Chương 12: Phật giáo với các vấn đề xã hội như: Rượu và các chất làm say
Trong năm giới cơ bản mà người phật tử tiếp nhận, thì giới thứ năm
liên quan tới sự tự nguyện không uống rượu và các chất gây say. Các chất
gây say ở đây bao gồm cả các thứ nước lên men và không lên men cũng như
các loại ma túy gây nghiện và say xỉn.
Trong luật tạng có nói đến một loại rượu mạnh dùng trong y học, tên
là Majja. Còn rượu dùng để uống thì có tên là Surā. Có một số loại Surā
được liệt kê trong luật tạng như sau: Piṭṭhaurā là một loại rượu làm từ
gạo; Puvaasurā được làm từ các loại bánh ngọt; Odanasurā được làm từ gạo
nấu chín và thêm vào chất lên men và hương vị; Meraya được làm từ chiết
xuất các loại hoa quả, mật ong và thêm hương vị. Ngoài ra, còn có hai
loại rượu khác tên là Kāpotikā và Pasannā(1).
Mặc dù thuộc các điều luật ít quan trọng (giới này nằm trong phần
Ba-dật-đề ít quan trọng hơn so với các giới khác nằm trong phần Ba-la-di
hay Tăng-tàn) trong bộ luật được quy định cho các tỷ kheo, rượu vẫn bị
ngăn cấm, nhưng trong những trường hợp khác (chẳng hạn đối với cư sĩ tại
gia) không thấy đề cập tới hình thức vi phạm khi sử dụng các chất say
này. Ngay cả khi một vị tỷ kheo vi phạm, thì hình phạt mà thiên
Ba-dật-đề quy định chỉ là ‘sám hối thì liền hết tội’.
Giới cấm uống rượu hay các chất say ra đời trong hoàn cảnh sau: Có vị
tỷ kheo tên là Sāgata trong một dịp thuần hóa được một con rắn hổ mang
hung dữ bằng năng lực tinh thần của mình, nên được mọi người xung quanh
khen ngợi và mời uống rượu chúc mừng. Vì quá say nên vị tỷ kheo đó đã
nằm lăn tại cổng thành. Những tỷ kheo khác biết được đã khiêng anh ta về
tu viện trong một tình trạng hết sức tệ hại. Khi đức Phật đến thì
Sāgata vẫn còn nằm sóng soài, không thể đứng dậy nổi, hai chân hướng
thẳng về đức Thế Tôn. Nếu không say rượu, Sāgata đã không có thái độ bất
kính này.
Sau đó, đức Phật đã hỏi những tỷ kheo khác về chuyện này: “Trước đây,
tỷ kheo này có lối cư xử bất kính đối với Như Lai như vậy không?” Họ
đáp rằng: “Dạ không, thưa Thế Tôn”. “Vậy nguyên nhân gì khiến tỷ kheo
Sāgata thay đổi thái độ như thế?” “Dạ đó là hậu quả của việc uống rượu”.
Sau đó, Ngài đã giảng cho các vị tỷ kheo về tác hại của các chất làm
say sẽ khiến cho những ai sử dụng chúng đều dẫn tới lối cư xử tệ hại, hạ
nhân cách của chính mình cũng như nhân cách của người khác.
Nhân trường hợp này, đức Phật đã chế giới cấm uống tất cả các loại
nước có chất say, dù có lên men hay không. Những chất dẫn tới say, dẫn
tới uể oải tâm trí và mất tự chủ bản thân đều nằm trong diện ngăn cấm
này. Người phật tử không nên kinh doanh những chất này cũng như mời
người khác uống nước có chất làm say.
“Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Đã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến người uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu,
Sau khi biết uống rượu,
Cuối cùng là điên cuồng”(2).
“Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác,
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ, tránh xa,
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích”(3).
Trong một số kinh đã từng nói tới nhiều trường hợp vì đam mê rượu chè
dẫn tới địa vị xã hội giảm sút(4). Có câu chuyện về một vị hoàng tử bị
những người uống rượu lôi kéo, xúi giục để rồi trở thành kẻ nghiện rượu.
Trong một dịp tham gia vào các hoạt động của hoàng gia, những người
uống rượu đứng gần nơi hoàng tử đi qua hô to lên rằng: “Hoàng tử muôn
năm, vì ơn Ngài, chúng tôi đã có thể tận hưởng cuộc sống tốt đẹp của
mình”. Họ nói trong khi uống rượu, ăn thịt, ca múa hát v.v.. Sau khi
nghe được điều này, hoàng tử hỏi thăm họ ăn uống gì mà vui vẻ thế. Người
hầu trả lời là họ uống rượu, thứ nước mà đa số người trên thế gian này
đều uống.
Sau khi trở về cung điện, hoàng tử tò mò muốn biết rượu là thứ nước
gì nên sai người hầu đem đến. Ban đầu, hoàng tử nếm thử chút ít một cách
kín đáo không cho ai biết. Sau đó, dần dần những người nghiện rượu bắt
đầu tham gia cùng hoàng tử. Rất nhanh sau đó, họ đã uống một lượng rượu
đáng giá hơn hai trăm đến ba trăm tiền vàng trong một lần. Để thêm phần
hưng phấn, họ mời vũ công tới hát múa. Ngày qua ngày, hoàng tử tốn rất
nhiều tiền để mua rượu. Đến lúc phải bán cả cung điện yêu thích của mình
để có tiền mua rượu đãi bạn bè. Cuối cùng, vài năm sau đó, hoàng tử đã
tiêu pha hết tài sản của mình, sức khoẻ giảm sút chỉ vì nghiện rượu, bị
tống khứ ra đường phố, lang thang như kẻ không nhà.
Hay như câu chuyện kể về năm trăm người phụ nữ bạn hữu của nữ phật tử
Visākhā, người thực hành giới không uống rượu. Một lần nọ, có một tửu
hội được tổ chức tại thành Vasathi, năm trăm phụ nữ này sau khi uống
rượu ca múa, đã đến nghe đức Phật thuyết pháp cùng với bà Visākhā. Vẫn
còn ngà ngà say, họ đã quên rằng mình đang ở nơi công cộng, đang nghe
thuyết pháp, nên họ bắt đầu múa hát. Những người khác trong số đó thì
lại cãi vã gây ồn ào. Điều này nói lên rằng, ngay cả phụ nữ, khi đã say
rượu, sẽ mất hết cảm giác của sự hổ thẹn, e ngại, cũng như sự tự chủ bản
thân.
Dĩ nhiên, rượu có thể sử dụng như là thuốc để trị bệnh. Nhưng khi
dùng để làm thuốc, nó nên được nấu chín với dầu để mất hết mùi, vị và
cũng như màu của rượu(5). Khi sử dụng như là một thành phần của phương
thuốc điều trị thì phải sử dụng đúng liều lượng được ghi trong toa thuốc
để trung hòa hay làm vô hiệu các chất gây ra say.
Các tôn giáo thường nhắc nhở tín đồ của mình phải thận trọng khi sử
dụng các loại thực phẩm ở các dạng như chất lỏng hay chất rắn, lên men
hay không lên men, tự nhiên hay nhân tạo có thể gây ra sự ể oải về tinh
thần cũng như mệt mỏi về thân thể. Bởi người say cũng như là một người
‘điên tạm thời’, mất khả năng kiểm soát tư tưởng, hành động và lời nói.
Trong kinh cũng nói rằng, khát nước sau khi tỉnh rượu cũng được xem
là một hành vi xấu tương tự như nghiện sắc dục, đam mê cờ bạc, thói
xuyên tạc người khác, lừa dối và bạo lực. Hơn nữa, trong số sáu nguyên
nhân dẫn tới phá hoại sức khoẻ bản thân thì uống rượu hay các chất say
dẫn đầu. Trong khi đó, người ham mê cờ bạc, sắc dục, người giao du với
phường đâm thuê chém mướn, kẻ biếng nhác thì luôn thích tụ tập để uống
rượu(6).
Theo quan điểm xã hội, chúng ta thấy có sự liên quan của việc uống
rượu, bia hay sử dụng các chất ma túy với cờ bạc, ăn chơi trác táng,
giao du với băng nhóm tội phạm hay nhóm người biếng nhác. Ngược lại,
chính những việc bất thiện này dẫn con người đến với rượu, bia và ma
túy. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn không có lối thoát. Nhóm bạn xấu
thường lôi kéo người khác tham gia vào những việc bất thiện. Mối quan hệ
hữu cơ chặc chẽ của các nhân tố này rất quan trọng để chúng ta tìm hiểu
các vấn đề xã hội.
Mối quan hệ trên sẽ rõ ràng hơn khi mỗi cái trong sáu món bất thiện
ấy được mô tả chi tiết. Một khi bạn thường xuyên lui tới những nơi ăn
chơi và bắt đầu lang thang trên đường phố vào những giờ khuya, thì dễ bị
đám bạn xấu lôi kéo. Băng nhóm này sẽ xúi bạn uống rượu, chơi ma túy và
cũng như tham gia vào các hành động tội ác khác. Sẽ không dừng lại ở
đây mà những hành động như xuyên tạc, dối trá hay bạo lực ngày càng thêm
lớn.
Khi chúng ta uống rượu hay các chất say, có sáu hậu quả tai hại xảy
ra như sau: (1) Sức khoẻ giảm sút; (2) các cuộc cãi vã tăng lên; (3)
nhiễm nhiều căn bệnh khác nhau; (4) tiếng xấu dần tăng; (5) cảm giác xấu
hổ và tự trọng dần mất đi; và cuối cùng (5) trí tuệ giảm sút không thể
phục hồi.
Trong chuyện Tiền thân Kumbha(7) có nói tới sự hình thành và phát
triển của rượu như sau: Chuyện ghi rằng, một người thợ săn đã tình cờ
phát hiện ra rượu. Trong khu rừng nơi anh ta đi qua có một cây mọc lên
cao tầm vóc người và chia làm ba nhánh, giữa cái chĩa ba này có một cái
hốc lớn. Khi trời mưa hốc này đầy nước. Chim ăn thóc lúa đã để rơi chúng
vào cái lỗ này. Bên cạnh cây này có cây Myrobalan và một bụi tiêu, khi
trái chín cũng rơi rớt vào lỗ nước này. Chỗ nước này lên men dưới ánh
nắng mặt trời. Người thợ săn quan sát thấy sau khi uống thứ nước này,
đàn chim bay loạng choạng rồi rơi xuống mặt đất. Ít phút sau, đàn chim
tỉnh lại rồi bay tiếp. Quan sát vài lần như thế, gã biết nước này không
có độc nên liền nếm thử, cảm giác có vị cay cay. Uống một lúc thì gã bắt
đầu say. Trong lúc ngà ngà say, gã thèm thịt, bèn giết những con chim
vừa ngã gục xuống đất vì say, nhóm lửa nướng thịt chim trên đóm lửa
hồng, vừa múa hát vừa cầm thịt ăn.
Bấy giờ, không xa nơi ấy có một vị ẩn sĩ tu hành. Gã tới viếng thăm
ẩn sĩ và dâng rượu thịt cho vị ẩn sĩ để cùng chung vui với mình. Sau khi
cùng uống rượu và ăn thịt, họ nghĩ rằng dâng thứ nước này lên đức vua
để được thưởng. Họ đi vào kinh thành, xin yết kiến nhà vua và dâng rượu.
Nhà vua nếm thử vài ba lần thì say. Lại hỏi họ còn rượu nữa không, họ
trả lời rất xa và khó để mang về đây. Họ yêu cầu đức vua cung cấp các
thứ trái cây, lúa và hạt cần thiết để họ chế rượu. Họ làm rượu ngay tại
kinh thành và bán cho dân chúng. Dân trong kinh thành uống rượu say trở
thành những kẻ nghiện và lười biếng. Thế là vùng ấy biến thành một nơi
hoang vắng vì ai cũng uống rượu, bỏ bê công việc. Họ bỏ nơi ấy đi đến
kinh thành khác cũng để dâng rượu lên đức vua và cũng bán rượu cho dân
chúng, khiến cho kinh thành này một lần nữa cũng trở nên hoang tàn. Lúc
bấy giờ, đức Đế Thích Thiên Chủ nhìn xuống thế gian thấy nhà vua uống
rượu, kinh thành hoang tàn liền xuất hiện trước mặt vua cảnh báo về nguy
hại của rượu mang lại. Nhà vua nghe lời khuyên của đức Đế Thích Thiên
Chủ liền phá hủy hết các thùng đựng rượu đồng thời xử tội chết đối với
gã thợ săn cùng ẩn sĩ, những người gây ra hậu quả này.
Câu chuyện trên chứa đựng nhiều chi tiết quan trọng liên quan đến các
chất làm say mà chúng ta phải để ý. Khám phá ra chất lỏng này là một sự
tình cờ ngẫu nhiên. Gã thợ săn thấy đàn chim uống nước từ hốc cây đó,
rồi bay trong trạng thái loạng choạng, mất phương hướng, rơi xuống gốc
cây. Sau một thời gian ngắn, đàn chim tỉnh dậy rồi bay đi. Gã đã nghĩ,
đàn chim uống nước đó không chết, có nghĩa là thứ nước đó không độc.
Nghĩ như thế, gã liền nếm thử. Ngoài ra, gã còn chú ý đến các thành phần
tạo ra thứ nước đặc biệt này. Vì thế, gã đã làm thứ nước này khi được
nhà vua yêu cầu. Gã đã dâng cúng thứ nước này cho vị ẩn sĩ đang tu tập
thiền định để nếm thử cái gọi là ‘chân lý’ mà gã vừa phát hiện. Vị ẩn sĩ
uống thứ nước này, một cảm giác ‘lân lân’ mà ông ta chưa từng có xuất
hiện khiến ông ta nghĩ rằng đó là ‘chân lý’ mà ông ta đang tu tập để
chứng đắc. Hơn nữa, sự hiện diện của vị ẩn sĩ đi cùng gã thợ săn tới gặp
nhà vua đã tăng thêm niềm tin cho đức vua. Ẩn sĩ hay nhà tu hành khổ
hạnh thường được mọi người kính trọng và vì thế, khi họ cùng tới gặp nhà
vua, đưa cho ngài thứ nước không rõ nguồn gốc, đức vua đã không ngần
ngại nếm thử vì đã có vị ẩn sĩ ‘đáng kính’ chứng thực.
Nhà vua đã phê chuẩn để thứ nước này phổ biến trong dân chúng như là
thêm một phương tiện giải trí, thư giãn. Một khi nhà vua đã công nhận
thứ nước này và cho phép sản xuất với số lượng lớn như câu chuyện trên,
thì không gì có thể ngừng sự tràn lan của nó trong đất nước. Chính quyền
đó đã chấp nhận một chính sách bảo trợ cho rượu. Nhà vua đã trang trí
thành phố, cho dựng những liều trại đặc biệt và mời tất cả quan viên đại
thần cùng dân chúng trong thành phố mở tiệc đãi rượu.
Đức Đế Thích Thiên Chủ đã giải thích về sự nguy hại của rượu cho đức
vua biết. Tác hại đầu tiên là ảnh hưởng đến thân thể như sẽ mất sự tự
chủ thân thể, bước chân loạn choạng, té ngã; cảm giác xấu hổ và sợ hãi
trong tâm trí biến mất.
Kế đến, người nghiện rượu sẽ nhiễm nhiều loại bệnh, chân tay run rẩy.
Những chứng bệnh khác dễ dàng bộc phát trong thân thể. Tâm lý trở nên
yếu ớt, thân thể mệt mỏi, phát sanh biếng nhác, quên mất địa vị và vai
trò của mình trong xã hội, cũng như bỏ bê gia đình.
Tiếp theo là những hậu quả đối với xã hội. Một người uống rượu, tìm
đến rượu, lúc nào cũng vậy, sẽ thân cận với chúng bạn xấu. Một hớp, hai
hớp rượu lúc ban đầu sẽ trở thành thói quen khó mà dứt bỏ được. Tiền của
khó khăn để kiếm được cũng theo đó mà ra đi. Người nghiện rượu không có
thời gian để lo việc kinh doanh hay kiếm sống của chính bản thân mình,
bỏ bê việc quan tâm chăm sóc gia đình con cái. Vì nghiện rượu, thỉnh
thoảng anh ta lại tham gia các hoạt động phạm pháp và bị tù đày.
Khi đã nghiện rượu, anh ta không thể tự chủ được bản thân, không giữ
gìn lời ăn tiếng nói, cũng như hành động và suy nghĩ. Anh ta sẽ bị người
đời xa lánh và ruồng bỏ.
Vì nghiện rượu nên dẫn tới thiếu sự tự chủ bản thân. Vì thiếu tự chủ
bản thân nên dẫn tới sự tự kiêu, tự đại. Và một khi các tính xấu này đã
phát sinh thì khó mà chấm dứt. Chính tính tự kiêu tự đại này sẽ khiến
cho anh ta thất bại và sẽ kích thích gây gổ, công kích người khác.
Người đam mê rượu chè không chỉ phá hủy chính mình, gia đình mình mà
còn liên lụy đến người khác, gia đình khác. Tiền của dành dụm trong một
thời gian dài theo đó mà tiêu tan. Chính vì thế, mà việc đam mê rượu chè
là một trong bốn nguyên nhân dẫn tới sự khốn cùng, nghèo đói.
Rượu, ma túy làm nhiễm độc tinh thần thậm chí chỉ uống một giọt. Khi
tâm trí bị nhiễm độc vì rượu, thì cá nhân đó không thể giữ được thái độ
điềm tĩnh, nghiêm trang. Đó là lý do rõ ràng rằng tại sao trong giới
luật của tỷ kheo chủ trương ngăn cấm uống rượu cũng như các chất gây say
khác.
Người phật tử cũng được yêu cầu giữ giới từ bỏ uống rượu. “Này các
thiện nam tín nữ, những người đang thực hành giới pháp không nên tự mình
uống rượu, không nên mời rượu người khác, cũng không nên hoan hỷ khi
thấy người khác uống rượu vì rượu dẫn tới mất đứt hạt giống trí tuệ”(8).
Đối với rượu hay các chất say, đức Phật với cái nhìn tuệ giác của
mình, Ngài cho rằng nhà nước hay chính quyền không nên ủng hộ việc sản
xuất, cung ứng hay khuyến khích rượu trong bất kỳ trường hợp nào dù là
trực tiếp hay gián tiếp. Sự hao phí tài sản xã hội đối với việc cho phép
hay khuyến khích tiêu thụ rượu hay các chất làm say sẽ gấp nhiều lần so
với thu nhập mà nó mang lại. Mặc dù trong thực tế, không thể nào kêu
gọi mọi người tránh xa việc uống rượu hay từ bỏ uống rượu, nhưng chính
sách nhất quán của nhà nước là không ủng hộ hay khuyến khích các sản
phẩm rượu v.v.. Nhà lãnh đạo đất nước hay những người nắm quyền lực quốc
gia phải là những người không đam mê rượu chè, chính họ sẽ là tấm gương
để người dân noi theo. Dân chúng cần được giáo dục về tính nguy hại mà
rượu, ma túy đem lại. Thậm chí, nếu một người đã uống rượu, nghiện rượu
cũng phải có những phương pháp giúp anh ta cai rượu. Một thân thể cường
tráng, một tinh thần khoẻ mạnh sẽ tạo ra một cuộc sống tươi đẹp. Rượu
hay bất kỳ hình thức nào của rượu một khi đã uống, sẽ góp phần làm mai
một tinh thần cũng như sức khoẻ và góp thêm một nhân tố sa đọa cho một
xã hội lành mạnh.
1. Misra, G.S.P., The Age of the Vinaya, Delhi, 1972, 183-184; or KhA, 26; DA, 944
2. Sn, 398, theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
3. Sn, 399, theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
4. Cf. Vyagghapaja sutta
5. VIN I, 203; SBE XVII.55-57
6. Sigālovāda sutta, D III, 180-93
7. J. 512
8. S.III, 98-99