật, kinh điển của Ôn luôn là thân giáo 
cao cả cho hàng Tứ chúng noi theo từ Gia Lai, Bình Định cũng như nhiều 
tỉnh khác. Một đức tánh cao cả của Ôn mà ít người có được, đó là Ôn vừa 
tiết kiệm hết mức, lại vừa rộng lượng đến không ngờ. Ôn không bao giờ bỏ
 đi bất cứ một cái gì, dù là cái đinh cũ, nhánh củi khô… tất cả đều được
 Ôn nhặt lấy cất đi, đợi khi dùng đến, không bao giờ bỏ phí. Ôn thường 
bảo: Mọi vật dụng đều là mồ hôi, nước mắt của tín thí đàn na, người tu hành tuyệt đối không được phí phạm.
 Nhưng ngược lại, sự rộng lượng là Ôn có thể ủng hộ hàng vài chục triệu 
để giúp các chùa xây dựng, ủng hộ cho các bệnh nhân nằm bệnh viện, giúp 
đỡ người khó khăn… hay cho hàng đệ tử chúng tôi đến cả vài nghìn Mỹ kim 
để đi học trong và ngoài nước. Quả thật, mỗi một việc làm rất nhỏ của Ôn
 như nhặt những chiếc đinh cũ rơi, những viên gạch vụn… cho đến những 
đức tánh cao thượng… đều là những bài học vô giá, vô ngôn mà hàng Tứ 
chúng luôn nhìn theo, noi gương để học tập. 

Trong
 cuộc sống của kiếp nhân sinh, đã mang xác thân tứ đại ngũ uẩn, ai cũng 
phải trải qua bốn giai đoạn: sanh, già, bệnh, chết. Có khác chăng là tùy
 theo nghiệp duyên trong những kiếp trước của mình, có người nhiều bệnh 
hay ít bệnh, người trường thọ, kẻ chết yểu… Từ khi xuất gia đến năm Ôn 
gần 80 tuổi, khoảng thời gian ấy, thân tứ đại của Ôn tráng kiện vô cùng,
 thân thể phương phi, dáng người to khỏe, Ôn thức khuya, dậy sớm công 
phu tu tập, tinh chuyên giới luật, dạy bảo đồ chúng, dấn thân phục vụ: 
từ Thiên Trúc Bình Định đến Pháp Lâm Đà Nẵng; từ Tu Viện Nguyên Thiều 
đến Long Khánh Qui Nhơn, hay từ Thập Tháp Bình Định đến Tỉnh Hội Gia 
Lai… sự tinh tấn, hành trì và dấn thân của Ôn ít bậc trưởng thượng nào 
bì kịp. Những năm 80 tuổi trở đi, thân Ôn mang nhiều bệnh duyên: từ bệnh
 phong đến huyết áp, tiểu đường… những bệnh duyên hiểm nghèo ấy luôn 
hành hạ thân xác Ôn làm hàng Tứ chúng cũng đau lòng, xót dạ.
Những
 người sơ cơ, chưa hiểu về Phật pháp, không ít người nghi ngờ về đạo 
hạnh tu tập của Ôn, đôi khi họ còn đặt lên nghi vấn: Tại sao một bậc tu 
hành cao Tăng thạc Đức như Ôn vậy, lại mang nhiều bệnh duyên khổ sở? 
Nhưng họ có biết đâu: Đức Thế Tôn còn thọ Kim thương mã mạch,
 hay thị hiện tật bệnh để chứng nhập Niết bàn, Bồ Tát Duy Ma còn ngọa 
bệnh để thuyết pháp độ sanh, tôn giả Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất 
cũng chịu nạn đánh nát nhừ thân thể đến chết để trả những nghiệp xấu 
trong tiền kiếp xa xưa, ngài An Thế Cao[9]
 còn thọ quả báo kinh hoàng, ngài Ngộ Đạt Quốc Sư còn thọ bệnh mục ghẻ 
hình người đau nhứt kinh hồn, phải bỏ chùa ra đi để cầu tôn giả Ca Nặc 
Ca dùng nước Từ bi xóa sạch oan nghiệp… Sự mang những bệnh duyên của Ôn 
để trả những nghiệp xấu trong tiền kiếp là điều không nghi ngờ được. 
Nhưng những ai chứng kiến sự ra đi của Ôn sẽ kính phục bội phần, một sự 
ra đi an lạc, nhẹ nhàng và thanh thản mà ngay cả những người hầu cận 
chăm sóc Ôn như chúng tôi cũng không ngờ đến được.
Trước
 ngày Ôn Viên tịch khoảng 20 ngày, lúc đó bệnh duyên Ôn trở nặng cực 
điểm, các y bác sĩ đều hết cách chữa trị, họ đã thông báo người thân 
chuẩn bị hậu sự cho Ôn, tất cả môn đồ pháp phái của Ôn từ các nơi đều 
quay về bên Ôn. Lúc ấy đang học bên đất Ấn, nghe tin hết sức bàng hoàng,
 tôi liền lấy vé máy bay, bay về gấp. Về đến nơi, những ngày sau đó Ôn 
dần dần tỉnh lại. Mười ngày sau, bệnh của Ôn lại chuyển nặng, lần này 
thì vạn tử nhất sanh, các Bác sĩ cho hay lục phủ ngũ tạng của Ôn đã bị 
hư hết, tay chân co giật, tim và mạch cũng bắt đầu ngưng trệ, huyết áp 
cũng tụt xuống mức báo động, phải dùng thuốc để duy trì, phân đen đã 
xuất hiện[10]
 nhiều ngày, v.v… sắc diện đã nhợt nhạt, hơi thở gấp gáp, đôi mắt và môi
 không còn hoạt động… mọi hậu sự đã chuẩn bị xong, hàng Tứ chúng tập 
trung lại bên Ôn luân phiên niệm Phật suốt ngày đêm không dừng nghỉ… 
nhưng sau đó Ôn dần tỉnh lại. Những ngày sau đó, mọi việc diễn ra với Ôn
 thật bất ngờ: hơi thở Ôn đã điều hòa lại, sắc diện hồng hào, tay chân 
cử động và mềm mại ra, đôi mắt đã hoạt động và nhìn thấy được… Sự bất 
ngờ đến độ Bác sĩ Mỹ, phó giám đốc bệnh viện tỉnh Gia Lai, vị Bác sĩ 
Phật tử nhiệt tâm, tận tình phụ trách mọi bệnh tình của Ôn cũng vui mừng
 khôn tả, và cho hay Ôn sẽ còn ở lại với chúng ta một thời gian dài nữa…
 
Ba
 ngày sau, hôm ấy là tối ngày 13 tháng 10 âm lịch, đêm ấy là đêm cuối 
của Ôn, tôi có phước duyên được hầu Ôn đêm ấy. Đêm ấy Ôn tỉnh táo lạ 
thường, khi làm vệ sinh, thay đồ, đổi ra gường… cho Ôn, tôi và thầy 
Nhuận Trí, cùng anh Khoa Phật tử còn giỡn đùa với Ôn rất vui, còn nói 
bên tai Ôn: Ôn cố gắng dùng sức đưa phân trong người ra cho hết sẽ nhẹ bụng,
 và Ôn đã đi giải thật nhiều… sau đó Ôn nghỉ thật bình an. Sáng hôm sau,
 một ngày đẹp trời ngày 14 tháng 10 âm lịch, sắc diện Ôn vẫn hồng hào, 
tay chân mền mại cử động nhẹ nhàng, đôi mắt vẫn nhìn thấy được… mọi việc
 thật bình an và tốt đẹp. Tôi lên chào thăm Ôn và xin phép quí thầy để 
vào chùa Mỹ Thạch Chư Sê lo công việc chùa và hướng dẫn Phật tử lạy sám,
 tu tập... Thầy Đức Thi thì xin phép về chùa Bửu Hải để lo mọi việc, 
chuẩn bị lễ Bổ Nhiệm Trụ Trì… Khi rời chùa khoảng 10 phút, tôi nhận được
 điện thoại của thầy Nhuận Nhàn báo về gấp, vì Ôn mới Viên tịch, tôi cứ 
tưởng là thầy Nhuận Nhàn đùa, nhưng ngờ đâu, đó là một sự thật !!!
Một
 điều làm mọi người hết sức kính ngưỡng trong hàng Tứ chúng và cũng là 
điều là các y bác sĩ ngạc nhiên là: những năm tháng ngọa bệnh, tay chân 
Ôn cứng ngắt và co quắp lại không dễ gì co kéo cho thẳng ra được, hơn 
nữa khoảng một tuần trước khi viên tịch, thì thần sắc Ôn lu mờ, hơi thở 
gấp gáp, môi miệng nhợt nhạt, đôi mắt không hoạt động được…. ấy vậy mà 
khoảng 3 ngày trước khi viên tịch, thần sắc Ôn tươi tỉnh lại, tay chân 
mền mại, đôi mắt có thần và nhìn mọi người được, đôi môi đỏ lại… và Ôn 
đã tự tại ra đi vào một buổi sáng đẹp trời ngày 14 tháng 10 âm lịch, ra 
đi trong một trạng thái yên tịnh, tỉnh giác, nhẹ nhàng; ra đi tự tại, an
 lành giữa một không gian và thời gian rất tốt đẹp như vậy. Thú thật, 
trước kia, đôi khi chúng tôi cũng đau buồn vì nghiệp duyên của Ôn trong 
quá khứ nên mới thọ lãnh những bệnh duyên nan y như vậy. Nhưng giờ đây, 
chúng con kính phục vô vàn, vì Ôn tuổi cao sức kiệt, lại mang những bệnh
 duyên đau nhứt toàn thân, nhưng những ngày cuối cùng, những giờ phút 
sau cùng Ôn đã chiến thắng mọi tật bệnh, vượt qua những thử thách to 
lớn, trả hết mọi nghiệp duyên, để xả bỏ xác thân giả tạm, ra đi an nhiên
 với một phong thái tự tại, vô quái ngại, đó quả là một việc bất khả tư 
nghì. Thậm chí đến khi thần thức Ôn đã giả từ thân xác giả tạm, nhưng 
nhục thân Ôn vẫn tươi tắn, hồng hào, toàn thân mền mại cho đến lúc nhập 
vào kim quan. Khi viên tịch, Ôn nằm một cách an tường, tự tại, nếu tình 
cờ gặp Ôn nằm như vậy, chắc không ai tin là Ôn đã viên tịch rồi! Tất cả 
những điều ấy là sự kiện khó nghĩ bàn, chúng con không sao suy nghĩ đến 
được. Quả thật, nơi một bậc Chân tu suốt đời nghiêm trì giới luật, thọ 
trì kinh điển, phụng sự đạo pháp, tiếp dẫn hậu lai… nơi một bậc đã liễu 
đạo thì sống và chết là một, bệnh với không bệnh như nhau, làm sao chúng
 con có thể đem tâm niệm phàm phu của mình để suy lường sự sống chết của
 một hóa thân Bồ Tát.
Suốt
 cuộc đời hành đạo, Ôn ít nói nhưng làm thật nhiều và luôn dùng thân 
giáo để cảm phục mọi người. Những tháng ngày thọ nhận bệnh duyên, tuy Ôn
 không nói được, nhưng qua sự xả bỏ báo thân một cách an tường tự tại, 
siêu việt mọi bệnh duyên của Ôn… tất cả là những bài pháp sinh động, vô 
ngôn và vô giá. Chúng con đã cảm nhận được phần nào về Di huấn vô ngôn 
của Ôn đã âm thầm truyền trao. Chúng con nguyện luôn luôn khắc ghi Di 
huấn vô ngôn ấy vào trong tận tâm trí, để luôn nhắc nhở mình dù gặp bất 
cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng phải cố gắng vượt qua để đạt sự an tường 
tự tại. Dù thân thể của Ôn có suy lão với muôn ngàn bệnh duyên trói 
buộc, Ôn cũng đã phấn đấu đến cùng, dùng định lực bi trí tu tập của mình
 để đạt đến sự thanh thản, an nhàn giải thoát mọi ràng buộc, hệ lụy của 
kiếp sống nhân sinh. Qua sự ra đi một cách an tường và tự tại như vậy, 
chúng con tin chắc rằng, Ôn sẽ nhanh chóng tái sanh trở lại để tiếp tục 
hạnh nguyện của một bậc Thích tử trượng phu, thực hiện lý tưởng Bồ Tát, 
báo Phật ân đức, tiếp dẫn hậu lai.
                                                  Gia Lai ngày 26 tháng 10 Canh dần
                                                                 Đệ tử Ôn kính bút
                                                                  T. Quảng Phước
[1]
 Câu hỏi Thiền ngữ không thể dùng, khối óc, tư tưởng, hay suy nghĩ… để 
trả lời được, chỉ khi nào Giác ngộ rồi mới có câu trả lời đích thực.
 
[2] Thầy Đức Quang bây giờ, xuất gia năm 12 tuổi.
 
[3] Thầy Đức Quang bây giờ.
 
[4]
 Ngài Hưng Long là Sư phụ TT. Thích Đồng Hạnh (TT. Thích Đồng Hạnh là Sư
 Phụ thầy Nhuận An, trụ trì tổ đình Hưng Long, Phước Hưng, Bình Định).
 
[5] Tôi và thầy Nhuận Nhàn.
 
[6] Tôi và thầy Nhuận Nhàn.
 
[7] Thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mệnh thông, tha tâm thông, và lậu tận thông.
 
[8] Quí Thầy, quí Cô, Phật tử nam và Phật tử nữ. 
 
[9] Xem: Lược sử Đại Sư An Thế Cao trong bộ Cao Tăng Truyện và Phật Quang Đại Từ Điển.
 
[10] Theo sự cho biết của các Bác Sĩ, người bệnh nặng, lục phủ ngũ tạng đã hư, phân đen xuất hiện thì chuẩn bị lìa cõi thế.