Chương 2: Phương pháp luận trong tư tưởng Phật giáo
Nhờ nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy nhiều
kiến thức hữu ích giúp mở rộng phạm vi nghiên cứu phương pháp luận theo
yêu cầu của xã hội học. Trước hết, chúng ta xem xét quan điểm của Phật
giáo khi tiếp cận các tài liệu. Sau đây là lời giáo huấn nổi tiếng của
đức Phật cho những người thuộc dòng họ Kālāmas được trích trong kinh
Tăng Chi Bộ để nói lên quan điểm này:
“Này, hãy nghe đây các vị Kālāmas, đừng vội tin vào truyền thuyết
(các bản báo cáo ghi sự kiện), truyền thống (các tín ngưỡng, phong tục
lâu đời), lời đồn (nghe nói). Đừng tin vào lý luận hay suy đoán suông
không có căn cứ; cũng đừng vội chấp nhận điều gì sau khi chỉ xem xét một
vài nguyên nhân hay ngẫm nghĩ qua loa; cũng đừng tin khi thấy điều đó
có vẻ hợp lý hay chính bậc thầy đáng kính của mình dạy bảo. Nhưng khi tự
mình biết rõ: Những pháp này đáng chê trách, bất thiện; các pháp này bị
người hiền trí chỉ trích; nếu được thực hành và chấp nhận, chúng sẽ đưa
đến bất hạnh, khổ đau thì các vị phải bác bỏ chúng”(1).
Mục đích của lời giáo huấn trên của đức Phật đối với người Kālāmas là
không nên chấp nhận hay tin vào bất kỳ lời phát biểu của ai mà chưa qua
kiểm chứng. Chúng ta nên kiểm chứng kết quả của những lời tuyên bố nào
đó dưới ánh sáng tri thức và kinh nghiệm tự thân để thẩm tra xem có đúng
với chân lý để rồi tiến tới việc chấp nhận hay bác bỏ. Lời giáo huấn
này đối với những người thuộc dòng họ Kālāmas không phải bảo họ loại bỏ
hoàn toàn những lời tuyên bố đáng tin cậy mà nhất định phải tự thân
chứng nghiệm(2).
Đức Phật từng dạy rằng nên xem giáo pháp và giới luật của Ngài như là
một thước đo để thẩm định trong từng trường hợp có thích hợp với chính
mình hay không. Vì thế, ngay đến những kinh điển được cho rằng từ kim
khẩu đức Phật cũng cần phải so sánh và tìm ra sự tương thích với chính
bản thân bài kinh hay quyển luật này. Ở đây, chúng ta đề cập đến những
trường hợp tuyên bố cho rằng đây mới chính là lời dạy đích thực của đức
Phật. Thậm chí, sau khi so sánh rồi và đã xác chứng được rồi, chúng ta
cần phải hành trì, tự thân chứng nghiệm ngay trên bài kinh hay các điều
giới luật này.
Có bốn nguồn tham khảo chính thức được đề cập trong giáo lý Phật giáo, đó là:
1. Từ chính kim khẩu đức Phật thuyết pháp.
2. Do một nhóm tỷ kheo trong một tu viện phổ biến.
3. Do một hội chúng tỷ kheo bao gồm nhiều vị trưởng lão và các vị tỷ kheo lãnh đạo thông hiểu Pháp và Luật phổ biến.
4. Do một vị tỷ kheo thông hiểu Pháp và Luật phổ biến(3).
Ở đây, thậm chí một Pháp nào xuất phát từ một trong bốn nguồn tham
khảo như trên thì cũng phải so sánh với toàn bộ giáo lý của Phật giáo:
“Nếu Pháp đó không phù hợp với Kinh, trái với Luật thì phải kết luận
rằng chắc chắn đây không phải là lời dạy của đấng Thế Tôn… và tỷ kheo đã
thọ trì sai lạc. Vì thế, hãy bỏ nó đi… Còn nếu Pháp đó một khi được
thực hành, không dẫn tới bất hạnh và khổ đau thì chắc chắn đó là lời đức
Phật dạy”(4).
Trong Kinh Trung Bộ(5) có nói rằng, ngay cả một đức tin định kiến
(từ này mang ý nghĩa tiêu cực cố chấp) có trong một lời tuyên bố hay tài
liệu nào đó, thì việc thẩm định thông qua kinh nghiệm bản thân vẫn là
điều cần thiết. Ngay cả khi đưa vào một niềm tin cố hữu nào đó trong
giáo pháp thì việc tự chứng tri giáo pháp đó là cần thiết. Do quan sát
hành động và lời nói mà chúng ta có thể biết được phẩm chất của người
đó. Thông tin và nguồn tin (do một người nào cung cấp) phải được kiểm
tra một cách kỹ càng. Đức Phật dạy như sau: Nếu một vị tỷ kheo thắc mắc
tự hỏi rằng liệu đức Thế Tôn có giác ngộ viên mãn hay không, thì vị tỷ
kheo đó nên kiểm chứng hai điều sau: Điều gì vị ấy biết do tự mình kiểm
chứng, và điều gì vị ấy biết chỉ vì nghe người khác nói về Ngài. Vị tỷ
kheo ấy nên kiểm chứng một cách kỹ càng liệu rằng đức Thế Tôn có đạo
hạnh thuần khiết hay bị tai tiếng về đạo đức như lời đồn đại. Việc kiểm
chứng đó không chỉ được thực hiện nhiều lần, trong một thời gian dài
đáng kể mà còn phải được kiểm tra, tái kiểm tra và thẩm định đối với đối
tượng được quan sát. Đây là đặc điểm quan trọng trong phương pháp ‘quan
sát khoa học’ của Phật giáo.
Quan niệm của chúng ta nhìn về Đức Phật, tiêu chí đầu tiên có thẩm
quyền trong bốn nguồn tham khảo như đã đề cập ở trên, là một “niềm tin
có lý trí” được phát triển trong sự quan sát cách hành xử của Ngài, lắng
nghe những người khác nói về Ngài trong khoảng thời gian lâu dài. Vì
vậy, niềm tin này trái ngược với niềm tin phi lý hay niềm tin được mặc
khải. Ngược lại, những niềm tin đó; một niềm tin từ kết quả liễu tri,
những lời Phật dạy được áp dụng và thực tập trong đời sống chắc chắn sẽ
đem lại những kết quả thiết thực, và được người trí tự thân chứng
nghiệm.
Vì thế, niềm tin lý trí là khởi điểm nhận thức chân lý. “Có hai nguồn
phát sinh chánh kiến là: Truyền đạt và phản biện”(6). Khi sự thật của
một nguồn tin được xác lập thì nguồn tin đó được chấp nhận bởi niềm tin
lý trí. Nhưng chính sự phản biện, một lần nữa sẽ chứng minh chân lý, phá
tan mọi nghi ngờ.
Ta nên loại bỏ hay phủ nhận các tài liệu mang tính truyền thuyết,
truyền thống và lời đồn - được xem là những nguồn không đáng tin cậy -
một khi chúng chưa được kiểm chứng bởi phương pháp phản biện và kinh
nghiệm bản thân. Có người chỉ tin vào tài liệu được ghi trong kinh điển.
Có lẽ theo một nguyên tắc, bất cứ tuyên ngôn nào hợp với các văn bản
lưu trong kinh điển thì được cho là thật, còn ngược lại là giả(7). Thậm
chí, cũng không vội tin những gì do một người nói ra chỉ vì kính trọng
họ.
Danh xưng Thượng Đế hay đấng Toàn Tri được một số người chấp nhận và
được xem như là một uy quyền. Đức Phật đã định nghĩa danh xưng này như
sau: “Tuyên bố rằng một kiến thức vô hạn và sự thẩm thấu vạn vật luôn
hiện hữu trong tâm trí họ một cách liên tục. Ở đây, một số bậc thầy tự
tuyên bố mình có kiến thức và nhãn quan vô hạn, bền bỉ và liên tục”(8).
Theo đức Phật, không ai là toàn tri trong ý nghĩa này. Một người đi vào
trong một ngôi nhà trống và không khất thực được gì cả hay một tai nạn
xảy ra. Điều này cho thấy sự vắng mặt của một đấng Toàn Tri như thế. Làm
thế nào chúng ta có thể trả lời về một thẩm quyền tuyệt đối dựa trên
một nguồn gốc được chấp nhận như là đấng Toàn Tri trong ý nghĩa này.
Loại bỏ tư tưởng thành kiến và nhận thức cảm tính cũng là một điểm
quan trọng của tư tưởng Phật giáo. Thành kiến và nhận thức cảm tính đôi
lúc dẫn dắt người ta đi đến những quyết định sai lầm hay khiến họ sử
dụng sai phương pháp quan sát. Phật giáo nói rằng một người rơi vào sai
lầm như thế vì những lý do sau: (1) Tham dục; (2) sân hận; (3) sợ hãi;
(4) si mê. Bốn pháp bất thiện đó là nguyên nhân khiến chúng ta sa vào
tội lỗi(9).
Mỗi cá nhân nên tự mình quan sát kỹ càng nội tâm cũng như phân tích
cảm thọ của mình để xem liệu mình có vướng mắc vào một trong bốn pháp
bất thiện đó hay không.
Mức độ mà đức Phật phê phán tư tưởng thành kiến được thể hiện qua lời
dạy của Ngài đối với hàng đệ tử (tỷ kheo lẫn cư sĩ) là không nên căm
phẫn, tức tối, sanh lòng phiền muộn khi người nào đó hủy báng đức Phật,
hủy báng Pháp. Nếu các đệ tử nghe lời chê bai như thế, khởi tâm oán hận
hay thù ghét, thì tâm mình sẽ bị tổn thương. Vì điều đó nên không thể
suy xét liệu rằng lời chê bai ấy đúng hay là sai. Đồng thời, cũng không
nên hoan hỷ, vui mừng, thích thú khi nghe người khác ca tụng hay tán
dương đức Phật, tán thán Pháp. Loại cảm thọ hỷ lạc này cũng khiến cho
tâm mình bị tổn thương, che lấp nhãn quan và làm hạn hẹp khả năng nhận
biết đâu là sự thật, đâu là giả dối(10).
Đây là thái độ khách quan rất đáng học hỏi, là yếu tố cần thiết cho
người đi tìm sự thật hay chân lý. Để chứng minh cho tính khách quan này
của đức Phật, giáo sư Jayatilleke(11) đã minh họa trường hợp của Tôn
giả Sārīputta. Một dịp nọ, Tôn giả Sārīputta, vị đệ tử thượng thủ của
đức Phật, phát biểu rằng chưa từng có và sẽ không bao giờ có một nhân
vật trí tuệ và kiến thức hơn đức Thế Tôn. Lời phát ngôn đó đến tai đức
Phật và Ngài vặn hỏi Tôn giả Sārīputta: “Này Sārīputta, phải chăng ông
đã xét rõ tâm chư vị Chánh Đẳng Giác ở thời quá khứ, chư vị Chánh Đẳng
Giác ở thời vị lai, hay tâm của Ta hiện tại?” Và khi nhận được câu trả
lời phủ định thì đức Phật chỉ cho Tôn giả thấy được nhược điểm của phát
ngôn thiếu tính thuyết phục đó. Giáo sư Jayatilleke(12) bình luận thêm
rằng: “Tình tiết này thể hiện tính khách quan của đức Phật, Ngài đòi hỏi
rằng đối với những phát ngôn quan trọng và nghiêm túc, đòi hỏi phải có
chứng cứ để xác minh điều đã khẳng định chứ không nên vì thành kiến chủ
quan”.
Tính khách quan, không những được xem là chân lý trong việc nghiên
cứu dữ liệu mà còn là thái độ của người nghiên cứu dữ liệu, rất được coi
trọng trong tư tưởng Phật giáo: “Sự tuệ tri như thật các pháp là sự tuệ
tri tột cùng”(13). Chân lý luôn mang tính khách quan vì “Dù cho đức Thế
Tôn có nói Pháp hay không, thì Pháp (tức là những điều mà đức Thế Tôn
chứng đắc) vẫn là chính nó”(14). Sự thật vốn dĩ khách quan và ta không
thể tiếp cận nó với tâm chủ quan.
Trong nghiên cứu dữ liệu, mối liên hệ nhân quả được hết sức chú trọng
trong tư tưởng Phật giáo. Điều này được minh họa qua bài kệ sau:
“Do cái này sanh nên cái kia sanh; do cái này diệt nên cái kia diệt”.
Luật nhân-quả cũng như sự tương quan hiện tượng nằm trong thuyết
Tứ-diệu-đế và Lý-duyên-khởi. Tứ-diệu-đế cung cấp cho ta một cấu trúc
phân tích: Trước hết, ta định nghĩa một vấn đề (nghĩa là định nghĩa khổ
là gì). Sau đó tìm nguyên nhân của vấn đề đó (vì sao khổ). Kế tiếp là cố
gắng xem xét liệu rằng có con đường thoát khỏi khổ đau nào không. Và
cuối cùng con đường thoát khổ ấy là gì? (Bát-chánh-đạo).
Phật giáo khuyến khích chúng ta thực tập pháp Tứ-vô- lượng-tâm. Đó
là: Từ, Bi, Hỷ, Xả vì có sự liên quan của Pháp Phật học nổi tiếng người
Sri-Lanka với tác phẩm “Early Buddist Theory of Knowl- edge” được giới
nghiên cứu Phật học đánh giá rất cao. Ngoài ra, ông có rất nhiều tác
phẩm nghiên cứu về Phật giáo khác - người dịch giải thích thêm này đối
với lãnh vực nghiên cứu, đặc biệt là củng cố tính khách quan và xa lìa
thái độ thành kiến. Lòng từ nên bắt đầu với chính bản thân mình, từ hòa
với bản thân mình sau đó mở lòng từ ái đối với tất cả loài hữu tình trên
thế giới này:
“Nguyện cầu chúng sanh hạnh phúc và an lành, tâm luôn thánh thiện,
các loài hữu tình dầu yếu đuối hay mạnh mẽ, cao lớn, tầm vóc trung bình
mập mạnh, thấp, hay mỏng manh, không ngoại lệ, thấy hay không thấy, cận
cư hay viễn cư, kẻ sanh vì hạnh nguyện, người sanh vì nghiệp, tất cả đều
hạnh phúc”(15).
Trước tiên, chúng ta nên thực tập lòng từ như thế để tạo mối quan hệ
thích hợp đối với các đối tượng có liên quan. Nếu khởi lòng oán hận thì
thực hành các phương pháp thiền định đã học để loại trừ tâm bất thiện
này. Nói chung, trong Phật giáo có nhiều phương pháp để chế ngự tâm một
khi bị kích động hay lệch lạc.
Bi là tâm kế tiếp trong pháp Tứ-vô-lượng-tâm, giúp mở rộng mối quan
hệ đã thiết lập. Hành giả hướng tâm Bi của mình đến đối tượng và thể
hiện lòng bi mẫn của mình qua thân hành, khẩu hành và ý hành.
Mối quan hệ có thể phát triển xa hơn bằng cách tu dưỡng đức hoan hỷ
đối với lợi lạc của người, vui vì người khác thành công cũng như chia sẻ
nỗi buồn khi họ gặp chuyện chẳng lành. Đức tính Hỷ này khiến ta dễ sinh
lòng tương cảm với người. Hành giả khi thực tập hạnh Hỷ nên nhìn mọi
vấn đề từ quan điểm của chính đối tượng. Sự cảm thông không chỉ khiến
hành giả phát triển xa hơn mối quan hệ với đối tượng mà còn giúp hành
giả xem xét sự việc, giải thích chúng từ quan điểm chủ quan của đối
tượng.
Cuối cùng là hạnh Xả, giúp thiết lập tính khách quan trong việc thu
thập thông tin. Tâm từ, tâm bi, tâm hỷ được điều khiển bởi tâm bình đẳng
như trong câu pháp cú sau: “Như đá tảng kiên cố, Không gió nào lây
động, Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không lây động”(16).
Dù tính cách của đối tượng có ra sao, dù thông tin mà đối tượng đó
cung cấp có làm khó chịu hay không, một khi tâm Xả được tu tập, cho phép
hành giả đạt đến tâm khách quan rất thuận lợi cho công việc nghiên cứu
của mình.
Bốn đức tính đó điều có giá trị ngang nhau trong việc phân tích dữ
liệu. Ba đức tính đầu cho phép người nghiên cứu đặt mình vào hoàn cảnh
của đối tượng để tìm hiểu vấn đề. Chính nhờ tu dưỡng tâm Từ và tâm Bi mà
chúng ta có thể tìm hiểu một cách cặn kẽ những khúc mắc đan xen trong
chính thông tin được cung cấp.
Những phương pháp thiền định như Vipassanā hay thiền định phân tích,
một loại thiền về tánh không của Phật giáo Đại thừa - người dịch chú
thích - giúp cho kiến thức của người nghiên cứu và phân tích dữ liệu
ngày một phát triển. Thiền quán được xem như là một quá trình trực giác
rất hữu ích cho việc phân tích dữ liệu, vì khi thực hành các phương pháp
thiền quán này, ta sẽ hạn chế được những khuynh hướng dẫn tới kết luận
sai lầm.
Phương pháp luận của đức Phật là phương pháp thực nghiệm. Ban đầu,
với sự quan sát tinh tường của mình, Ngài đã nhận ra sự nhiễm ô của cuộc
sống thế tục, không đem lại giải thoát khổ đau. Sau đó, Ngài đi tìm
chân lý bằng cách hành trì khổ hạnh. Ngài thực hiện con đường thực
nghiệm. Và kinh nghiệm đã thuyết phục Ngài rằng, lối tu hành ép xác cũng
không làm cho chân lý hiển lộ. Cuối cùng, cũng với phương pháp thực
nghiệm, Ngài đã đạt được chân lý bằng cách thực hành con đường Trung
đạo.
Vì thế, cách tiếp cận vấn đề của Phật giáo được dựa trên kinh nghiệm
và thực nghiệm. Mối quan hệ tương quan của các pháp phải được lưu ý khi
khảo sát một vấn đề hay sự việc. Lý- duyên-khởi là một ví dụ điển hình
cho việc không có pháp nào tự sanh hay tự diệt, không có pháp nào đứng
độc lập mà tồn tại, luôn có mối liên hệ lẫn nhau.
Khi xem xét sự việc, chúng ta nên vạch rõ mục đích của việc làm đó.
Một lần nọ, đức Phật so sánh nắm lá cây trong tay Ngài với số lá cây
trong rừng. Ngài nói kiến thức của Ngài như lá cây trong rừng, còn những
gì Ngài truyền dạy chỉ như nắm lá trong tay. Kiến thức thì rộng lớn,
nhưng chúng ta phải xác định điều gì hữu ích và cần thiết để rồi chú tâm
thu nhặt kiến thức đó. Đây được xem là tiêu chí chuẩn mực của Phật
giáo. Phí thời gian và công sức để theo đuổi những kiến thức vô bổ là
việc làm vô ích. Vì thế, một nhà xã hội học hay một nhà nhân chủng học
nên lựa chọn kỹ lưỡng một lãnh vực nghiên cứu, tận lực toàn tâm với các
mục đích mình đeo đuổi. Kiến thức mà người đó tích lũy được sẽ giúp ích
cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Đức Phật dẫn chứng trường hợp một người bị trúng mũi tên độc. Điều
cần thiết nhất lúc này là rút mũi tên ra, cấp cứu, thuốc thang để cứu
sống nạn nhân. Nếu không làm như thế, mà chỉ lo tìm hiểu xem mũi tên từ
đâu bay tới, ai là thủ phạm, mũi tên tẩm thuốc độc gì v.v.. thời gian
cứu sống nạn nhân trôi qua, anh ta sẽ lâm vào nguy kịch. Cuộc sống loài
người ngắn gũi, mỗi cá nhân chỉ có thể thành tựu một kiến thức nào đó
rất ít ỏi. Vì thế, chúng ta chỉ nên tập trung vào một công việc đem lại
lợi ích cho mình và cho người, đừng lãng phí thời gian với công việc
không có ý nghĩa.
Đức Phật thường được mô tả như là một bậc đạo sư thuyết giảng những
gì mà ngài đã thực hành. Kiến thức không thể thực hành được thì vô dụng.
Trí tuệ chỉ phát triển một khi kiến thức được vận dụng. Tìm tòi kiến
thức sẽ là vô giá trị nếu không trực tiếp hay gián tiếp áp dụng nó trong
cuộc sống.
Vì thế, cách tiếp cận của Phật giáo có tính chất chính thể luận. Một
sự việc nào cũng phải được quan sát dưới nhiều quan điểm khác nhau, và
toàn diện mọi khía cạnh. Chuyện ngụ ngôn nổi tiếng lão mù sờ voi minh
họa cho quan điểm này. Mỗi lão mù sờ một bộ phận của con voi và mường
tượng hình dáng con voi y như thế. Người sáng mắt thì nhìn được toàn bộ
hình dáng con voi. Vì thế, cái nhìn tổng thể rất quan trọng.
Phật giáo cho rằng, trong khi nhìn cái tổng thể, đôi lúc cũng phải
quan tâm đến hoàn cảnh xã hội của đối tượng quan sát. Có một ví dụ về
vấn đề này như sau: Lần nọ, một nữ thí chủ đến nghe pháp, đức Phật hỏi
nàng rằng: “Con từ đâu tới”, “Thưa Ngài, con không biết” nữ thí chủ trả
lời. “Con sẽ đi về đâu” đức Phật hỏi, “Thưa Ngài, con cũng không biết”.
Thính chúng đang có mặt nghe lời đàm thoại này liền nghĩ rằng cô gái này
có lẽ tâm thần không được bình thường. Sau đó, đức Thế Tôn đã giải
thích cuộc đối thoại này cho thính chúng hiểu. Khi Ngài hỏi: “Con từ đâu
tới” thì cô gái nghĩ câu hỏi là: “Kiếp trước con ở đâu, làm gì”, và đối
với câu hỏi: “Con sẽ đi về đâu” thành “Con sẽ tái sanh ở cõi nào”. Để
hiểu câu trả lời đó thì phải tìm hiểu đời sống của cô. Cô gái trẻ thường
xuyên lên chùa thực tập thiền định, nghe pháp, không màng cuộc sống thế
tục phù du.
Phạm vi quan sát có thể đào sâu và mở rộng bằng nhiều phương thức
khác nhau; ta có thể phát triển phương pháp quan sát này bằng phương
tiện văn hóa tư tưởng (mind-culture)(17) thông qua con đường thiền định.
Thiền định rèn luyện tâm, hàng phục tâm, có khả năng đạt được sáu kỹ
năng siêu phàm (lục thông). Lục thông được hiểu là:
1. Thần túc thông
2. Thiên nhĩ thông
3. Tha tâm thông
3. Túc mạng thông
4. Thiên nhãn thông
5. Lậu tận thông
Giáo sư Jayatilleke nói rằng, Thần túc thông không chỉ là khả năng
biến hiện hay khả năng có thể làm mọi thứ mà còn thể hiện ‘sức mạnh của ý
chí’ của người sở hữu nó. Thiên nhĩ thông là khả năng có thể nghe mọi
âm thanh từ loài người, loài trời cho đến loài phi nhân v.v.. ở những
khoảng cách xa, gần không giới hạn mà không cần sự trợ giúp của thiết bị
hỗ trợ nào. Tha tâm thông là khả năng biết được tâm ý của người khác…
Trong kinh điển có mô tả hai phương pháp hiểu biết tâm của người khác
là: (1) Lắng nghe rung động từ tâm người khác và (2) Hiểu tâm kẻ khác
bằng chính tâm của mình. Trong khi đó, các nhà xã hội học quan sát hành
vi bên ngoài để suy đoán tâm trạng: (1) Quán sát dấu hiệu bề ngoài và
(2) Thu nhập thông tin qua phỏng vấn v.v.. Hai phương pháp đầu tiên đề
cập tới năng lực ngoại cảm trực tiếp hay gián tiếp.
Phát triển tâm bằng phương pháp thiền định có thể giúp ta đạt được
trạng thái tâm thức cao hơn và khiến ta có thể nhớ lại các kiếp sống quá
khứ của mình và của người khác. Đó là Túc mạng thông. Thiên nhãn thông
là khả năng biết được sinh tử của hữu tình. Người có Thiên nhãn thông có
thể ‘thấy’ những gì đang diễn ra khắp mười phương thế giới, không có
giới hạn. Và cuối cùng là Lậu tận thông - liễu tri bốn chân lý tối
thượng (Tứ-diệu-đế).
Chắc chắn rằng, rất khó để đạt được sự hoàn hảo tất cả các kỹ năng siêu phàm trên và ứng dụng nó vào việc nghiên cứu xã
hội. Nhưng không nghi ngờ rằng, bằng việc rèn luyện tâm, năng lực
quan sát có thể tăng trưởng. Ta có thể nâng cao năng lực quan sát của
mình bằng việc áp dụng những phương pháp trên và dĩ nhiên cũng có thể áp
dụng những thiết bị hỗ trợ để tăng thêm năng lực quan sát.
Bất cứ tài liệu nào được khám phá bằng phương pháp ngoại cảm cũng có
thể được kiểm chứng bằng các phương pháp thông thường và điều này dễ
được mọi người chấp nhận vì có tính khoa học. Kinh sách Phật giáo có ghi
lại trường hợp này như sau: Một kẻ giàu có bủn xỉn sau khi chết sinh
vào gia đình kẻ ăn mày. Một hôm, cậu bé tái sinh mặt mày dị dạng này đi
xin ăn ngay tại gia đình đứa con trai tiền kiếp của mình. Bọn trẻ ở nhà
đó (vốn là cháu của y) trông thấy bộ dạng gớm ghiếc như thế hoảng sợ la
lên. Gia nhân chạy đến đánh đập xua đuổi kẻ ăn mày dị dạng. Ngay lúc ấy,
đức Phật đi ngang qua và biết rằng cậu bé ăn xin chính là cha của người
chủ ngôi nhà này. Gia chủ không chấp nhận lời đức Phật thổ lộ nên Ngài
khiến cho cậu bé ăn mày nhớ lại nơi cất giữ vàng bạc trong đời sống
trước. Và cuối cùng gia chủ mới biết rằng, cậu bé ăn mày dị dạng không
ai khác hơn chính là người cha keo kiệt của mình.
Ngoài Lậu tận thông, năm thần thông còn lại có thể được các vị tu sĩ
thuộc các giáo phái khác nỗ lực thành tựu. Do đó, những thần thông này
(trừ cái thứ sáu) không phải chỉ có trong tư tưởng Phật giáo. Thiền định
là chìa khóa để thành tựu năm loại thần thông này. Các ngành khoa học
xã hội, đặc biệt là xã hội học, nhân loại học và dĩ nhiên không thể
thiếu tâm lý học có thể có được sự hiểu biết sâu sắc và hữu ích qua việc
thực nghiệm những phương pháp này và cố gắng sử dụng chúng trong việc
sưu tầm dữ liệu cũng như phân tích dữ liệu.
1. A I, 189; II 191
2. Jayatilleke K.N., Early Buddhist Theory of Knowledge, London, 1963, 391
3. D II, 123; cf. SBB III, 135
4. GS II, 175
5. M I, 317
6. M I, 294
7. Jayatilleke K.N., Early Buddhist Theory of Knowledge, London, 1963, 199
8. M I, 519
9. A II, 18
10. D I, 3
11. Jayatilleke K.N., Early Buddhist Theory of Knowledge, London, 1963, 429
12. Giáo sư Kulatissa Nanda Jayatilleke (1920-1970) là một nhà nghiên cứu
13. A V, 37
14. A I, 331
15. Sn, verses 143 - 152
16. DhP. 81, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
17. Mind-culture là cụm từ chỉ sự tiến triển của văn hóa tinh thần do
sự phát triển của nhân loại do David Hays và William L. Benzon chủ
xướng trong khái niệm coevolution - đồng phát triển - người dịch chú
thích.