mà ngay đến khi thọ giới người tu trưởng thành, tôi vẫn quan
niệm Ðức Quán Thế Âm như một hình ảnh biểu tượng về tình thương. Thờ Bồ
Tát Quán Thế Âm chẳng qua là hiếu kính người hiền và nặng lòng tín ngưỡng.
Thầy tôi đã huy động dân làng và Phật tử khắp nơi dựng Quán Âm Ðiện Các ở
trên đỉnh núi Ông Sư tại làng Xuân Tự để phụng thờ, tôi là người hưởng ứng
và săn sóc hương khói một cách bất đắc dĩ.
Năm 1958, tôi không may bị chứng đau đầu thống
trầm trọng. Lý do là tôi ham học và thiếu ngủ. Tôi mê say học kinh điển
như một bộ môn triết lý đầy thú vị. Mặt khác tôi lo học chương văn hóa ở
cấp trung học. Một đêm tôi không ngủ quá ba tiếng đồng hồ. Sau kỳ thi cử
không bao lâu, tôi buông bỏ bút nghiên, sự nghiệp học vấn. Ðầu tôi đau như
muốn vỡ tung từng mảnh và mắt xốn như bị bão cát lùa vào từng cơn. Mũi
chảy ra nước xanh, nước vàng. Tôi bỏ ăn, bỏ ngủ. Bao nhiêu nhà thương, bác
sỉ tây y có tiếng, tôi đều tìm đến. Bao nhiêu thầy giỏi thuốc bắc, thuốc
nam gia truyền tôi đều khẩn cầu, nhưng tất cả đều vô hiệu. Tôi vào Sài Gòn
chữa bệnh, tinh thẩn tôi càng thêm sa sút. Nhiều lần tôi muốn vào trong
lòng đại dương tươi mát để tìm giấc ngủ an lành. Thầy tôi biết rõ tình
trạng đau khổ, bi quan của tôi nên thường ở bên cạnh để săn sóc an ủi. Dồn
hết để lo chữa bệnh cho tôi. Thầy tôi đã nhiều tháng thức trắng đêm với
tôi và hai thầy trò cùng thường di bộ trên bờ biển hóng mát để tôi bớt dau
nhức vì bệnh hành hạ về đêm.
Có một đêm ngồi trên vịnh eo biển
Phan Rang, thầy tôi có vẻ buồn bã lắm, ngưởi bảo tôi rằng: “thầy thương
quý con hơn cả vàng ngọc, nhưng nhiều lúc thầy rất giận con, vì con ngang
ngược, cứng đầu, không chịu nghe lời thầy trì tụng kinh Phổ Môn, xưng danh
hiệu đức Quan Thế Âm Bồ Tát để cầu ngài chữa bệnh cho con”. Ðó là đêm hai
thầy trò chúng tôi ôm nhau mà khóc. Tôi nghe lời thầy tôi như con trẻ tin
lời mẹ dạy. Tôi không còn đi cầu thầy chữa bệnh nữa, trở lại chùa ở Xuân
Tự, nhập thất ba tháng, chuyên trì tụng chú Ðại Bi, kinh Phổ Môn và niệm
danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau ra thất bệnh chẳng thuyên giảm, tôi
vào chùa Ông ở Nha Trang xin tịnh dưỡng tiếp tục nhập thất, lễ sám hối,
chuyên cần trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát liên tục không ngớt.
Kỳ diệu thay, sau hai tháng sám hối, nhất tâm xưng niệm danh hiệu NAM
MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN LINH CẢM ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT,
tôi cảm ứng Mẹ Hiền Quán Âm cứu khổ và dứt trừ cơn bạo bệnh. Thân tâm tôi
nhẹ nhõm như một cuộc tái sanh mới.
Tối đó là ngày rằm, khoảng đầu mùa hè năm 1960,
tôi ngồi thiền và niệm chú Ðại Bi nơi gác chuông Chùa Ông mà có người còn
gọi là Chùa Núi. Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi thấy một luồng ánh sáng
trên trời cao lùa vào gác chuông, rồi hiện ra một thiên nữ mặc áo trắng
trao cho tôi mười hai viên thuốc tể nhỏ xíu và một bình nước trắng đựng
trong lọ thủy tinh có buộc giải lụa màu xanh. Thiên nữ xoa đầu tôi và nói:
“Ðây là thần dược, ngươi uống xong sẽ hết bệnh, hết khổ. Nhưng nên nhớ khi
khỏe mạnh rồi, lo chăm chỉ hành đạo để cứu người, chớ có để vọng tâm buông
lung, tình đời chi phối.” Lời thiên nữ hiền dịu như lời mẹ hiền, tôi cúi
đầu đãnh lễ tạ ơn và phục mệnh.
Lúc ấy, tôi có cảm giác an lạc lạ lung. Tôi chấp
tay cung kính cầm thuốc bỏ vào miệng uống mà không nói một lời nào. Vị
thiên nữ bảo tôi nằm ngủ để lấy lại sự bình an trước khi người biến vào hư
không. Sau một giấc ngủ dài, tôi thức dậy không cảm thấy đau đầu nữa.
Bệnh tôi chấm dứt hẳn. Hình ảnh người thiên nữ mặc áo trắng kia là ai, tùy
mỗi người đặt tên gọi. Sự “cứng đầu” cùa tôi đã bắt đầu “mềm” từ đó. Tôi
tin tưởng và tích cực tìm hiểu về hạnh nguyện cứu khổ của đức Quán Thế Âm
Bồ Tát, khởi đi từ sự cảm ứng này. Hôm tôi lành bệnh trở lại chùa, trong
bữa cơm liên hoan của đại chúng chào đón và mừng tôi, thầy tôi có tặng cho
tôi bài thơ mà tôi đã nằm lòng:
Thương con như trái tim mình
Thương con vượt thoát ngục hình đớn đau
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu
Trí bi song vận duyên lành ứng cơ
Tín tâm dứt mối nghi ngờ
Thuyền từ đưa đén bến bờ an vui
Ðường tu mãi tiến chớ lùi
Giới răng gìn giữ ngọt bùi chớ mê
Tịnh thiền định huệ đường về
Ngộ tâm đạt tánh nguyện thề độ sanh
Bồ đề quả kết chóng thành
Nối dòng Phật tổ cứu người trầm luân.
(3) BÀ LÔ YẾT ÐẾ THƯỚC BÁT RA DA
(Avalokiteshavaraya)
Quán Âm ngời tự tại
Hiện thân tướng trì bình
Cứu người lâm bệnh khổ
Tăng phước thọ diên trường.