Sự nghiệp tu
tập và hoằng dương Chánh pháp của Ngài là một tấm gương sáng cho hàng Tăng ni
và Phật tử noi theo. Hình ảnh của Ngài như một ngọn gió mát, như vầng trăng
sáng chiếu soi trong đêm trường mờ mịt.
Từ Bình Định Ngài lên Pleiku – Gia Lai hành đạo trong
giai đoạn tổ quốc vừa thống nhất. Sau
năm 1975 đất nước còn nghèo, dân còn khổ ! Do vậy đạo pháp cũng cùng chung số
phận. Giai đoạn chuyển tiếp này mà nếu không có cơ trí, không biết quyền biến
uyển chuyển để sống và làm phật sự, thì coi như bế tắc.
Thật lạ thường thay! Dù cuộc đời có gió táp, mưa sa
thì Ngài vẫn như một tượng vương, oai nghi đĩnh đạc; luôn xứng danh là bậc mô
phạm cho Tăng ni và Phật tử ở vùng cao này. Không những thế, lời nói của Ngài
luôn đi đôi với việc làm, trước sau như một, không sợ gian lao, không từ khó
nhọc. Ôi! Cuộc đời của Ngài từ khi xuất gia cho đến ngày thâu thần thị tịch,
hơn 60 năm hành đạo như một bài thơ tuyệt tác .
Trong thời đại khó khăn của đất nước, Tăng ni còn khổ,
Phật tử còn nghèo, Ngài y theo lời Tổ dạy: “Nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực”, Hoà thượng không những khuyến khích Tăng
ni, Phật tử siêng năng lao động mà đích thân Ngài cũng lao động một cách hăng
say. Lúc đó, hàng Phật tử vì quá thương mến Ngài thấy vậy nhiều người không cầm
nước mắt. Nhớ lại ngày ấy Hoà Thượng đã từng mang thùng, đi xin từng thùng
phân, gánh về tưới su su, bắp cải….
“Thích
tử với danh xưng bần đạo,
Thân có bần
chứ đạo có bần chi.
Bần biểu hiện
áo khâu áo vá,
Đạo không bần
tâm chứa Như ý châu.”
Có giai đoạn Hoà Thượng lên Chùa Bửu Nghiêm cuốc đất
trồng lúa và khoai (bởi diện tích chùa
Bửu Nghiêm khi đó còn khá rộng) .
Một hôm, vào bữa cơm trưa, có đạo hữu
nhìn mâm cơm đạm bạc nói đùa rằng: “Người
ta ngồi mát ăn bát vàng, còn quý Thầy chỉ ăn cơm độn ( ghé) với su su chấm muối. Mà sao độn (ghé) nhiều
vậy?” Lúc đó, tôi trả lời: “Độn (ghé) khoai, sắn ít chứ độn (ghé)
nhiều thì cũng mạt, lắm người không có khoai mà độn (ghé) nữa kìa”. Ăn xong
mời Hoà Thượng vào chùa nghỉ, Ngài nói: “Mình
mẩy lấm lem, thôi để tôi ngồi đây nghỉ một chút rồi làm luôn cho tiện”. Làm
việc rất cực nhọc, vất vả nhưng Ngài vẫn an nhiên tự tại, sáng đi tối về. Và
Ngài còn luôn nhắc nhở các thầy, các chú phải xem lao động là nghĩa vụ; lao
động là niềm vui đạo vị ! Tổ Bách Trượng đã từng dạy như thế mà !
Ngài là vậy, mặc dù trải qua những thăng trầm, bão táp
của thời cuộc nhưng bản lãnh và ý chí phi thường của Ngài đã vượt qua tất cả để
trở thành một tấm gương sáng cho chúng ta hôm nay.
Về phần tu tập, hướng dẫn cho Tăng ni, Phật tử thì
Ngài luôn nhắc nhở, giáo huấn hết lòng. Nhất là vào những tháng an cư, Ngài
luôn ân cần sách tấn cho hai giới: Xuất gia và tại gia, phải biết thúc liễm
thân tâm, tinh cần tu học trong ba tháng hạ mà Đức Phật đã chế. Riêng hàng cư
sĩ thì Ngài luôn mở khóa tu Bát Quan
Trai để cho họ có cơ hội thực tập tu tập theo hạnh người xuất gia, và có tư
lương sanh về Tịnh Độ.
Thời gian thấm thoát đã mấy mươi năm, nay thì Ngài đã
an nhiên về cõi Phật để lại niềm thương nỗi nhớ cho Tăng ni, Phật tử ở miền đất
đỏ Tây Nguyên này. Tuy Ngài đã xả báo thân để trở về với bản thể chân như nhưng
hình bóng của Ngài luôn in đậm vào tâm trí của Tăng ni và Phật tử chúng con.
Cả
một đời Ngài lặng lẽ làm phật sự, làm mà không vướng bận. Phủi tay rũ áo nhẹ nhàng ra đi, tựa như bài thơ của
Thiền Sư Hương Hải:
Nhạn
quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Thiền
sư Hương Hải (1627-1715)
Nhạn và Bóng
Nhạn vút qua không
Bóng chìm nước lạnh
Để dấu: nhạn không có ý
Giữ bóng: nước cũng vô tâm
Võ Đình (1933-2009)
Kính bạch Giác linh Hoà Thượng! Hãy mỉm cười cho chúng
con,vì đã nhắc lại những điều mà Ngài cho
là vụn vặt. Tuy nhiên những chuyện vụn vặt đó chính là những hạt nắng, những
hạt mưa, là chiếc lá vàng rơi, điểm tô
trên mặt đất. Với chúng con, những hồi
ức đó là những kỷ niệm khó phai. Mãi mãi
chúng con không bao giờ quên được bài học thân giáo của Ngài. Ôn lại một vài kỷ
niệm nhỏ, để nhớ đến nhân cách lớn của Ngài, để soi chiếu nhắc nhở Tăng Ni Phật
tử chúng con trên đường hoằng dương đạo pháp.
Cầu nguyện Giác linh Hoà Thượng cao đăng
Phật quốc, sớm trở lại cõi Ta bà để nhiếp hóa
chúng sanh.
Nam mô A Di Đà Phật
Hòa Thượng Thích Từ Hương