CẦU NGUYỆN NHƯ Ý
Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn
hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa lễ Phật, nghe
quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở còn bé. Mẹ tôi cũng bày cho
tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi
rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi
hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh
và niệm Phật thì tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi tụng kinh Phổ
Môn để làm yếu chỉ tu học . Sau một thời gian tụng kinh, tôi có đọc 108
danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật
không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi
thường tụng kinh, niệm Phật hang ngày không hề bỏ sót.
Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi tuổi bị bệnh nặng, người nhà đưa
tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thường hàn
nhập lý và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm. Các bác sĩ
cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã
nhiễm vào tim. cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình tĩnh và
khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tiếp
niệm danh hiệu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ
Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương. Ngay đêm đó,
khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối
nước chảy, có tiếng chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân
lên từng cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao. Trước
cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn, bên bờ biển Nam Hải, nơi mà
Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng vài trăm người đang
ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông. Người nào cũng có tóc và mặc áo
nhiều mà rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà. Riêng
tôi thì được một người đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà
tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai co
thanh nữ mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai vị
này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người xưng là Bạch Y
Quán Thế Âm. Tôi mừng quá liền cúi xụp lạy, nhưng Ðức Bạch Y đưa tay cản
lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh y rót nước trong bình tịnh thủy
cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ
nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngỏ lời Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu
đồng rối rít. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng
chung quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm. Hai hôm sau thì tôi
xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho các bác sĩ
trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của tôi. Mẹ tôi bảo cho họ
hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của
Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín
tâm rất nhiều cho tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi
Tôi là con dâu trưởng sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không có con.
Chồng tôi thì thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói
vào nói ra làm cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không
biết sanh đẻ”.
Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận thì tôi lại vui và âm
thầm trì tụng kinh Pháp Hoa, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có
được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.
Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi
thấy mình trở lại núi Phổ Ðà vào viếng thăm chổ sơ sài của Ðại Sĩ Bạch Y
Quán Thế Âm ở. Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ
hầu Ðức Quán Thế Âm bước lại gần tôi và trao cho một bé gái nhỏ xinh xinh.
Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.
Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé
Hiền năm nay đã tám tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu
thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương
cháu.
Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:
Người vô tự quạnh hiu sau trước
Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu
Từ bi linh hiển pháp mầu
Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.
Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi
tàu rời bến được độ hai ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều
bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con,
tiếng cãi vả của nhiều người với chủ tàu là “ lấy tiền người ta mà làm ăn
bê bối”. Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kỳ lạ thay, vài
tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy và chạy khoảng bốn tiếng
đồng hồ thì gặp tàu tuần tiễu của hải quân Trung Hoa Quốc Gia giúp đưa
chúng tôi vào địa phận Hồng Kông. Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì
chúng tôi đã đắm xuống biển 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng
đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.
Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi,
nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng, đẹp làm
nơi tĩnh tâm và thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi có làm bài thơ tám
câu để tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:
Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền
Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên
Ứng thân diệu dụng vô cùng tận
Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.
Con xin sám hối những sai lầm
Tinh tấn tu học để thanh tâm
Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh
Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.