Chương 6: Phụ nữ và xã hội
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội trọng nam khinh nữ thời đức
Phật tại thế, được Ngài đề cập trong nhiều bài thuyết pháp khác nhau.
Nơi mà một bé gái sinh ra bị xem là một thảm họa, đức Phật đã dạy rằng:
“Có một số thiếu nữ, thưa đức vua, đôi khi còn tốt hơn con trai. Vì
thiếu nữ ấy khi trưởng thành, có trí tuệ và đức hạnh, được cha mẹ chồng
vị nể. Rồi sinh được con trai, là anh hùng quốc chủ của một quốc
gia”(1). Ngài đã nói lời này cho đức Vua Pasedani nước Kosala, người
đang thất vọng vì nghe tin hoàng hậu hạ sanh công chúa.
Theo tư tưởng Phật giáo, người phụ nữ không được xem như là một phần
của người chồng, cũng hoàn toàn không phải là tài sản hay thuộc sở hữu
của người chồng. Phật giáo giải phóng phụ nữ thoát khỏi tình trạng vật
sở hữu để tồn tại một cách độc lập trong xã hội. “Phật giáo cho rằng,
những người phụ nữ như: Người độc thân, có chồng, góa phụ thì không có
giới hạn về quyền và bổn phận của họ đối với việc sinh con hay nuôi con,
và họ là một phần không thể tách rời của xã hội”(2).
Chức năng làm mẹ là bản chất đặc trưng của tất cả giống cái, là thiên
chức của người phụ nữ. Một cô gái trẻ sẽ trở thành người mẹ tương lai,
rồi có người đang làm mẹ và những người đã làm mẹ. Thậm chí, ngay cả
người không thể có con thì họ vẫn có đó thiên chức làm mẹ. Do vậy, đối
với những phụ nữ độc thân vẫn được xã hội kính trọng như bao phụ nữ
khác.
Đức Phật dạy rằng, phụ nữ cũng có khả năng chứng quả giải thoát như
nam giới. Một lần nọ, Ngài đã trả lời về câu hỏi có liên quan đến phụ nữ
của vị thị giả Ānanda:
“Này Ānanda, chư Phật ra đời không chỉ đem lại lợi ích cho nam giới
mà còn đem lại lợi ích cho nữ giới. Khi Ta thuyết kinh Tiro Kudha, đã có
nhiều phụ nữ chứng ngộ đạo quả. Hay khi nói kinh Adhidhamma ở Tantía,
có nhiều phụ nữ thuộc giai cấp cùng đinh chứng quả, chứ không phải những
phụ nữ thuộc giai cấp cao hơn như thương gia hay Sát-đế-lợi. Cánh cửa
giải thoát rộng mở cho nam lẫn nữ giới mà không có bất cứ sự phân biệt
nào”(3).
Khi chồng của mình xuất gia trở thành một vị tỷ kheo trong Tăng đoàn
của Phật, người vợ đó đã từng cảm thán như sau: “Đức Phật hiện ra nơi
đời không chỉ lợi ích cho nam giới mà còn cho cả nữ giới chúng tôi”(4).
Cả nam và nữ đều có thể chứng đắc thánh quả khi thực hành theo lời
Phật dạy. Giải thoát tối hậu không là đặc quyền cho bất kỳ giới tính
nào. “Như cỗ xe chở người, bất luận nam hay nữ. Cũng thế, chiếc xe chánh
pháp chờ đón họ thẳng tới niết bàn”(5).
Tỷ kheo ni Somā, người từng bị Ác ma quấy nhiễu khi đang thiền định.
Ác ma đã lầm khi coi thường khả năng về chứng đắc thánh quả của bà. Ác
ma khinh khỉnh:
“Địa vị khó chứng đạt,
Chỉ thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón,
Sao hi vọng chứng đạt”.
Vị tỷ kheo ni Somā từ tốn ngâm kệ đáp rằng: “Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu”(6).
Lời lẽ khinh thị nữ giới của Ác ma rõ ràng lặp lại niềm tin của thời
kỳ đó là phụ nữ bị cho là rất hạn chế về khả năng phát triển về tinh
thần.
Lúc bấy giờ, mặc dù Ấn độ là một xã hội trọng nam khinh nữ, nhưng
trong các kinh điển của Phật giáo, không đề cập đến sự phân biệt giới
tính trẻ con(7). Các tu sĩ Phật giáo không thừa nhận việc con trai nối
dõi tông đường khi cha chết như các tu sĩ Bà-la-môn. Trong văn học Phật
giáo cũng đề cập đến chuyện nhận bé gái làm con nuôi, và người mẹ nuôi
đã dành tình thương cho đứa con nuôi như con đẻ của mình: “Này con gái,
trước đây là con của Ngài đại phú Bhaddhvattiya; nhưng kể từ hôm nay,
con sẽ trở thành đứa con gái ngoan của ta”(8).
Người phụ nữ đến tuổi phải lấy chồng và sinh con. Người phụ nữ độc
thân bị khinh thường trong xã hội Ấn Độ thời ấy. Kinh Mi Tiên Vấn Đáp,
một bộ kinh thuộc giai đoạn sau, đã phản ảnh như sau: “Tâu Bệ hạ, trên
thế gian này có mười hạng người đáng bị khinh miệt, chỉ trích, chê
trách; trong đó phụ nữ không chồng là một trong mười hạng người này
v.v..”. Nhưng nội dung giáo điển của Phật giáo thì phản đối quan điểm
này. Với sự ảnh hưởng của Phật giáo, phụ nữ độc thân có thể không bị
thành kiến, sống chan hòa, vui vẻ, bình đẳng với mọi thành viên gia
đình; chăm sóc cha mẹ, trông nom em trai và em gái của mình. Sự thành
lập Ni đoàn đã làm tăng thêm giá trị của nữ giới đặc biệt là các phụ nữ
độc thân. Khả năng được chấp nhận gia nhập Ni đoàn mở ra cho những phụ
nữ này một chân trời mới.
Phụ nữ dường như phải lấy chồng ở độ tuổi từ mười sáu đến hai mươi.
Thời đó, việc tảo hôn, Phật giáo không bao giờ chấp nhận, rất phổ biến
trong xã hội. Tính độc lập của người phụ nữ được nâng cao trong thời đức
Phật, thậm chí vai trò mang tính truyền thống của người cha là kén rể
cho con gái, bất luận con mình có thích hay không, đã bị suy giảm đáng
kể.
Một điểm thú vị để nói ở đây là Phật giáo khuyến khích việc tặng của
hồi môn cho con gái khi đám cưới. Của hồi môn này là tài sản riêng của
cô dâu và không bao giờ được xem như là cái giá mà gia đình cô dâu phải
trả cho bên gia đình nhà chồng, cũng như không bao giờ giao hết cho gia
đình nhà chồng. Của hồi môn là của để dành, sẽ giúp người vợ một khi cần
dùng đến. Trong kinh có ghi lại việc những người phụ nữ đã trao lại của
hồi môn này cho chồng mình trước khi xuất gia(9). Thực tế cũng cho
thấy, mặc dù đã lấy chồng, nhưng của hồi môn hay tài sản riêng tư của
người phụ nữ luôn là một phần thiết yếu của họ.
Tư tưởng Phật giáo nói rằng, không có sự phân biệt về giới tính trong
mức độ chứng đắc Thánh quả hay mức độ phát triển tinh thần. Cấp độ
chứng đắc Thánh quả của nữ giới không khác với những gì mà nam giới đạt
được. Vào thời đó, khi tỷ kheo ni Mahā Pajāpati Gotami sắp tịch diệt,
đức Phật đã tán thán như sau: “Này Gotami, hãy thể hiện thần thông để
đập tan những tư tưởng sai lầm của những kẻ ngu si đang nghi ngờ về khả
năng chứng đắc Thánh quả của nữ giới”(10). Những lời tán dương trên của
đức Phật có giá trị như là một bằng chứng chứng tỏ sự xem trọng khả năng
của nữ giới ngang bằng với nam giới. “Với một sự hiểu biết sâu sắc, đức
Phật xác định đặc điểm giá trị của nữ giới và đặt giá trị này một cách
hài hòa vào trong cơ cấu xã hội”.
Người phụ nữ là một thành viên dễ mến trong gia đình, nắm giữ nhiều
mối quan hệ, và được các đứa con yêu quý của mình kính trọng và thương
yêu. Đức Phật cho rằng giới tính không quan trọng trong các vấn đề như
nhân cách và vai trò trong xã hội, thậm chí, người phụ nữ có thể cạnh
tranh được với đàn ông(11).
Trong gia đình, tình yêu được xem là vấn đề then chốt trong cuộc sống
vợ chồng. Vợ chồng phải chung thủy với nhau. Trong công việc, vai trò
của vợ và chồng phải hỗ tương lẫn nhau. Người chồng phải tin tưởng nơi
vợ mình và xem vợ mình như “vị thần” trong gia đình. Ngược lại, người vợ
phải có trách nhiệm chăm sóc tổ ấm của mình. Giúp con cái hòa nhập với
xã hội là một trong những khía cạnh quan trọng về vai trò của người mẹ.
Người vợ là người bạn đời chung thủy nhất của người chồng. “Một người vợ
chỉ biết sợ chồng, phục tùng chồng thì không phải là người vợ thật sự”.
“Món quà quý giá nhất của đàn ông trên trái đất này chính là có được
người vợ tốt”.
Vai trò giới tính của phụ nữ được nhấn mạnh trong mối quan hệ với
người chồng. “Tất cả năm thứ giác quan làm thỏa mãn tâm ý của đàn ông
đều tập trung vào ngoại hình của người phụ nữ”(12). Bổn phận và nhu cầu
về quan hệ vợ chồng là bình đẳng. Vì thế, việc quan hệ trước hôn nhân
được xem là không thích hợp, cũng như sau khi đã kết hôn, chung thủy
được xem là đức tính cần được giữ gìn, không nên vi phạm. Sự chung thủy
không phải chỉ xuất phát từ phía người vợ. Người chồng chỉ nên thỏa mãn
nhu cầu về ‘quan hệ’ với vợ mình, không được trăng hoa với phụ nữ khác;
và ngược lại, người vợ cũng như thế. Người vợ nên hiểu rằng, giúp chồng
thỏa mãn nhu cầu ‘quan hệ’ là bổn phận của mình. Nếu không, người chồng
sẽ khó giữ chung thủy với vợ mình và tìm kiếm người đàn bà khác, điều đó
sẽ hủy hoại thanh danh và đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Trong xã hội thời đức Phật, những bà góa phụ rất đáng thương hại. Đức
Phật dạy không nên đưa ra bất kỳ lý do nào để lăng mạ hay xỉ nhục những
người góa phụ, thậm chí cũng không được gán cho họ biểu tượng như là
phụ nữ vận đen. Trong giáo lý Phật giáo cũng không chấp nhận việc hạn
chế các quyền lợi của người góa phụ như mất quyền thừa kế tài sản, bảo
vệ tài sản hay không được tham gia các lễ hội v.v.. Phật giáo cho rằng,
người góa phụ có quyền tái hôn, và nếu muốn, họ có thể xuất gia trở
thành tỷ kheo ni trong giáo đoàn của đức Phật.
Trong văn học Phật giáo, chúng ta có thể bắt gặp những người phụ nữ
bằng năng lực tinh thần và trí tuệ của mình đã chứng quả giải thoát. Các
vị tỷ kheo ni như Mahā Patāpati Got- ami, Yasodharā, Utpalavannā,
Kisāgotami và Patācārā là những người nằm trong số Thánh đệ tử Ni của
đức Phật. Họ là những người phụ nữ đã phát triển về trí thức và tinh
thần, tất cả sự chứng ngộ hay thành tựu của họ đều ngang bằng với thành
quả cao nhất của nam giới.
Một vài vị tỷ kheo ni được đức Phật công nhận đứng đầu trong một lĩnh
vực chứng đắc nào đó giống như cách mà các vị tỷ kheo tăng được công
nhận. Tỷ kheo ni Dhammadinnā được đức Phật công nhận là thuyết pháp đệ
nhất trong hàng ngũ Ni chúng, tỷ kheo ni Bhaddakapilā đệ nhất về túc
mạng trí, tỷ kheo ni Sukulā đệ nhất về thiên nhãn, tỷ kheo ni Sonā đệ
nhất về tinh tấn v.v...
Nữ học giả Horner(13) đã đưa ra một kết luận rất thâm thúy về địa vị
của người phụ nữ trong tư tưởng Phật giáo qua những dòng đáng nhớ sau:
“Từ những chứng cứ tồn tại trong văn học Phật giáo, chúng ta có thể nói
rằng vị trí của nữ giới trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật rất đáng ganh
tỵ, rất đáng tôn kính mà trước thời kỳ này chưa hề có. Người phụ nữ và
những góa phụ đã không còn bị xã hội khinh rẻ hay bị xem là nỗi thất
vọng của gia đình. Họ đáng nhận được nhiều kính trọng hơn và xác lập
được địa vị cá nhân mình trong xã hội. Họ có được tự do và độc lập hơn
để tự quyết định cuộc sống cá nhân mình”.
‘Nô lệ’ hay người đày tớ là một hiện tượng không xa lạ trong xã hội
Ấn Độ thời đức Phật. Một cách hiển nhiên, họ bị xem như là tài sản của
chủ nhà. Phật giáo không chấp nhận việc chiếm hữu nô lệ và kêu gọi quyền
tự do cho các nữ đày tớ. Thời đó, có những đày tớ như là bà Khujjuttarā
(nữ cư sĩ được đức Phật tán dương là đệ nhất Thanh văn trong hàng nữ cư
sĩ)(14) không chỉ được tự do sau khi chuyển đổi từ đạo khác sang đạo
Phật mà địa vị xã hội và tinh thần của bà còn được nâng cao hơn vì được
Hoàng hậu Sāmāwathi tín nhiệm.
Những phụ nữ hành nghề gái điếm cũng được xuất gia trong giáo đoàn Ni
chúng của đức Phật. Một trong số đó có những vị sau này trở thành nữ đệ
tử xuất sắc của đức Phật như: Padumāwati, Addhakāsi và Ambapāli. Trong
kinh có mô tả về lầu xanh hạng sang do một người tên là Kāli làm chủ: “Ở
lầu xanh này, toàn là những thương gia giàu có, hay các bậc quyền quý
lui tới, mỗi lần như thế, họ phải chi trả hàng ngàn đồng tiền vàng để
vui chơi. Họ phải chi năm trăm đồng tiền vàng để bao một người đẹp, năm
trăm đồng khác chỉ để thuê quần áo bận qua đêm, nước hoa và vòng hoa
thơm. Sáng hôm sau, họ phải trả lại trang phục đã thuê và ra về với quần
áo đã bận khi đến”(15).
Tám bổn phận và khả năng sau mà một nữ cư sĩ Phật giáo nên tu tập để
làm tròn hai vai trò cao quý là làm mẹ và làm vợ của mình trong một gia
đình(16):
1. Sắp xếp các việc trong gia đình một cách hiệu quả.
2. Quan tâm đến người phục dịch.
3. Cố gắng làm vui lòng chồng.
4. Khéo bảo quản tài sản mà chồng kiếm được.
5. Có niềm tin vào tôn giáo.
6. Giữ gìn tiết hạnh.
7. Tốt bụng và
8. Rộng lượng.
Có những nghi vấn đặt ra xung quanh vấn đề tại sao đức Phật một mặt
thừa nhận phụ nữ có khả năng thành tựu về mặt tinh thần như nam giới
nhưng mặt khác đã cố ý trì hoãn việc cho họ xuất gia. Để hiểu được điều
này, trước hết chúng ta nên bình tâm để nhớ lại quan niệm xã hội đối với
người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ.
Luật Manu(17) nói rằng: “Ngày cũng như đêm, người phụ nữ phải nương
tựa vào những người đàn ông thân quyến trong gia đình. Nếu tham gia vào
những hoạt động vui chơi, họ cũng phải chịu sự kiểm soát. Khi còn bé,
người cha sẽ bảo vệ họ, sau khi lấy chồng, người chồng sẽ bảo vệ họ, và
khi già, con trai sẽ bảo vệ họ; người phụ nữ không bao giờ có quyền tự
chủ hay độc lập”.
Công luận xã hội thời đức Phật ảnh hưởng nặng nề bởi những loại quan
niệm này. Là người thực tế, Ngài luôn đặc biệt chú ý đến dư luận trước
khi bắt đầu xúc tiến các bước cải cách.
Điều này thể hiện rõ trong cách mà đức Phật ban hành giới luật. Đa số
các điều luật được ban hành là do sự thúc đẩy, đề nghị của công chúng.
Khi phụ nữ yêu cầu được xuất gia, có lẽ đức Phật đã suy nghĩ về thái độ
tiêu cực của dân chúng đối với việc đổi mới này. Biện pháp nào tốt nhất
để thay đổi thái độ này nhằm tạo thuận lợi cho các bước cải cách như
thế?
Phản ứng của xã hội về điều này chính là mối bận tâm của đức Phật. Vì
rằng, sự tồn tại của hai chúng xuất gia tỷ kheo và tỷ kheo ni phụ thuộc
vào sự ủng hộ của người thế tục - nam, nữ cư sĩ - không có họ, cộng
đồng xuất gia Phật giáo không thể hoạt động được.
Khi người mẹ kế và người vợ thời đức Phật chưa xuất gia, cùng với
những người phụ nữ trong hoàng tộc họ Thích đến cầu xin xuất gia, Ngài
liền từ chối. Sau đó, họ bắt đầu cuộc hành trình dài đi từ thành thị này
đến thành thị khác. Người dân nơi họ đi qua cảm thấy xúc động khi nhìn
cảnh tượng này. Người dân tự hỏi: “Phải chăng người phụ nữ đi đầu là dì
mẫu của Thái tử Siddhārta khi mẹ ruột của Ngài qua đời. Bà đã chăm sóc
thái tử như con đẻ của mình. Và kia có phải là công chúa Yosodharā, vợ
của thái tử Siddhārta? Những người phụ nữ quý tộc này rất buồn vì không
được xuất gia trong giáo Pháp của đức Phật. Tại sao đức Phật không cho
họ xuất gia?
Sau đó, Tôn giả Ānanda, vị đệ tử thị giả hỏi đức Phật phải chăng
người phụ nữ không có khả năng chứng ngộ giải thoát như nam giới, thì
Ngài trả lời rằng phụ nữ có thể chứng ngộ giải thoát như nam giới(18).
Dường như thái độ miễn cưỡng ban đầu của đức Phật để tạo ra một không
khí hệ trọng trước khi thực hiện các bước kế tiếp. Kinh sách ghi lại
rằng, đức Phật đã từ chối đến lần thứ ba nguyện vọng xin xuất gia của dì
mẫu và đoàn tùy tùng.
Đức Phật thường đo lường thái độ của công chúng và điều này thể hiện
rõ trong một số điều luật được ban hành để Tăng chúng thực hiện. Ví dụ
rõ ràng nhất đối với điều này chính là luật về thông tin được công bố để
chống lại Devadatta. Một nhóm tỷ kheo dẫn đầu bởi hai vị đệ tử lớn nhất
của đức Phật là Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggalāna được phái đi tới
thành Rājagaha để báo cho dân chúng biết hành động này, nghĩa là tìm
kiếm sự ủng hộ của dân chúng, nếu không có sự ủng hộ của công chúng thì
không thể thực hiện hành động trên. Hay như trong trường hợp một cô gái
trẻ bị phần tử đối lập Phật giáo mưu sát trong khuôn viên tu viện, đức
Phật đã dạy các tỷ kheo cung cấp sự thật cho công luận biết để họ hiểu.
Hay như việc đức Phật cố tình cư trú trong rừng Pārileyya nhằm thúc đẩy
dư luận lên tiếng chống lại hai bè phái tỷ kheo mải mê cãi cọ, tranh
luận không nghe lời khuyên của Ngài.
Một khi công luận đã có cái nhìn thiện cảm đối với việc đi bộ một
quãng đường dài để cầu xin xuất gia của quý bà dòng họ Thích-ca, thì đó
chính là cơ hội tốt để đức Phật cho phép thành lập Ni chúng. Các nhà
nghiên cứu về xã hội học không dễ dàng bỏ qua việc tìm hiểu động cơ của
đức Phật khi Ngài ba lần từ chối cho phụ nữ xuất gia. Ngài biết rằng, sự
từ chối của Ngài sẽ khiến cho họ càng thêm quyết tâm thực hiện cuộc
tuần hành, và chính cuộc tuần hành đó đã gây thiện cảm đến người dân,
thúc đẩy một sự hưởng ứng công khai và tích cực.
Một lý do khác cho việc miễn cưỡng chấp nhận nữ giới xuất gia chính
vì có liên quan tới vấn đề tổ chức một đoàn thể Tăng già (bao gồm cả tỷ
kheo tăng và tỷ kheo ni); “Dường như đức Phật rất thận trọng khi chấp
nhận cho nữ giới xuất gia, vì rằng điều này có liên quan đến vấn đề tổ
chức cộng đồng thành một đoàn thể thống nhất. Rõ ràng là Ngài đã gặp sự
chống đối mạnh mẽ về lập trường giải phóng phụ nữ. Nhưng vì quan tâm đến
lợi ích chung của một đoàn thể thanh tịnh, hạt nhân của một tổ chức tôn
giáo, phụ nữ chắc chắn phải chịu hi sinh một số mặt nào đó, thậm chí
phải từ bỏ những gì có vẻ như là quyền lợi chính đáng của họ. Ta thấy rõ
điều này qua Bát-kỉnh-pháp như là những điều kiện cần thiết mà đức Phật
quy định trước khi chấp nhận họ vào đoàn thể xuất gia”(19).
Nhìn vấn đề từ nhiều góc cạnh khác nhau, người ta có thể đưa ra những
lời giải thích hợp lý cho thái độ miễn cưỡng của đức Phật trong việc
thành lập Ni chúng. Có lẽ chính bà dì mẫu Mahāpajāpati là người đưa ra
lời phản đối lập tức vì bà đã quen với một cuộc sống giàu sang phú quý,
chưa bao giờ quen với việc khổ cực, và trên hết, không thể tưởng tượng
được việc một hoàng hậu cao quý lại có thể đi khất thực từng bữa ăn. Có
thể chính vì lòng bi mẫn mà đức Phật từ chối cho bà xuất gia, vì Ngài
không đành lòng để bà chịu đựng một cuộc sống khó khăn nơi hoang
vắng(20).
Trong số các nguyên nhân được đưa ra trong vấn đề này, còn có một
nguyên nhân quan trọng khác là sự an toàn của phụ nữ. Cho phép phụ nữ
xuất gia, sống đời sống không nhà thì đòi hỏi phải có rất nhiều những
biện pháp phòng ngừa và bảo vệ. Phụ nữ luôn là nỗi thèm khát dục vọng
của cánh mày râu, vì thế nguy hiểm luôn thường trực bên họ. Đức Phật rất
lo về vấn đề này (21).
Phụ nữ được xem như nhân vật không thể thiếu trong việc nội trợ gia
đình. Nếu cho phép họ xuất gia thì sẽ có rất nhiều phụ nữ khác cũng xin
xuất gia, điều đó gây ra một số vấn đề nghiêm trọng. Gia đình sẽ mất đi
rường cột và ngay cả Tăng chúng cũng mất đi sự hỗ trợ của các nữ thí chủ
vì sự hiện diện của phụ nữ trong gia đình đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ như cúng dường thực phẩm cho Tăng
chúng.
Rõ ràng rằng, sự lần lữa đối với việc thành lập Ni chúng của đức Phật
không phải vì quan niệm về vị trí thấp hèn trong xã hội của người phụ
nữ. Phật giáo đặt vị trí của người mẹ và người cha ngang bằng nhau khi
so sánh với trời. Có lẽ việc đề cao phẩm giá người mẹ lên địa vị Phật
đang sống trong nhà ở một vài quốc gia theo Phật giáo như Sri-Lanka
chẳng hạn, cho thấy Phật giáo luôn kính trọng và quý mến phụ nữ.
1. KS.I, iii
2. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930; 3
3. Rhys David’s The Psalms of the Early Buddhists, XXV, Intro
4. A A I, 176
5. S, I, 5; M.I, 165.
6. S.I, 129 – theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
7. S.I, 323
8. VIN. IV, 108; DhA I, 187
9. Therigathā Commentary XXXVII
10. Quoted by Dhirasekera, Sambhāsā, 1991, 299
11. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā. 1991, 297
12. A. III, 69
13. Horner, I.B., Women under Primitive Buddhism, London, 1930;82.
14. DhA. Verses 21-23
15. Dha. Verse 3; Cf.J. 318, 481
16. A. IV, 271
17.
IX, 2 (Luật Manu là những điều răn của Thánh Manu về hành vi, lẽ sống,
được viết vào khoảng từ thế kỉ thứ II trước Công Nguyên đến cuối thế kỉ
II sau Công Nguyên. Đây là một trong những sử liệu quan trọng nhất về xã
hội và nhà nước Ấn Độ cổ đại. Toàn bộ Đạo luật có 2.685 điều; trích từ:
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam – người dịch chú thích thêm).
18. A IV, 278; Vin II, 284
19. Dhirasekera, Jothiya, “Women and the Religious Order of the Bud-dha” Sambhāsā, 191; 301
20. Kabil Singh., Bhikkhu Pātimokkha, Varanasi, 1983, 24
21. Op.cit. 25-26