Chương XXV: Các Danh Tăng đời Nguyễn
Vua
Gia Long thắng Tây Sơn, lên ngôi năm 1802. Những năm chinh chiến đã để
lại bao nhiêu đổ nát trong xứ sở. Tự viện và tăng sĩ cũng chịu chung số
phận: nhiều chùa chiền bị phá hủy, các trung tâm tu học bị giải tán,
tăng sĩ tản mác mọi nơi. Một số các cao tăng trở về kiến thiết lại các
tổ đình và tổ chức trở lại sự tu học.
Các
vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức cũng có để tâm đôi chút về
việc phục hưng lại đạo Phật. Năm 1815, vua Gia Long sắc tu bổ lại chùa
Thiên Mụ. Năm 1826, vua Minh Mạng lại sắc dựng lại chùa Thánh Duyên.
Chùa này ở gần cửa biển Tư Hiền, tỉnh Thừa Thiên, do chúa Nguyễn Phúc
Chu lập, và bị phá hủy trong cuộc chiến tranh Tây Sơn. Năm 1830, vua
Minh Mạng triệu cao tăng các tỉnh về Kinh, nhờ Bộ Lễ xem xét rồi ban cấp
giới đạo và độ điệp(125). Có cả thảy năm mươi ba vị được cấp giới và độ
điệp, trong đó có Phúc Ðiền, người san hành sách Ðại Nam Thiền Uyển
Truyền Ðăng Tập Lục. Năm 1844, vua Thiệu Trị, theo di chúc của vua Minh
Mạng, sắc dựng một ngôi tháp lớn bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, gọi là Từ
Nhân Tháp(126). Cũng trong năm này, vua sắc dựng chùa Diệu Ðế. Năm 1849,
vua Tự Ðức sắc các chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Thánh Duyên, Tam
Thai, v.v... mỗi chùa phải được chủ trì bởi một vị tăng cương để lãnh
đạo tăng chúng tu học, các vị tăng cương này đều có lương bổng của chính
phủ chi cấp. Năm 1853, vua Tự Ðức lại sắc ban ruộng đất cho các chùa
như Thiên Mụ, Diệu Ðế, Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang, Tam Thai, Ứng
Chân và Khải Tường.
·THIỀN SƯ MẬT HOẰNG
Thiền
sư Mật Hoằng là người tỉnh Bình Ðịnh, đệ tử của thiền sư Linh Nhạc,
thuộc pháp phái Nguyên Thiều. Khoảng đầu thế kỷ thứ mười chín, ông hành
đạo tại các miền vùng Gia Ðịnh, và đạo phong ông được vua Gia Long biết
đến. Năm 1815, vua Gia Long triệu ông về kinh, ban cấp chứng chỉ Tăng
Cương và thỉnh ông trú trì tổ đình Quốc Ân do thiền sư Nguyên Thiều khai
sơn. Ông đã trùng tu tổ đình này, biến Quốc Ân thành một phạm vũ lớn.
Sau đó ông lại khởi sự trùng tu chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình Ðịnh, chùa
gốc của ông và cũng do thiền sư Nguyên Thiều sáng lập.
·THIỀN SƯ PHỔ TỊNH
Thiền
sư Phổ Tịnh người tỉnh Quảng Nam, hiệu là Ðạo Minh, đề tử của thiền sư
Chiếu Nhiên, thuộc phái Liễu Quán. Năm 1808, ông được bà Hiến Khương
hoàng thái hậu thỉnh trú trì chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo Quốc bây giờ).
Ông tịch năn 1816. Ông có một người đệ tử xuất sắc là thiền sư Nhất
Ðịnh.
·THIỀN SƯ THANH ÐÀM
Thiền
sư Thanh Ðàm hiệu Minh Chính là trú trì chùa Bích Ðộng ở làng Ðam Khê,
phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông là đệ tử của thiền sư Ðạo Nguyên, lúc
bây giờ đang chủ trì thiền viện Nguyệt Quang, một tổ đình của môn phái
Chân Nguyên. Thanh Ðàm xuất gia năm 1807, thọ cụ túc giới năm 1810. Ðến
năm 1819, ông sáng tác sách Pháp Hoa Ðề Cương tại Liêm Khê Viện. Năm
1843, ông sáng tác sách Tâm Kinh Trực Giải.
Hồi mới xuất gia, một hôm ông hỏi thiền sư Ðạo Nguyên:
- Tâm không phải ở trong thân, cũng không ở ngoài thân, cũng không ở chặng giữa. Vậy tâm rốt cuộc nằm ở đâu?
Ðạo Nguyên mỉm cười xoa đầu ông và cho ông bài kệ:
Ứng dụng theo thời
Gặp vật thấy cơ
Chân tính như như
Trọng ngoài chẳng nên
Tùy thời ứng dụng
Ngộ vật kiến cơ
Tính bản như như
Hà quan nội ngoại).
Ngày thọ giới cụ túc, ông cũng được Ðạo Nguyên cho một bài kệ:
Trán phóng hào quang đâu phải Phật
Dưới chân mây trắng chửa là tiên
Hãy nuôi trâu nọ cho cường tráng
Hôm sớm cày sâu đám ruộng mình.
(Quang phóng mi gian vô đạo Phật
Vân sinh túc hạ vị ngôn tiên
Nhiêu quân bão dưỡng ngưu phi tráng
Triêu tịch thực canh bỉ thốn điền).
Pháp Hoa Ðề Cương
Pháp
Hoa Ðề Cương là một tác phẩm biên khảo giá trị. Văn của Thanh Ðàm viết
gọn, chen lẫn thơ kệ và có nhiều giá trị văn học. Pháp Hoa Ðề Cương có
thể nói là cẩm nang cho người đọc kinh Pháp Hoa. Cũng như có địa bàn
trong tay người thủy thủ không còn sợ mất bến mất bờ, có Pháp Hoa “Ðề
Cương thì người đọc kinh sẽ nắm được ý chỉ của Kinh. Thanh Ðàm đã đọc
Pháp Hoa với con mắt của nhà Thiền học. Ông lại thường hay đối chiếu
Pháp Hoa với Lăng Nghiêm và Kim Cương nhận thức của ông về giải thoát
được trình bày gọn ghẽ trong bài Bạt nói về năm chữ Diệu pháp Liên Hoa
Kinh. Theo ông, Diệu tức là Tâm, là chân tâm sáng suốt tròn đầy. Chân
tâm này không thể đạt tới bằng suy tư và nghị luận. Còn Pháp là Căn,
Trần và Thức. Căn, Trần, Thức đều do chân tâm lưu xuất. Trong ba thứ:
căn, trần và thức thì căn là thứ gần gũi nhất, có thể quán sát để tìm về
chân tâm. Không thể chỉ bày Chân Tâm, chỉ có thể chỉ bày dấu vết ứng
dụng của chân tâm trên căn tính. Căn tính cũng như mặt trăng thứ hai mà
ta trông thấy khi ta dụi mắt, nhưng mặt trăng thứ hai tuy hư vọng nhưng
cũng cùng một thể với mặt trăng thứ nhất. Căn tính cũng cùng một thực
thể với chân tâm.
Người
tu đạo do sự quán sát sự ứng dụng của tâm trên căn trần mà thông đạt
tới chân tâm hay là tự tính, và ngộ đạo. Sau đây là những dòng của Thanh
Ðàm viết:
“Diệu
là chỉ chân tâm thanh tịnh xưa nay, Tâm này từ vô thủy đến nay tùy
duyên bất biến, bất biến tùy duyên, nơi thánh không thêm, nơi phàm không
bớt, lấm không dơ, rửa không sạch, lặng lẽ tròn đầy pháp giới, mênh
mông đầy khắp không hư. Tâm là nguồn gốc của chư Phật mà cũng là Phật
tính của chúng sinh, nguyên không có tướng trạng và mọi tướng trạng đều
từ đó phát hiện, vốn là chân không mà cái không lại cũng từ đấy sinh ra.
{Tâm ấy} giống như viên ngọc ma ni trong vắt, không có mầu sắc mà gọi
màu sắc có thể tự do xuất phát; cũng như biển giác lặng đầy, ảnh chiếu
lục trần mà không nhận một hạt bụi, là họa sư vẽ nên mười pháp giới, là
mẹ trí tuệ của tất cả các đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Nếu ai muốn hiểu biết
Các đức Phật ba đời
Hãy quan sát pháp giới:
Tất cả do tâm tạo.
Mục
đích tối hậu của sự tu tập là tâm ấy vậy. Hỏi: Tâm linh diệu như thế
làm sao nắm được? Ðáp: Ngôn thuyết và biểu thị không thể nắm được chân
tâm. Kinh Pháp Hoa nói rằng:
Thôi, thôi! đừng nên nói
Pháp ta mầu, không nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe thấy chẳng kính tin.
Hai
chữ “thôi, thôi!” diễn tả được bản thể bất động của Tâm. Ba chữ: “đừng
nên nói” có nghĩa là tâm vượt ra khỏi đối tượng của ngôn thuyết và biểu
thị. Chữ “ta” chỉ bản tâm của chính mình. Chữ “pháp” chỉ cho sự ứng dụng
của tri kiến. Chữ “mầu” chỉ cho sự linh diệu của Tâm, từ Tâm phát sinh
ra mọi pháp mà chính tâm thì không có tướng trạng nào hết. Hai chữ “khó
nghĩ” có nghĩa là không thể tư duy về Tâm. Tổ sư đã dạy: “Móng Tâm là đã
sai, động niệm đã trái”, vì vậy cho nên nói “mầu khó nghĩ”. “Những kẻ
tăng thượng mạn” là ai? Ðó là những người vướng vào tướng, chấp và pháp,
những người đang cưỡi trâu mà lại tìm trâu, đem đèn đã cháy mà xin lửa,
trên tuyết còn thêm sương. Ðó là những kẻ tự khinh mình, cho rằng cái
linh diệu kia chỉ có tổ và Phật mới có, ta chẳng thể nào có được, cho
nên mới chạy tìm bên ngoài. “Nghe thấy chẳng kính tin” nghĩa là nếu đã
tự khinh mình, cho rằng tâm linh diệu dó không phải của mình, cho nên
không biết quý trọng giữ gìn, như đứa con nghèo khó kia(127). Nếu nhận
ra được drằng nhà mình có của báu, thì không còn tự khinh cũng cũng
không còn nghèo đói. Mỗi phút giây trở về nhìn lại Hào Quang mầu nhiệm,
không cần tìm đuổi theo ngôn từ và phân biệt, đó gọi là kẻ biết kính
tin. Kính tin lại thêm kính tin, viên ngọc gia bảo mầu nhiệu kia, mầu
nhiệm thay, cũng một lúc tất cả chúng ta đều có. Vậy hãy “Thôi, thôi!
đừng nên nói!”.
Bài tụng về cái Diệu của Diệu như sau:
Không hình không trạng cũng không tên
Mầu nhiệm trong lòng một điểm linh
Thường tịch viên thông soi pháp giới
Bản lai thanh tịnh rạng chân tinh
Từ đây phát hiện nên Chư Phật
Do đấy thành ra có chúng sinh
Ðứa con nghèo khổ lưu linh mãi
Quên mất người cha của tự mình.
Pháp
là tất cả mọi vật, là sự ứng dụng của Diệu Tâm. Diệu Tâm là nguồn
thiêng của mọi vật. Pháp là Tâm, Tâm là Pháp. Pháp là tùy duyên của Diệu
Hữu - khi không nhiễm thì gọi là diệu pháp. Tâm là ứng vật của Chân
Không, nên không vướng vào trần thì gọi là chân tâm. Mượn cái gì mà nói
được về chân tâm? Nói về diệu pháp thế nào để không ngăn ngại sự tu
chứng? Các pháp môn để tu chứng thì nhiều vô lượng, ta phải tìm pháp môn
nào gần nhất để đi vào... Vả lại các pháp tuy vô số mà bất quá đều quy
về căn, trần và thức. Ba thứ này đều do Diệu Tâm hiển hiện, cho nên
thường nói “pháp từ tâm sinh khởi, tâm là nguồn pháp”. Một niệm nghĩ lúc
ban sơ đã khiến cho biến hóa vạn cách, trôi nổi liên tiếp, sinh diệt
luân hồi, cho mãi đến bây giờ vẫn còn đuổi theo vọng tưởng, quên mất
chân tính, giống như anh chàng Diễn Nhã(128) quên đầu nhận bóng. Nay
muốn khai thị và đốn ngộ nguồn tâm thì trước hết phải biết thức là huyễn
ảnh, trần là hoa đốm hư không, cả hai thứ đều không tự sử dụng làm căn
cứ để tu hành; phải lấy căn làm phương tiện gần gũi để tu tập. Tại sao
vậy? Tại vì trần không có tự thể. Thức cũng không có tự thể thực hữu,
nhờ trần cho nên mới sinh diệt và qua lại được. Ðã sinh diệt qua lại tức
là vô thường. Chỉ có căn tính mới là thường tại, nên Phật bảo căn tính
này là Diệu Căn, Căn Pháp là Diệu Pháp. Căn Pháp dù cũng do tâm hiện ra,
như mặt trăng thứ hai cùng với mặt trăng thứ nhất là một, lúc đè mí mắt
thì có, lúc biết thì không có, thế thôi. Khi có vọng tưởng thì căn tính
là chân tâm thứ hai vậy. Khi ở trong trạng thái vô tướng linh tri, thì
chân tâm là cái chân tâm thứ nhất. Tuy vậy căn tính và linh tri cùng một
thể, chỉ khi mê thì thấy có căn tính, khi ngộ thì căn tính không còn.
Căn tính ấy cũng là một với bản tâm thanh tịnh xưa nay, không hư huyễn
như Trần và Thức. Cho nên Pháp chỉ bày rằng căn tính là nhân địa gần
nhất cho sự tu hành, khiến cho chúng sinh có thể đi vào chân tâm bằng
cánh cửa căn tính; vào dòng, trở nên đầu nguồn, thấy được tâm thể xưa
nay của mình. Hỏi: Tại sao không chỉ thẳng cái thứ nhất là Diệu tâm xưa
nay; mà lại chỉ cái thứ hai là Căn Tính để làm phương tiện tu hành? Ðáp:
Tâm vốn vô hình, làm sao mà chỉ?
Trước
kia tôi đã nói một lần rồi: ngôn thuyết và biểu thị không nắm được Tâm.
Tuy vậy, dù Tâm vô hình, nhưng sự ứng dụng của căn lại có vết tích, vì
có vết tích nên có thể chỉ bày, khiến cho người tu học có thể nhìn vết
tích của sự ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được Tâm.
Hỏi: Dấu vết ấy ở đầu?
Ðáp:
Ở trên đối tượng lục trần. Do sức mà có cái thấy, do thanh mà có cái
nghe: lục trần là dấu vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu
vết của thì phải quán sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên
biết rằng công dụng của Căn là công dụng của Tâm, căn nhận thức là tâm
nhận thức; cái khác nhau là căn có sáu công dụng mà tâm chỉ có một bản
thể tinh minh. Các Ðức Phật truyền cho nhau căn pháp này, các vị tổ
truyền nhau Tâm Tông ấy ấy. Ðó là bí quyết mà các kinh chỉ bày để đắc
căn bản trí. Pháp ấn truyền giữ qua các thời đại cũng lấy cái ấy để phát
giác sơ tâm. Chứng ngộ mau hay chậm là vì căn cơ rộng hay hẹp. Nên biết
rằng pháp này được đặt tên tùy theo trương hợp và địa phương, tuy sai
biệt vô cùng mà cũng chỉ là pháp ấy. Lại cũng nên biết là danh hiệu của
chư Phật và đề mục của các kinh cũng đều là biệt hiệu của pháp ấy.
Hỏi: Tâm ấy làm sao mà trao truyền?
Ðáp:
Ðức Thế Tôn đưa lên một nhành hoa, Ca Diếp mỉm cười, sau đó các tổ
truyền lại, giữ gìn, trường hợp khác nhau, chỉ có người giác ngộ mới tự
biết lấy.
Hỏi: Tu trì làm sao?
Ðáp: “Thôi, thôi!” đó là phương pháp; thiền sư Ðạo Xuyên nói:
Tri âm, tự khắc từng theo gió
Trăng trong gió mát đất trời nhàn.
Lại nói:
Nắm được ở tâm
Ứng được ở tay
Tuyết gió hoa trăng
Trời đất lâu dài
Cứ hễ canh năm gà gáy sáng
Xuân về hoa núi nở ngàn nơi.
Hỏi: Mục đích tối hậu là gì?
Ðáp: Phổ Hóa hòa thượng nói: “Tìm chỗ đi tới không được”. Và bài kệ nguyện trong kinh Hoa Nghiêm cũng nói:
“Nghiêng
mình làm lễ trước biển Chân Tính Hoa Nghiêm và trước tất cả các bậc
quang minh biến chiếu trước thế giới trang nghiêm do hạnh nguyện Phổ
Hiền thiết lập và trước kho tàng pháp giới Chân Như”.
Thôi xin chào, xin chào! Có bài kệ về pháp của Pháp như sau:
Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung quy cũng chỉ Thức Căn Trần.
Huyễn duyên dư ảnh dù không thực
Chân tri chính kiến vẫn bao dung
Gặp thầy chỉ dạy đường mê ngộ
Thấy Phật tìm ra lẽ sắc không
Nếu muốn lên mà bờ bến giác
Con đường trước mặt chớ lần khân.
Bát Nhã Trự Giải
Bát
Nhã Trự Giải là một tác phẩm nhằm giải thích Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật
Ða. Tác phẩm này cũng chứa đầy thi, kệ và tán như tác phẩm trước. Tâm
Kinh được xét dưới bốn khía cạnh: tín (đức tin), giải (sự thông hiểu),
hành (sự thực hành) và chứng (sự đạt đạo). Thiền sư Thanh Ðàm phân tiách
kinh ý ra mười mục như sau:
1- Ðề mục
2- Chính nhân
3- Hạnh môn
4- Khai thị
5- Thực tướng
6- Tảo nhị chấp
7- Vô sở đắc
8- Tịch diệt
9- Tu chứng
10- Nguyện mãn
Sau đó, Thanh Ðàm giải thích bài kệ Bát Nhã của Cổ Ðức, bàn về Lục Căn, Thấtt Ðại.
Ðề Án Tham Cứu
Thiền
sư Thanh Ðàm chịu ảnh hưởng rất sâu đạm bài kệ đầu tiên mà Ðạo Nguyên
trao cho mình, cho nên tất cả phương pháp tu hành mà ông chỉ bày nằm gọn
trong các chữ “Tùy thời ứng dụng”, “Ngộ vật kiến cơ”. Ông đã hiểu tám
chữ đó trong ánh sáng của Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và Bát Nhã. Ông đề ra ba
công án sau đây để giúp độc giả của ông tham cứu về Chân Tâm:
1- Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu?
Tuyên thuyết Liên Hoa pháp nhiệm mầu.
Thử hỏi cả đời sao chửa nói?
Gần khi nhập diệt mới truyền trao?
(Thế Tôn xuất thử dĩ hà duyên?
Chỉ vị liên hoa đại sự yên
Hà nãi trung gian do vị thuyết
Niết Bàn tương cận thủy ban tuyên?
2- Từ Tây phương đến chỉ tâm tông
Sao chín năm luôn mặt úp tường?
Có phải vì căn cơ chửa chín?
Chín rồi mới hiện lộ chân không?
(Tây lai trực vị chỉ tâm tông
Hà nãi cửu niên diện bích trung?
Tất dã đầu cơ cơ vị thục,
Thục thời nhiên hậu hiển chân không?)
3- Huệ Năng được ấn pháp Kim Cương
Sao phải chạy về Nam Lĩnh Dương?
Không ở ngay đây truyền pháp ấn?
Biết đâu chân tính vẫn mơ màng!
(Huệ Năng đắc pháp ấn Kim cương
Hà Nãi triền quy Nam Lĩnh Dương
Bất đán vị tha tuyên pháp ấn
Cái tri nhân tính thượng mê mang)
Ba nghi vấn đưa ra để tham cứu:
1) Tại sao Phật phải đợi đến lúc gần nhập diệt mới chịu thuyết kinh Pháp Hoa?
2) Bồ Ðề Ðạt Ma qua Ðông Ðộ để chỉ bày tâm tông, tại sao lại ngồi nhìn vách chín năm, hay là tại chưa thực sự giác ngộ?
3) Huệ Năng nếu quả thật đắc pháp ấn với Ngũ Tổ, tại sao không ở ngay đó để hoằng đạo mà lại chạy về Lĩnh Nam?
Ba
đề tài trên đây tuy vậy còn mang tính chất suy luận. Công án sau đây có
lẽ mới là công án mà thiền sư Thanh Ðàm ưa thích và sử dụng. Ta có thể
gọi nó là công án Thần Ðà(129)
Niêm: Hay lắm, Thuần Ðà
Hay lắm, Thuần Ðà
Tụng: Không nói ngắn, chẳng nói dài
Ngắn dài tốt xấu thảy đều sai
Tìm hay, lại hóa người chê vụng
Bắn sẻ, ai dè sói chực ngay
Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu “bản lai vô nhất vật”
Công lao uống phí một đời ai.
Bài thơ ngộ nghĩnh nhất của Thanh Ðàm là bài thơ Tìm Tâm, có âm hưởng tiếng trống đánh:
Ngang lưng đeo trống đối tri âm
Duỗi thẳng hai tay, đánh trống tâm:
Tập tập tìm tâm, tâm tất tập
Tìm tâm, tâm tập, tập tìm tâm.
Âm thanh hợp vận, âm tùng họa:
Tịch chiếu Tâm Tông, tức tập tầm.
Trăng sáng, gió thanh thường tự tại
Tìm tâm chẳng được, nghỉ tìm tâm.
Thôi nhé, tâm ta chẳng thể tầm
Tìm tâm dẫu được, chẳng chân tâm
Mang đèn xin lửa thêm điên đảo
Thà đứng bên sông hát khúc ngâm.
(Kiên kình yêu cổ đối tri âm
Thư thủ vô vi phách cổ tâm
Tập tập tầm tâm tâm tắc tập
Tầm tâm tâm tập, tập tầm tâm
Cổ thanh hợp vận dùng thanh họa
Tịch chiếu tâm tông tức tập tầm
Minh nguyệt thanh phong trường tự tại
Tầm tâm bất đắc, tức tầm tâm.
Chỉ chỉ! Ngô tâm bất khả tầm
Tầm tâm túng đắc tắc phi tâm
Tương đăng cầu hỏa tự điên đảo
Bất nhược sogn tiền thủ nhất ngâm).
Thiền
sư Thanh Ðàm cũng thuộc pháp phái Trúc Lâm. Cuối tác phẩm Pháp Hoa Ðề
Cương, ông có nêu lên hai câu kệ “Lục Căn Thất Ðại” của Trúc Lâm Ðiều
Ngự và căn cứ vào đó làm ra mười ba bài kệ về lục căn và thất đại. Hai
câu ấy như sau:
“Lục căn hư vọng, vô phi bồ đề diệu tâm
Thất đại biến chu, tận thị Như Lai tạng tính”
(Sáu căn hư vọng, mà căn nào cũng là diệu tâm giác ngộ,
Bảy đại trải khắp, đều là tạng tính Như Lai)
Một lần nữa ta thấy ông nhấn mạnh tới nguyên tắc “Căn Tính và Diệu Tâm là một”.
·THIỀN SƯ THANH NGUYÊN
Thiền
sư Thanh Nguyên, hiệu Minh Nam, là người viết bài tựa cho sách Pháp Hoa
Ðề Cương của Thanh Ðàm. Hai vị có lẽ cùng một bản sư và một môn phái.
Sau đây là bài kêï của ông tán dương sách Pháp Hoa Ðề Cương:
Hồ xanh trong biếc nảy sen thơm
Kinh mục nêu bày nghĩa đại cương
Minh chính nhất thừa đà quảng bá
Ðạo trung tâm yếu lại hoằng dương
Quần phương tỏ ngộ tâm viên tịch
Ðại chúng đồng tham lsy vĩnh trường
Thanh tịnh sen kia ngời pháp giới
Tự tính Tỳ lô khéo xiển dương.
(Bích thanh đàm xuất diệu liên hương
Hoa mục chi tiêu tổng pháp cương
Minh Chính nhất thừa khai tối quảng
Ðạo trung tâm yếu thị hoằng dương.
Quần phương hội ngộ viên tâm tịnh
Chúng đẳng đế quan nhập lý trường
Thanh tịnh liên hoa quang pháp giới
Tỳ Lư tính hải diẽn chân thường)
Bài
tựa sách Pháp Hoa Ðề Cương được viết vào tháng tám âm lịch năm 1820.
Hai chữ Minh Chính trong bài thơ là pháp hiệu của Thanh Ðàm.
·THIỀN SƯ AN THIỀN
Ông
là tác giả Tam Giáo Thông Khảo. Sách cũng có tên Ðạo Giáo Nguyên Lưu,
được biên tập vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười chín, trong thời gian vua
Thiệu Trị còn tại vị. Thiền sư An Thiền trú trì tại chùa Ðại Giác ở làng
Bồ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sách Tam Giáo Thông Khảo gồm ba quyển. Có lẽ
sách được in năm 1845, bởi vì đầu sách có một bài tựa ký tên Nguyễn Ðại
Phương, viết vào năm 1845. Quyển thứ nhất nói về đạo Phật, gồm có những
mục sau đây:
1- Phụng Chiếu Cầu Pháp: Việc du học của thiền sư Tính Tuyền Trạm Công
2- Bản Quốc Thiền Môn Kinh Bản: Các bản kinh khắc ở Việt Nam.
3- Ðại Nam Thiền Học Sơ Khởi: Khởi thủy Thiền học Việt Nam.
4- Ðại Nam Phật Tháp: Các tháp Phật ở Việt Nam.
5- Vô Ngôn Thông Truyền Pháp: Thiền phái Vô Ngôn Thông.
6- Danh Chấn Triều Ðình: Các cao tăng nổi tiếng ở triều đình.
7- Lê Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Tiền Lê
8- Lý Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Lý
9- Trần Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Trần.
10- Tỳ Ni Ða Lưu Chi Truyền Pháp: Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi
11- Tuyết Ðậu Truyền Pháp: Thiền phái Thảo Ðường.
12- Những việc thần bí liên quan đến các thiền sư Việt Nam qua các triều đại.
13- Danh từ Phật học và các thần thoại trong Phật giáo ở Trung Hoa và Việt Nam.
Quyển thứ hai và quyển thứ ba nói về Khổng và Lão Giáo.
·THIỀN SƯ NHẤT ÐỊNH
Thiền
sư Nhất Ðịnh pháp danh là Tính Thiên, người Quảng Trị, sinh năm 1783.
Ông xuất gia hồi còn là một nhi đồng, lớn lên được thiền sư Phổ Tịnh
chùa Thiên Thọ làm lễ thế độ làm sa di. Sau ông thụ giới cụ túc với
thiền sư Mật Hoàng ở chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long, ông giữ chức
vụ trú trì chùa Thiên thọ.
Năm
1833, vua Minh Mạng thỉnh ông trú trì chùa Linh Hựu. Năm 1839 vua lại
thỉnh ông làm Tăng Cương chùa Giác Hoàng. Tính ông ưa vân du nên không
thích quản đốc các chùa quốc tự. Năm 1843, ông xin từ chức Tăng Cương
chùa Giác Hoàng, được vua Thiệu Trị chấp nhận. Ông rất hài lòng, nói:
Già rồi, may được vua thương,
Một thân, một bát rộng đường vân du.
(Hạnh phùng tấu dắc nhưng hồi lão
Nhất bát cô thân vạn lý du)
Mấy
năm sau đó, ông lên núi Dương Xuân Thượng quận Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên, dựng một thảo am để ở, gọi là An Dưỡng Am. Cảnh trí ở đây u nhàn
đẹp đẽ. Ông tu ở đây cho đến năm 1847 thì tịch, thọ đúng sáu mươi bốn
tuổi. Ba người đệ tử xuất sắc nhất của ông là Lưỡng Duyên, Cương Kỷ và
Linh Cơ.
Thái
giám viện nương vào đức độ của ông, dựng chùa lớn tại địa điểm An Dưỡng
Am, đặt tên là chùa Từ Hiếu, kiến trúc tương tự kiến trúc lăng vua Tự
Ðức. Tên chùa là Từ Hiếu vì các đệ tử ông vẫn nhớ lúc sinh tiền ông rất
có hiếu với cha mẹ, dù đã đi xuất gia.
·THIỀN SƯ DIỆU GIÁC
Ông
họ Ðỗ, pháp danh là Hải Thuận, sinh năm 1805 tại làng Bích Khê, Quảng
Trị. Năm mười ba tuổi, ông vào làm điệu chùa Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm
hai mươi tuổi được thụ giới sa di với thiền sư Bản Giác ở chùa này. Năm
1835, ông được Bộ Lễ ban cấp giới đao và độ điệp, và đắc pháp với thiền
sư Nhất Ðịnh ở chùa Linh Hựu. Ông trú trì chùa Diệu Ðế, đứng ra trùng tu
các chùa Huệ Lâm, Báo Quốc và Kim Tiên. Năm 1895, ông tổ chức đại giới
đàn tại chùa Báo Quốc.
Ông có nhiều đệ tử đắc pháp xuất sắc như các thiền sư Tâm Quảng, Tâm Thể, Tâm Truyền và Tâm Tịnh.
Ông mất năm 1896, thọ chín mươi mốt tuổi.
·THIỀN SƯ TỊCH TRUYỀN
Thiền
sư Tịch Truyền pháp danh là Kim Liên, người làng Trình Viên ở Thượng
Phúc, tỉnh Hà Nội. Sinh năm 1746, ông xuất gia hồi bé, lớn lên được
thiền sư Hải Quỳnh ở chùa Liên Tông làm lễ thế độ. Ông trú trì chùa Vân
Trai, tu hành rất tinh tấn, giữ giới cẩn mật. Năm 1816, ông tịch, thọ
bảy mươi tuổi. Ðệ tử đầu của ông là thiền sư Chiếu Khoan. Ông có để lại
bài kệ sau đây:
Tâm có trước đất trời
Thân có sau trời đất
Ðất trời bọc thân tâm
Xoay vần bao giờ mất.
(Tâm vi thiên địa tiên
Thân vi thiên địa hậu
Thân tâm thiên địa nội
Tuần hoàn vô cùng kỷ).
·THIỀN SƯ CHIẾU KHOAN
Ông
họ Nguyễn, sinh năm 1741 ở làng Trình Viên, tỉnh Hà Nội. Ông xuất gia
từ hồi còn bé, ở chùa Vân Trai, pháp danh là Tường Quang, đệ tử của
thiền sư Tịch Truyền. Ông ưa tu hạnh đầu đà, tịch cốc ba năm, và trong
sáu năm liền, ông chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Ông học đức khiêm cung, hễ vị
tăng nào đến chùa là ông đắp y ra đảnh lễ, không phân biệt cấp bực. Ðệ
tử quy y rất đông. Ði đến đâu ông cũng khuyên người tu phúc, bố thí,
phóng sinh, chép kinh, giảng kinh.
Ông tịch năm 1830. Ðệ tử đầu tay của ông là thiền sư Phổ Tinh.
·THIỀN SƯ PHÚC ÐIỀN
Thiền
sư Phúc Ðiền là người có công đức lớn trong việc bảo tồn sử liệu Phật
giáo. Ông biên soạn sách Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục(130).
Ông trú trì chùa Liên Tông, làng Bạch Mai, tỉnh Hà Ðông nhưng công việc
san khắc này được thực hiện tại chùa Bồ Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc
Ninh.
Công
việc san khắc, ông giao cho thiền sư Phương Viên, giám tự chùa Bồ Sơn
đứng ra chủ trì. Một vị tăng chùa Bồ Sơn pháp danh là Thanh Hà phụ trách
việc viết chữ khắc bản. Thiền sư Phúc Ðiền viết bài tựa cho sách đầu
năm 1859, và có lẽ sách được ấn hành trong năm đó.
Phúc
Ðiền cũng là người khai sơn chùa Thiên Quang, ở núi Ðại Hùng, tỉnh Hà
Nội. Chùa này được thiền sư Phổ Tịnh hồi nhỏ đã theo thiền sư Phúc Ðiền
để tu học, sau này ông thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan.
·THIỀN SƯ PHỔ TỊNH
Ông
quê ở làng Vũ Lăng, ở Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, xuất gia theo học với
thiền sư Phúc Ðiền, lớn lên thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan ở
chùa Vân Trai. Sau đó ông về trú trì chùa Thiên Quang ở núi Ðại Hùng, do
Phúc Ðiền kiến tạo. Ông có để lại bài thơ sau đây:
Tĩnh tọa bao năm núi Ðại Hùng
Thân cùng, đạo vẫn thấy vô cùng
Sáu chữ chuyên trì thân thọ ký
Lưu truyền hậu thế rạng tông phong.
(Kinh niên tĩnh tọa đại hùng phong
Thực thị thân cùng đạo bất cùng
Lục tự chuyên trì thân thọ ký
Lưu truyền hậu thế hiển tông phong).
·THIỀN SƯ THÔNG VINH
Thiền
sư Thông Vinh người làng Nhân Kiệt, tỉnh Hải Dương. Hồi còn bé ở chùa
Hàm Long với thiền sư Tính Ngạn, lớn lên được thụ giới cụ túc với thiền
sư Phúc Ðiền. Ông có công tu tạo lại nhiều ngôi chùa. Ðệ tử rất đông, đi
hoằng hóa khắp nơi. Ông có để lại bài kệ sau đây:
Tâm không cảnh tịch
Siêu việt thánh phàm
Y nhiẽm tình sinh
Ràng buộc trăm mối
Các pháp nhân thiên
Ðều tại nơi ấy
Ta người nhất thể
Nguồn gốc là tâm.
(Tâm không canh tịch
Việt thánh siêu phàm
Ý nhiễm tình sinh
Vạn duyên hệ phược
Thiên nhân chư pháp
Tận tại kỳ trung
Bỉ ngã nhất thể
Nguyên bản duy tâm)
·THIỀN SƯ LIỄU THÔNG
Thiền
sư Liễu Thông pháp danh là Chân Giác, tên tục là Huỳnh Ðậu, sinh năm
1753 ở Thanh Hóa. Trên đường du hóa, ông vào tận Gia Ðịnh, vùng đất Cây
Mai, dựng thảo am trên nền một ngôi chùa Thủy Chân Lạp đã đổ nát để
thiền tọa. Nền này ở trên một chiếc gò cao. Một hôm, thấy chim phụng
hoàng đến đậu trên cây ngô đồng trước am, ông liền đặt tên gò là Phụng
Sơn và am là Phụng Sơn Am. Dần dần Phụng Sơn Am trở thành chùa Phụng
Sơn, thiền sư Liễu Thông ở lại đây hành đạo cho đến khi viên tịch. Ðó là
vào năm 1840. Ðệ tử của ông là thiền sư Hải Linh, pháp danh Quảng Tú,
tên tục là Lê Văn Núi, kế thế trú trì chùa Phụng Sơn. Thiền sư Hải Linh
trú trì tại đây suốt năm mươi sáu năm, đến năm 1896 thì viên tịch. Tháp
của hai vị tổ chùa Phụng Sơn được xây dựng trong đất chùa. Sau khi Hải
Linh mất, một vị thiền sư tên là Thanh Sơn, pháp danh Ðạt Bích kế tiếp
trú trì chùa Phụng Sơn. Thanh Sơn trú trì được gần bốn năm thì tịch. Bổn
đạo chùa Phụng Sơn liền đến thỉnh thiền sư Thanh Mãng, pháp danh là
Thiện Ðịnh, lúc đó trú trì chùa Tịnh Ðộ ở làng Tân Sơn Nhất, về trú trì
chùa Phụng Sơn. Thiền sư Thanh Mãng nhận lời và ủy cho một vị đệ tử trẻ
là Huệ Minh thay mặt mình chăm sóc chùa Phụng Sơn. Huệ Minh vân du học
đạo, chùa Phụng Sơn được thiền sư Như Chấn người Gia Ðịnh, xuất thân từ
chùa Giác Viên, đến trú trì.
Thiền
sư Như Chấn, pháp danh là Thiện Nghĩa, tự thiêu nhằm ngày Phật đản năm
1903. Thiền sư Huệ Minh du học về, làm lễ hỏa táng Như Chấn, và xây cất
lại chùa Phụng Sơn thành một ngôi Phạm Vũ. Chùa hoàn thành vào năm
1915(131)
·THIỀN SƯ VIÊN QUANG
Ông
trú trì chùa Tập Phước, tỉnh Gia Ðịnh, Ông lại là sư huynh của thiền sư
Mật Hoàng, phát xuất từ chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh, và là đệ tử của
thiền sư Linh Nhạc, dòng dõi của thiền sư Minh Lương Nguyệt Am, pháp
phái Nguyên Thiều. Chùa Tập Phước đã được dựng vào hồi thế kỷ thứ mười
tám, trong đời chùa Nguyễn Phúc Khoát. Ông là bạn của Trịnh Hoài Ðức.
Khi về làm tổng trấn Gia Ðịnh, Trịnh Hoài Ðức có tặng ông một bài ngũ
ngôn cổ điệu. Bài thơ như sau:
Ức tích thái bình thì
Lộc đỗng phương thịnh mỹ
Thích Ca giáo hưng sùng
Lâm ngoại tổ phú quý
Ngã vi thiêu hương đồng
Sư tác chi giới sĩ
Tuy ngoại phân thanh hoàng
Nhược mạc khế tâm chí
Phong trần thúc lương bằng
Thế giới nhập ngạ quỷ
Bình ngạch nhậm phù trầm
Bào ảnh đẳng sinh tử
Yểm tứ thập dư niên
Hoàng thuấn tức gian sự!
Tây giao thích nhàn hành
Sơn môn ngẫu tưởng trị
Ngã hiệp biện trấn công
Sư đại hòa thượng vị
Chấp thủ nghĩ mộng hồn
Ðàm tâm, tạp kinh quý
Vãng sự hà túc luân
Ðại đạo hợp như thị.
tạm dịch:
Nhớ xưa hồi thái bình
ÐấtÐồng Nai được hưng mỹ
Ðạo Phật được hưng sùng
Nhà ngoại thêm phú quý
Ta đồng tử đốt hương
Sư theo đòi giáo nghĩa
Bên ngoài chia đạo, đời
Bên trong đồng tâm trí
Loạn lạc phải xa nhau
Thế giới thành ngạ quỷ
Ta trôi nổi vào ra,
Bọt bèo biển sinh tử
Mới đó bốn mươi năm
Chớp nhoáng chuyện thế sự
Nay bỗng nhiên nhàn hành
Nơi thiền môn gặp gỡ
Ta hiệp biện trấn công
Sư cao tăng thượng sĩ!
Nhắc lại chuyện ngày qua
Tâm cùng tâm tương nghị
Chuyện xưa nói sao cùng !
Ðại đạo vốn như thị.
Bài
thơ này có lẽ được viết năm 1816 lúc Trịnh Hoài Ðức được bốn mươi hai
tuổi (“yểm tứ thập dư niên”) lúc ông mới được làm tổng trấn Gia Ðịnh
(“ngã hiệp biện trấn công”)
·THIỀN SƯ ÐẠO THÔNG
Ông
họ Nguyễn pháp danh là Nguyên Quán, quê làng Long Thành, Gò Công, xuất
gia hồi mười lăm tuổi. Năm 1870, ông học đạo tại chùa Thiền Lâm với
thiền sư Vô Tri. Ba năm sau, ông tới học với thiền sư trú trì chùa Ân
Tôn(132), rồi tới chùa Trường Thọ, học với thiền sư Tâm Thanh và ở lại
đây sáu năm. Năm 1893, ông lại tới thôn Linh Chiểu Ðông và học đạo với
thiền sư Huệ Lưu trong hai năm. Sau đó, ông phát tâm trùng tu chùa Long
Hoa. Chùa này được dựng từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát bởi một vị thiền
sư tên là Ông Ðạo Nham, người làng Ðại Hội, tỉnh Quảng Nam, và đã được
vua Gia Long sắc phong(133).
·THIỀN SƯ GIÁC NGỘ
Ông
tên Hứa Mật Sô, người huyện Ðồng Xuân, Tỉnh Phú Yên, xuất gia ở chùa
Bát Nhã trên núi Long Sơn thuộc làng Mỹ Phú, huyện Ðồng Xuân. Ông tu khổ
hạnh ở trong rừng, mặc áo đan bằng vỏ cây, lấy hai miếng gỗ làm guốc,
vượt núi qua sông một cách dễ dàng.
Năm
1839 vua Minh Mạng nghe tiếng thỉnh về kinh đô, mời ông làm trú trì
chùa Giác Hoàng và ban cho ông biệt hiệu Sơn Nhân Hòa Thượng. Năm 1842,
vua Thiệu Trị lại mời ông làm trú trì chùa Diệu Ðế. Sau đó, ông xin được
phép rút lui về núi. Không biết ông tịch ở đâu và vào năm nào.
·THIỀN SƯ CƯƠNG KỶ
Pháp
danh thiền sư Cương Kỷ là Hải Thiệu, ông là đệ tử thiền sư Nhất Ðịnh,
được thỉnh chủ trì chùa Từ Hiếu, vân tập tăng chúng, làm cho Từ Hiếu trở
thành một vùng thịnh vượng. Ðệ tử xuất sắc nhất của ông là thiền sư Huệ
Pháp, chủ trì chùa Thiên Hưng, rất có công trong việc xiểng minh Phật
giáo ở thế kỷ thứ hai mươi. Một vị đệ tử lớn khác của ông là thiền sư
Viên Giác, người khai sơn chùa Ba La Mật. Ông có phát hai mươi lăm lời
đại nguyện, còn được khắc trên bai tháp tại chùa Từ Hiếu.
·THIỀN SƯ CHÍ THÀNH
Ông trú trì chùa Tam Thai tỉnh Quảng Nam, là thầy của thiền sư Ðạo Diệu.
·THIỀN SƯ DIỆU NGHIÊM
Trú
trì chùa Từ Quang ở núi Ðá Trắng, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, ông là tác
giả nhiều sách có giá trị, trong đó có: Sự Nghĩa Luật Yếu Lược, Sự Nghĩa
Quy Nguyên, Kinh Báo Ân. Những tác phẩm đó đã từng được khắc bản lưu
hành. Khánh Anh viết trong tạp chí Duy Tâm số 5 ra ngày 1.2.1936: “Phẩm
Ưu Ba Ly {được ngài} chú giải {một cách} hiển vi ẩn xuất - từ cổ chí kim
chắc không ai hiểu nổi {phẩm ấy} nếu không nhờ Ngài chú thích”. Thiền
sư Diệu Nghiêm pháp danh là Pháp Chuyên, hiệu là Luật Truyền.
·THIỀN SƯ VIÊN NGỘ
Năm
1808 Thích Viên Ngộ dựng chùa Lan Nhã và hành đạo tại làng Thanh Ba,
Gia Ðịnh. Ông tên là Nguyễn Chất người huyện Phước Lộc, xuất gia năm
1806, đệ tử của hòa thượng chùa Vĩnh Quang, thường phát nguyện thực hành
hạnh của Bồ Tát Trì Ðịa, chuyên chặt gai dọn đường, đắp những con đường
lầy lội để cho dân chúng qua lại. Trong suốt mười năm, ông chỉ ngồi,
không nằm, suốt cả ngày đêm. Năm 1820 bệnh đậu phát ra vùng, ông trì chú
tụng kinh và nguyện không ăn cho đến khi bệnh hết hoành hành và dân
chúng được bình yên. Năm 1846 ông tuyệt thực và tuyệt thủy trong bốn
mươi chín ngày rồi tịch.
·THIỀN SƯ PHƯỚC AN
Ông
tạo lập chùa Hưng Long ở làng An Ðiềm, huyện Bình Dương, Gia Ðịnh vào
năm 1794. Một người lính trong làng tên Yển đi quyên góp để giúp ông
trong việc tạo dựng chùa này. Ðến năm 1803, chùa được thiền sư Chính
Niệm trùng tu.
·THIỀN SƯ LIỄU TRIỆT
Ông
tên Ðoàn Thiên Thu, người làng An Truyền quận Phú Vang, Thừa Thiên,
pháp hiệu là Từ Minh, xuất thân từ chùa Quốc Ân, sau khi thiền sư Từ Hòa
ở Quốc Ân viên tịch, ông được lập làm trú trì chùa Quốc Ân. Ba năm sau,
tức là năm 1852, ông từ chức, ra lập một thảo am ở làng Phú Xuân tên là
Viên Quang Ðường. Trong số các đệ tử của ông, có hoàng hậu Lệ Thiên,
chánh cung của vua Tự Ðức. Am Viên Quang sau này biến thành chùa Linh
Quang mà thiền sư Liễu Triệt là vị tổ khai sơn. Ông cũng đã từng kiêm
nhiệm chức tăng cương chùa Giác Hoàng. Ông mất năm 1882.
Làng
An Truyền quê ông là nơi xuất phát cuộc biến động năm 1866 chống lại
vua Tự Ðức do ba anh em Ðoàn Trưng, Ðoàn Tư Trực và Ðoàn Hữu Ái cầm
đầu(134). Cuộc biến động này sau được gọi là “Giặc Chày Vôi” vì khí giới
chống chính quyên là những chiếc chày giã vôi. Ðể những công trình xây
cất được kiên cố, người ta lấy vôi, rơm rạ, đường đen và giây tơ hồng
trộn lại, bỏ vào cối, và giã nhuyễn ra thành một thức vôi hồ đặc biệt.
Vua Tự Ðức tiêu phí không biết bao nhiêu nhân lực và tiền bạc trong việc
xây dựng lăng Tự Ðức trong khi dân tình đói khổ, dân chúng oán hận. Vua
lại tỏ ra bất lực trong việc ngoại giao, quân sự, để mất thành Gia
Ðịnh, tỉnh Ðịnh Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long vào tay Pháp. Hậu quả là
cuộc nổi loạn nói trên, đêm mồng tám tháng tám âm lịch, quần chúng cách
mạng đã cầm chày vôi đập phá tới nội cung, và vua Tự Ðức suýt nữa là bị
giết. Nhưng quan chưởng vệ là Hồ Oai đã dập tắt được cuộc nổi loạn, và
những người cầm đầu đều bị án tử hình.
Trong
thời gian họat động bí mật Ðoàn Trưng đã liên kết được một số các chùa
như chùa Long Quang và Pháp Vân. Những chùa này đã là nơi hội họp và
chất chưa “chày vôi”. Vị trú trì chùa Long Quang tên Nguyễn Văn Trí và
rất nhiều vị tăng rải rác các chùa ở kinh sư đã bị bắt vì có tội có liên
lạc và hợp tác với “giặc”. Tăng Ni bị bắt và hoàn tục gần hết. Sự trả
thù của vua Tự Ðức cũng nặng nề như một vụ đàn áp lớn. Kinh sư lúc ấy
chỉ còn hai mươi bốn ngôi chùa với hai mươi bốn vị tự trưởng mà thôi.
Hoàng hậu Lệ Thiên, dưới ảnh hưởng của thiền sư Liễu Triệt, đã khẩn
khoản xin tha tội chết cho các tăng ni liên hệ tới cuộc cách mạng.
·THIỀN SƯ HUYỀN KHÊ
Thiền
sư Huyền Khê pháp danh Giác Linh là người Quảng Ðông. Theo Ðại Nam Liệt
Truyện Tiền Biên, ông thuộc đời 35 phái Lâm Tế. Thuở nhỏ, ông đánh nhau
lỡ tay giết mất một người, nên sau đó ông xin vào chùa xin xuất gia
hành đạo. Sau một thời gian tu hành, ông theo đường biển vào tới Ðông
Phố, làm một vị du tăng. Sau cùng ông ra Thuận Hóa tu ở chùa Pháp Vân
(sau đổi thành chùa Thiên Phước). Giới hạnh thanh tịnh, ông có rất nhiều
đệ tử. Nghe nói ông tinh thông võ nghệ, nhiều người tới xin thụ giáo,
ông cũng không từ chối.
--------------------------------------------------------------------------------
(125) Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ
(126) Sau này đổi lại là Phước Duyên Bảo Tháp
(127)
Một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: đứa con mang một viên bảo châu giá trị
trăm ngàn lạng vàng trong tà áo mà không biết, cho nên cứ mãi sống đời
cùng khổ.
(128)
Diễn Nhã Ðạt Ða một buổi sáng soi gương thấy mặt mũi mình khả ái, chợt
trách cái đầu mình lâu nay không thấy được cái mũi mình. Nghĩ rằng mình
không có cái đầu cho nên không không thấy được mặt, do đó anh ta hoảng
hốt chạy khắp thành phố Thất La Phiệt, phát cuồng.
(129)
Thuần Ðà: người cư sĩ đã dâng Phật bữa ăn cuối cùng trong đời Ngài. Bữa
ăn này có nấm độc. Phật dùng xong bảo đổ chỗ còn lại, không cho các vị
tỳ khưu đi theo dùng
(130) Xin xem chương XX
(131) Tài liẹu báo Tri Tân số 7, ngày 18.7.1941
(132)
Chùa Ân Tôn tức là chùa Cây Mai, ở làng Phú Giáo huyện Tân Long, dựng
trên nền một ngôi chùa cổ Thủy Chân Lạp, nằm trên gò đất cao. Năm 1816
có một tăng sĩ trùng tu chùa ấy đào được ba miếng vàng lá có khắc hình
Ðức Phật cưỡi lưng voi. Dưới triều Minh Mạng chùa lại được trùng tu, các
ông Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản có dựng tại chùa một nhà thủy
tạ có gác cao. Chùa có trồng một cây mai già bông trắng rất nổi tiếng.
Tôn Thọ Tường có làm bài thơ vịnh cây mai ấy như sau:
Cám cảnh cây mai cách dưới đèo
Mười phần trong sạch phận cheo leo
Sương in tuyết đóng cành thưa thớt
Xuân tới thu về nỗi quạnh hiu
Lặng lẽ chuông quen cơn bóng xế
Tò le kèn lạ mặt trời chiều
Những tay rượu thánh thưo thần cũ
Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.
(133) Tài liệu của Huỳnh Minh, trong Gia Ðịnh Xưa và Nay, Saigon, 1973.
(134)
Cùng với những nhân vật khác như Phạm Lương và Trương Trọng Hòa, ba anh
em họ Ðoàn mưu tính lập một người là Ðinh Ðạo lên ngôi vua. Nghĩa Ðảng
của họ chiêu dụ được lính tráng đang phục vụ việc xây dựng lăng Tự Ðức
và liên lạc được với quan Hữu quân Tôn Thất Cúc, dùng ông này làm nội
ứng