Khoảng
năm 1970, sư cụ Đỗng Quán đưa mấy anh em chúng con (ở chùa Tịnh Liên) về thăm
chùa Thập Tháp, đảnh lễ ngài Kế Châu, lúc đó trong phương trượng có ngài Gíac
Ngộ. Thật ra lúc đó con chỉ biết thoáng qua, bởi anh em chúng con, đảnh lễ quý
ngài rồi đi ra bên ngoài. Đây là lần đầu tiên con được gặp ôn.
Trên
đường trở về chùa Tịnh Liên, sư cụ Đỗng Quán hỏi anh em chúng con có biết đó là
thầy nào không ? (Đây là một đặc điểm của cụ Đỗng Quán, sau khi đưa đi thăm
viếng ở đâu, cụ thường kể cho chúng con sơ qua về địa danh và nhân vật vừa mới
gặp). Sư cụ Đỗng Quán kể cho chúng con biết hai ngài mà chúng con vừa đảnh lễ
đó là ngài Kế Châu, mọi người thường gọi là ngài Thập Tháp, còn ngài Gíac Ngộ
thường gọi là thầy Thiên Trúc. Sau lần đó con đi học xa không có dịp gặp lại ôn.
Những
năm từ 1970 đến 1974, chiến cuộc ngày càng lan rộng, dân chúng từ các vùng nông
thôn xa xôi, phải bỏ quê hương, nhà cửa, ruộng vườn kéo nhau về phố thị mong
tìm sự bình yên, trong đó có tăng chúng Tổ đình Thắng Quang, một trong những
nơi họ chọn đến là Pleiku. Vậy là trong kỳ nghỉ hè năm 1974 con lên Pleiku thăm
người anh là thầy Hạnh Phương đang ở chùa Quang Minh. Từ Bình Định lên Pleiku, con
đến chùa Tỉnh hội, được chú Lượng hướng dẫn đến đảnh lễ ôn . (lúc đó ôn trú trì
chùa Tỉnh hội) . Dáng người đẫy đà, chắc nịch, với chiếc áo nhật bình bình dị, ôn
đáp lại chào hỏi của con bằng nụ cười và cái gật đầu cùng vài câu hỏi thông
thường. Đây là lần thứ hai con gặp thầy Thiên Trúc.
Sau
ngày thống nhất non sông, con về ở tại chùa Quang Minh, Pleiku và thường xuyên
gần gũi, học tập với ôn. Những mùa an cư kiết hạ các thầy được học với ôn các
môn: Pháp sự khoa nghi (học nghĩa), Sa di luật giải, Quy sơn cảnh sách, Duy
thức phương tiện đàm, luật Tứ phần, luật Trùng trị, Bồ Tát giới kinh … Mỗi lần
dịch xong một đoạn, ôn thường mĩm cười và nói : có thầy nào dịch lưu loát hơn
không ? Ngoài ra ôn còn hướng dẫn cách xướng tụng Hoa Nghiêm tự mẫu và Phổ am.
Ôn thường động viên các thầy chia xẻ những kinh nghiệm tu tập với đại chúng.
Thời
gian tham gia công tác Giaó hội, mỗi lần có việc không giải quyết được, con
thường đến xin ôn chỉ giáo, hay có lúc ôn cho gọi về chùa Bửu Thắng để hỏi han,
nhắc nhỡ công việc. Những lúc đàm đạo, ôn thường tâm sự: Các thầy còn sức khỏe,
phải chung lo công tác của Gíao hội, tôi lúc nào cũng là một tu sĩ sinh hoạt
trong lòng Gíao hội.
Thời
gian vẫn trôi, cuộc thế vô thường … Ngày ôn lâm bệnh, nhớ lời ôn dạy ngày nào :
“ Thăm bệnh là sự động viên tinh thần rất có ý nghĩa để người bệnh vượt qua
bệnh tật ”. Đến thăm ôn tại bệnh viện, năm lấy bàn tay xương xẫu của ôn, nhìn
ánh mắt từ hòa của ôn … trong con bao
nhiêu ký ức lại hiện về : Mới ngày nào cùng ôn đi làm rẫy ở chùa Bửu Quang,
cùng ôn đi dự hội họp, cùng ôn đi chùa Hương
… thế mà 35 năm đã đi qua. Ôi ! sự nghiệt ngả của vô thường, soi gương
nhìn lại bỗng thấy mình tóc trên đầu đã
hoa râm !
Ghi lại
những ký ức về ôn như một nén tâm hương, giữa muôn trùng diệu vợi, ôn bây giờ
như áng mây từ buông tỏa giữa thái không tĩnh lạc và bao dung, dịu dàng như
giọt nước cành dương, chúng con mãi rong chơi trên muôn vạn nẽo đường, mong đợi ánh từ quang
như đêm dài đón chờ ánh bình minh đến.
Ôn là
thầy Thiên Trúc.