Chương XXII: Thiền Phái Lâm Tế và Phật Giáo Đàng Trong
CÁC THIỀN SƯ TỪ TRUNG HOA SANG HOẰNG HÓA
Ngay
sau khi Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất
Thuận Hóa, ông đã để ý đến việc lập chùa. Năm 1601, ông đã bắt đầu cho
xây dựng chùa Thiên Mụ ở xã Hà khê, huyện Hương Trà. Năm sau, vào ngày
Vu Lan, chúa đến chùa Thiên Mụ lập trai đàn và làm lễ bố thí. Chúa lại
cho dựng chùa Sùng Hóa trên nền một ngôi chùa cổ ở xã Triêm Ân, huyện
Phú Vang. Năm 1607, chúa cho lập chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu, Quảng nam.
Năm 1609, chúa lại lập chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, Quảng Bình. Sau
khi chúa dựng xong dinh Quảng Nam ở xã Cần Húc, chúa lại cho lập một
ngôi chùa gần đó, gọi là chùa Long Hưng, ở về mé Ðông của trấn.
Như
vậy trong thâm ý của chúa Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa
tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy cho
nên sau này, các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng thượng đạo Phật và nhân dân
Ðàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng
chân thật, mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh
Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần
quan trọng của những tổ đình hiện nay là do các thiền sư Trung Hoa sáng
lập.
Thế kỷ thứ mười bảy ghi nhận có mặt của các thiền sư Trung Hoa sau đây tại Ðàng Trong:
- Các thiền sư Viên Cảnh và Viên Khoan vở Quảng Trị.
- Thiền sư Minh Hoằng khai sơn chùa Ấn Tôn, Thuận Hóa.
- Thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Thiên Thọ, Thuận hóa.
- Thiền sư Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa.
- Thiền sư Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam.
- Quốc sư hưng Liên, trụ trì chùa Tam Thai, Quảng Nam.
- Thiền sư Pháp Hóa, khai sơn chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi.
- Thiền sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tông, Phú Yên
- Thiền sư Nguyên Thiều, khai sơn chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình Ðịnh và các chùa Quốc Ân và Hà Trung, Thuận Hóa.
- Thiền sư Thạch Liêm, khai sơn chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa.
Tất cả đều thuộc phái thiền Lâm Tế - chỉ trừ hai vị Hưng Liên và Thạch Liêm thuộc phái thiền Tào Ðộng
Các thiền sư Viên Cảnh và Viên Khoan
Hồi
thiền sư Hương Hải 25 tuổi, còn làm tri phủ ở Triệu Phong, Quảng Trị,
tức là vào năm 1652, ông đã được học Phật với hai thiền sư này. vị thứ
nhất tên là Lục Hồ Viên Cảnh. Vị thứ hai tên là Ðại Thâm Viên Khoan.
Danh từ Lục Hồ có vẻ như là một địa danh ở Trung Hoa, không phải là một
pháp danh, điều này cho ta thấy hai thiền sư là du tăng Trung Quốc. Hai
người đều có pháp hiệu đứng đầu bằng chữ Viên: Viên Cảnh và Viên Khoan,
vậy hai người có thể là đồng sư hay đồng môn phái, cùng rời Trung Hoa
với nhau một lần. Không biết hai vị thiền sư này trú trì tại chùa nào ở
Quảng Trị. Tổ đình xưa nhất ở đây là chùa Tịnh Quang do thiền sư Chí Khả
khai sơn. Một điều đáng chú ý là pháp tự của Hương Hải do thiền sư Viên
Cảnh đặt được bắt đầu bằng chữ Minh (Minh Châu Hương Hải) và những pháp
tử của Hương Hải thì có pháp hiệu bắt đầu bằng chữ Chân như Chân Lý Ðề
Mật, còn các pháp điệt thì có các pháp hiệu bắt đầu bàng chữ Tính. Thứ
tự truyền thừa cũng giống như trong truyền thống Chuyết Chuyết: Viên Văn
- Minh Hành - Chân Nguyên - Tính Tính... Ðiều này cho phép ta nghĩ rằng
hai bên cùng theo một pháp phái và Hương Hải là người cùng thế hệ với
Minh Hành. Ðiểm này còn đợi khảo chứng.
Thiền sư Nguyên Thiều
Thiền
sư Nguyên Thiều họ Tạ, pháp tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hưng,
phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Ðông. Năm 19 tuổi, ông xuất gia tại chùa Báo
Tư, tu học dưới sự hướng dẫn của hòa thượng Khoáng Viên(76). Ông theo
thuyền buôn sang Việt Nam năm 1665 trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Ban
đầu ông cư trú tại phủ Quy Ninh (Bình Ðịnh bây giờ), sau đó lập chùa
Thập Tháp Di Ðà. Chùa này tọa lạc ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn;
sau chùa có mười ngôi cổ tháp Chàm cho nên chùa được gọi là chùa Thập
Tháp. Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí nói rằng chùa này lập năm 1683, niên
đại này có lẽ là niên đại hoàn tất chùa sau nhiều năm xây cất. Năm 1691,
chùa được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho biển ngạch và câu đối. Sau đó
Nguyên Thiều lại ra Thuận Hóa dựng chùa Quốc Ân và xây tháp Phổ Ðồng.
Chùa Quốc Ân tọa lạc tại ấp Phúc Quả. Chùa cũng được chúa Nguyễn Phúc
Chu ban cho liễn đối có ghi đạo hiệu của chúa là “Thiên Túng Ðạo Nhân”.
Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí nói rằng tháp Phổ Ðồng được xây trước chùa
Quốc Ân, sau đó bị binh lửa tàn phá.
Sách
Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nói rằng Nguyên Thiều có phụng mệnh chúa
Nguyễn Phúc Trăn sang Quảng Ðông rước thiền sư Thạch Liêm (Ðại Sán) và
thỉnh pháp khí. Bia đá chùa Quốc Ân do chúa Nguyễn Phúc Chú đề năm 1729
cũng nói: “Thiền sư Hoán Bích Tạ Nguyên Thiều ở chùa Hà Trung vâng lệnh
Nghĩa Vương qua Quảng Ðông mời hòa thượng Ðại Sán”. Xét kỹ Nguyên Thiều
chưa từng mời Thạch liêm; cùng qua Ðại Việt với Nguyên Thiều cũng có
những thiền sư khác nhưng không có mặt Thạch Liêm. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự
do Thạch Liêm viết cho biết ông sang Ðại Việt năm 1695 với một người bạn
và nhiều đệ tử của ông chứ không đi với Nguyên Thiều. Sách lại kể
chuyện ông tới thăm chùa Hà Trung là nơi thiền sư Nguyên Thiều mà chỉ
gặp mọt vị giám tự mới thọ giới tỳ khưu với ông mấy tháng trước đó tại
giới đàn Thiền Lâm. Một vị giám tự mới thọ tỳ khưu thì chắc chắn không
phải là thiền sư Nguyên Thiều, người đã khai sơn hai tổ đình lớn là Thập
Tháp và Quốc Ân. Ðiều đó cho ta thấy rằng Nguyên Thiều đã tịch trước
năm 1695 tức là năm Thạch Liêm tới Ðại Việt. Niên đại 1729 đề ở bia Quốc
Ân chỉ là niên đại dựng bia chứ không phải niên đại nhập diệt của
Nguyên Thiều(77).
Sách
Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nói Nguyên Thiều thọ 81 tuổi. Vậy ông mất
vào năm nào và sinh vào năm nào? Ta biết khi Nguyên Thiều mất, chúa
Nguyễn Phúc Chu ban cho ông thụy hiệu là Hạnh Ðoan Thiền Sư. Như vậy ta
có thể biết chắc rằng Nguyên Thiều mất vào khoảng từ năm 1691 tức là năm
chúa Nguyễn Phúc Chu lên ngôi đến năm 1695 tức là năm qua Ðại Việt của
thiền sư Thạch Liêm. Như vậy ông sinh vào khoảng 1610-1614 và qua Ðại
Việt vào khoảng từ năm 51 đến 55 tuổi.
Sách
Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên có nhắc đến chuyện chúa Nguyễn Phúc Trăn
nhờ Nguyên Thiều qua Trung Hoa để mời cao tăng và thỉnh pháp tượng, pháp
khí. Thượng Tọa Mật Thể trong sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược(78) có
nói rằng sau khi Nguyên Thiều về Ðại Việt, chúa Nguyễn Phúc Trăn có cho
tổ chức giới đàn lớn tại chùa Linh Mụ. Chưa thấy có chỗ nào chép như
thế. Theo Thượng Tọa Mật Thể, chuyến đi của Nguyên Thiều sang Quảng Ðông
có mục đích mời một số cao tăng sung vào ban thập sư truyền giới tại
giới đàn, đồng thời cũng là để thỉnh những pháp khí (như tràng phan,
chuông, mõ) cần thiết cho giới đàn. Ta nghĩ rằng một chuyến đi như vậy
không thể chỉ để thỉnh tượng Phật và pháp khí và một vài vị tăng sĩ; cho
nên việc lập giới đàn do Thạch Liêm tổ chức tại chùa Thiền Lâm năm
1695. Chúa Nguyễn Phúc Chu khi tới giới đàn đã quá khâm phục mà nói:
“May có Lão Hòa Thượng tới đây mới được thấy pháp môn quảng đại trang
nghiêm như vậy”. Như thế có nghĩa là từ đó về trước chưa có giới đàn nào
tổ chức lớn như vậy, kể cả những giới đàn do thiền sư Nguyên Thiều tổ
chức. Chúa Nguyễn Phúc Chu dù còn trẻ cũng đã được đi theo để dự xem
giới đàn Linh Mụ tổ chức dưới thời chúa Nguyễn Phúc Trăn.
Những
vị cao tăng nào đã cùng qua Ðại Việt với thiền sư Nguyên Thiều? Theo
tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Lược thì cùng qua với Nguyên Thiều có các
thiền sư Minh Hành Tại Tại, Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh
Vật Nhất Trí. Ta không thể biết chắc được tát cả những thiền sư có tên
trên đây đã cùng qua với thiền sư Nguyên Thiều hay không. Thiền sư Minh
Hành chẳng hạn, như ta đã biết, đã qua Ðại Việt trước đó tới gần 60 năm,
tới kinh đô Thăng Long vào năm 1633. Vậy ta chỉ có thể nói rằng một số
các thiền sư có tên ở trên đã cùng qua với Nguyên Thiều, mà chắc chắc
nhất là những vị đã lưu trú lại các tổ đình Thập Tháp và Quốc Ân do
Nguyên Thiều khai sơn, như Minh Vật Nhất Trí, Minh Hoàng Ðịnh Nhiên.
Những vị này có thể là những pháp điệt gọi Nguyên Thiều bằng sư thúc hay
sư bá; cũng có thể nhiều vị là đệ tử trực tiếp của Nguyên Thiều. Mật
Thể không tin như vậy, cho rằng thời gian ở Ðại Việt của Nguyên Thiều
thì nhiều mà thời gian ở Quảng Ðông của ông thì ít, làm sao ông có thể
có đệ tử cao tăng được. Tuy nhiên, nếu ta biết Nguyên Thiều sang Ðại
Việt hồi 51 -55 tuổi, trở về Quảng Ðông lúc trên bảy mươi tuổi thì ta có
thể nói rằng trong số các vị gốc Trung Hoa trú trì tại hai chùa Thập
Tháp và Quốc Ân, có thể có vị là đệ tử trực tiếp của Nguyên Thiều từ khi
ông chưa bỏ nhà Thanh sang Ðại Việt. Dù sao, ít nhất cũng là bảy vị
tăng sĩ vừa Hoa vừa Việt đứng sau ông một thế hệ đã được ông nâng đỡ và
đặt vào công tác hành đạo. Ðó là các vị cư trú tại Bình Ðịnh (Thập Tháp)
và Thuận Hóa (chùa Quốc Ân): Minh Vật Nhất Trí, Minh Giác Kỳ Phương,
Minh Trí Nguyệt Hạnh, Minh Dung Pháp Thông, Minh Lương Nguyệt An, Thành
Ðăng Minh Yêu và Thành Thiên Pháp Thông. Ðó là chưa kể những vị nối
nghiệp ông ở chùa Hà Trung là chùa mà ông trú trì vào những năm chót của
đời ông.
Chùa
Hà Trung tọa lạc tại xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, có lẽ đã được tạo dựng
ngay sau khi chúa Nguyễn Phúc Chu mới lên ngôi. Về chùa Hà Trung, thiền
sư Thạch Liêm đã viết: “Ðoái nhìn chùa son điện ngọc, lấp lánh trong bờ
biển rừng tùng. Nước mây man mác, trập trùng bóng dương, phảng phất
chồn Bồng Lai Lãng Uyển”. Và Thạch Liêm có làm ba bài thơ. Ðây là bài
thứ nhất:
Xanh mấy tầng dương ẩn Phật cung
Chuông vàng theo gió thoảng bên song
Rèm tre lối cỏ lên hơi núi
Gành đá lầu mây xuống bóng đồng
Cá đỏ chực mồi ngoi mặt nước
Chim xanh hót nắng đậu giàn bông
Miếu đến vua chúa thanh u quá
Như có hào quan chiếu biển Ðông(79)
(Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm Cung
Chung Thanh chiêu đệ mãn hà phong
Trúc ly thảo kính phù lam yểm
Thạc hác hà lâu đảo ảnh không
Hầu thực hồng ngư suy thủy thượng
Ðề yên túy điểu lạc hoa trung
Vương gia từ miếu âm sum xứ
Hướng hữu linh quang tạ Hải Ðông)
Trú
trì tại chùa Hà Trung không bao lâu thì Nguyên Thiều tịch. Thụy hiệu
Hạnh Ðoan Thiền Sư là do chúa Nguyễn Phúc Chu tặng sau khi Nguyên Thiều
mất. Trước khi tịch, ông có để lại bài kệ sau đây:
Lặng lẽ gương không chiếu bóng
Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình
Rõ ràng Vật không phải Vật
Mênh mông Không chẳng là Không.
(Tịch tịch cảnh vô cảnh
Minh minh châu bất dung
Ðường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không).
Tháp
Hóa Môn được dựng trên một khu đồi nhỏ xóm Thuận Hóa, làng Dương Xuân
Thượng. Bía đã chùa Quốc Ân nói về Nguyên Thiều thì mãi đến năm 1725
mưói dựng, do chúa Nguyễn Phúc Chú (1725-1738) đề. Chúa Nguyễn Phúc Chu
không những ban thụy hiệu cho Nguyên Thiều mà còn làm mọt bài minh khắc
vào bia để ca tụng đạo đức thiền sư. Bài minh ấy như sau:
Cao vút trí tuệ
Phạm hạnh vun trồng
Giới đao một lưỡi
Trăng nước thung dung
Ngồi đứng một thân
Trong lặng kiên cường
Hoằng pháp lợi người
Quán thân vốn không
Mây từ che khắp
Trời tuệ chiếu cùng
Ngắm đi ngắm đi
Thái Sơn oai hùng
(Ưu ưu bát nhã
Ðường đường Phạm thất
Thủy nguyệt ưu du
Giới trì chiến lật
Trạm tịch cô kiên
Trác lập khả tất
Quán thân bổn không
Hoằng pháp lợi vật
Biển phú từ vân
Phổ chiếu tuệ nhật
Chiêm chi chiêm chi
Thái Sơn ngật ngật)
Thiền sư Giác Phong
Thiền
sư là người khai sơn chùa Thiên Thọ, tức là chùa Báo Quốc, ở núi Hàm
Long, Thuận Hóa. Ông tới Ðại Việt có lẽ trước ngày Nguyên Thiều đi Quảng
Ðông. Tiểu truyện về ông và lịch sử truyền thừa chùa Thiên Thọ còn đợi
khảo chứng. Sách Hàm Long Sơn Chí của cư sĩ Ðiềm Tịnh trước tác mà Mật
Thể đã được đọc trước khi viết Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (đó là một bản
chép tay - sách này chưa từng được khắc bản) hiện giờ bị thất lạc, chưa
tìm ra được.
Thiền
sư Liễu Quán khi còn là du tăng đã tới chùa Thiên Thọ và thụ giáo với
thiền sư Giác Phong. Ðó là vào những năm 1690 - 1691. Sách Hải Ngoại Kỷ
Sự của Thạch Liêm cũng không thấy nhắc tới Giác Phong và chùa Thiên Thọ.
Thiền sư Tử Dung
Pháp
tự là Minh Hoằng, thiền sư Tử Dung đã khai sơn chùa Ấn Tôn, tức là chùa
Từ Ðàm ngày nay. Chùa Ấn Tôn tọa lạc tại Long Sơn, phía trên núi Hàm
Long; chùa thuộc địa phận làng Bình An, huyện Hương Thủy. Thiền sư là
người Quảng Ðông, chưa biết sinh năm nào và qua Ðại Việt năm nào. Ông
thuộc đời 34 dòng Lâm Tế. Có thể là ông đã qua Ðại Việt theo lời mời của
Nguyên Thiều. Bảng chùa Ấn Tôn ghi là chùa được tạo dựng năm 1703,
nhưng chắc thiền sư Tử Dung đã cư trú tại đây nhiều năm trước khi chùa
được xây cất xong. Bằng cớ là khi thiền sư Liễu Quán từ Phú Yên ra cầu
pháp với ông năm 1702 thì cũng được tới Long Sơn, nghĩa là một năm trước
khi công tác xây cất được hoàn tất.
Trong
số các vị đệ tử đắc pháp với ông, thiền sư Liễu Quán là người được ông
yêu mến nhất. Tuy vậy thiền sư Liễu Quán đã không thay thế ông tại chùa
Ấn Tôn sau khi ông tịch, mà lại khai sơn một tổ đình khác: đó là chùa
Thiền Tôn. Liễu Quán cầu pháp với ông nhưng không cư trú chùa Ấn Tôn.
Lần đầu ông gặp Tử Dung vào năm 1702. Lần gặp gỡ thứ hai là vào năm
1708. Lần này Tử Dung chứng thực sự cho sự đạt ngộ của Liễu Quán. Lần
thứ ba hai người gặp nhau tại Quảng Nam khi cùng tới dự lễ Toàn Viện, và
lần này Liễu Quán đem trình ông một bài kệ “tắm Phật”. Ðó là vào năm
1712. Chưa biết thiền sư Tử Dung tịch vào năm nào. Trong số những vị kế
thế Tử Dung tại chùa Ấn Tôn, có: Thực Vinh, Sát Ngữ, Ðạo Trung và Thanh
Dũng.
Thiền sư Từ Lâm
Thiền
sư là tổ khai sơn chùa Từ Lâm. Chùa này tọa lạc ở trên một khu đồi làng
Dương Xuân, Thuận Hóa. Năm 1697 khi làm Hòa Thượng Ðường Ðầu cho giới
đàn trong đó có thiền sư Liễu Quán đến thụ giới, thì thiền sư Từ Lâm đã
già lắm rồi, và mọi người đều tôn xưng ông là Lão Hòa Thượng. Có lẽ ông
đã sang Ðại Việt vào khoảng đồng lúc với thiền sư Nguyên Thiều. Giới đàn
mà ông làm chủ tọa đã được tổ chức hai năm sau giới đàn của thiền sư
Thạch Liêm. Thạch Liêm hẳn đã không được gặp ông, bởi sách Hải Ngoại Kỷ
Sự cũng không nhắc đến tên ông. Không biết thiền sư Từ Lâm tịch vào năm
nào. Mộ ông hiện còn tại chùa Từ Lâm.
Thiền sư Pháp Bảo
Thiền
sư Minh Hải Pháp Bảo, người Phúc Kiến, là người khai sơn chùa Chúc
Thánh Quảng Nam. Tương truyền ông từ Quảng Ðông được Nguyên Thiều mời
qua Ðại Việt trong thời chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), và sau khi
tham dự giới đàn tại chùa Linh Mụ, ông vào Quảng Nam dựng chùa này. Hia
vị đệ tử đầu của ông là Chánh Hiền và An Triêm. Chùa Chúc Thánh trở nên
mọt tùgn lâm lớn, từ ddaay pháp sinh ra các chùa Phúc Lâm, Vạn Ðức, cùng
một môn phái. Chùa Phúc Lâm tạo lạc ở xã Quy Chế, huyện Diên Phước.
Chùa Vạn Ðức cũng có tên là chùa Lang Thọ, cũng tọa lạc ở huyện Diên
Phước. Thiền sư Pháp Bảo có để lại bài kệ truyền pháp sau đây:
Minh thực pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc Thánh thọ thiên cửu
Kỳ Quốc tộ địa trường
Ðắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung
Dịch:
Hiểu thấu pháp chân thực
Ấn Chân Như hiện tiền
Cầu Thánh quân tuỏi thọ
Chúc đất nước vững bền
Giới luật nêu trước tiên
Giải và Hạnh nối liền
Hoa nở cây giác ngộ
Hương thơm lừng nhân thiên
Quốc sư Hưng Liên
Pháp
danh Quả Hoằng, trú trì chùa Tam Thai, Quảng Nam. Ông là đệ tử của
thiền sư Thạch Liêm, sang Ðại Việt vào khoảng đời chúa Nguyễn Phúc Trăn
(1687-1691). Có lẽ ông là người đầu tiên đem tông phái Tào Ðộng vào Ðàng
Trong của Ðại Việt. Ông được chúa Nguyễn Phúc Chu tôn làm quốc sư,
trước khi Thạch Liêm qua Ðại Việt. Là đệ tử của Thạch Liêm, chắc hẳn ông
đã giới thiệu thầy mình với chúa Nguyễn Phúc Trăn, cho nên chúa này đã
hai lần cho người sang Quảng Ðông cầu thỉnh Thạch Liêm. Không biết ai dã
được ủy đi mời trong hai lần này. Theo sách Hải Ngoại Kỷ Sự, hai làn
mời này đều có thư của chúa Nguyễn. Có thể là thư mời thứ hai đã được
thiền sư Nguyên Thiều mang đi. Nhưng Hải Ngoại Kỷ Sự tuyệt nhiên không
đề cập tới thiền sư Nguyên Thiều. Lần mời thứ ba, thư của Nguyễn Phúc
Chu được Trần Thiêm Quan và Ngô Tư Quan(80) đem đi, lần này quốc sư Hưng
Liên cũng có viết thư kèm theo.
Ông
là người khai sơn chùa Tam Thai ở Quảng Nam. Chùa Tam Thai tọa lạc ở
phía Tây Ngũ Hành Sơn, huyện Diên Phước. Tại núi Tam Thái có tháp Phổ
Ðồng, Hoa Nghiêm Thạch Ðộng và Hoa Nghiêm Vân Ðộng, có chạm chữ trên
vách đá. Những tên động này là do thiền sư Thạch Liêm đặt trong lúc
viếng chùa năm 1695. Còn tháp Phổ Ðồng có thể là do thiền sư Hưng Liên
dựng, cũng có thể là do thiền sư Nguyên Thiều dựng trước khi Hưng Liên
tới(81)
Thiền
sư Thạch Liêm rất hâm mộ núi Tam Thai và các động trên núi. Hải Ngoại
Kỷ Sự còn ghi một bài trường ca Du Tam Thai Sơn và hai bài thất ngôn bát
cú vịnh núi Tam Thai. Ông lại đặt tên núi là núi Hải Dũng. Trước khi
Thạch Liêm về nước, ông tỏ ra không hài lòng với quốc sư Hưng Liên. Số
là vị thiền sư này có che chở cho một người khách trú tên là Lưu Thanh,
có đến nói với Thạch Liêm vận động cho Lưu Thanh được giữ chức cai phu
quản lý hàng hóa ngoại quốc. Sau này Lưu Thanh dựa thế quốc chúa đi vay
tiền của các chủ thuyền. Thạch Liêm biết được viết thư cho chúa Nguyễn
yêu cầu cách chức Lưu Thanh mặc dù có sự năn nỉ của quốc sư Hưng Liên,
mặc dù chúa Nguyễn Phúc Chu không muốn làm mất lòng Hưng Liên, và mặc dù
Lưu Thanh có đến lạy lục ông và đem cúng dường vàng bạc để mong ông làm
ngơ. Ông viết những câu rất nặng trong thư gửi chúa Nguyễn Phúc Chu:
“Chỉ tiếc quốc sư đã thành một vị tỳ khưu bạc đầu, không biết lo đến
ngày mai, không cấp tốc lo bổn phận {giải thoát} của mình, mà lại cam
tâm cùng bọn giam hiểm tiểu nhân, suốt sáng thâu đêm dùng hết mưu kế tâm
thuật, chỉ mong quốc vương chẳng nghe lời ta. Ấy là muốn cho đạo ta
chẳng được lưu hành. Tấm lòng đệ tử trả ơn cho thầy, há nên như thế
chăng? Nhưng dạo ta chẳng lưu hành thì đạo y có thể lưu hành được
không?”
Những
dòng chữ trên cho ta biết Hưng Liên từ ngày Thạch Liêm tới Ðại Việt đã
không còn giữ được địa vị tôn kính cũ. Hải Ngoại Kỷ Sự không cho biết
Lưu Thanh có bị cách chức không. Và ta cũng không biết quốc sư Hưng Liên
tịch năm nào. Chỉ biết vào năm 1696 ông đã được Thạch Liêm gọi là “một
vị tỳ khưu bạc đầu”(82). Ðáng tiếc chúa Nguyễn trước đó đã không mời
thiền sư Nguyên Thiều làm quốc sư vậy.
Thiền sư Pháp Hóa
Thiền
sư tục danh là Lê Diệt, người Phúc Kiến, sinh năm 1670, hiệu là Minh
Hải Phật Bảo. Ông khai sơn chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi. Ông tịch năm 1754;
và đã trú trì tại đây trong suốt 60 năm. Như vậy có nghĩa là ông bắt
đầu dựng Thiên Ấn năm 1694, trước năm Thạch Liêm sang Ðại Việt một năm.
Có lẽ ông đã sang Ðại Việt cùng với thiền sư Nguyên Thiều khi ông này từ
Quảng Ðông về Ðại Việt và như vậy có nghĩa là lúc ông chỉ mới trên hai
mươi tuổi.
Năm
1716 chùa Thiên Ấn được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch “Sắc tứ
Thiên Ấn tự”. Tục truyền rằng khi ông bắt đầu khởi công đào giếng trên
núi Thiên Ấn, có một vị tăng trẻ tuổi từ đâu không biết lên núi phát
nguyện đào giúp với ông. Suốt ba năm, hia người đào được 55 thước mộc
(21 mét) bề sâu. Tới đó họ gặp một tảng đá lớn chắn ngang. Họ không nản
lòng, bắt đầu hì hục đục đá. Mấy tuần lễ sau đó có một mạch nước từ giữa
tảng đá phụt lên. mọi người đều mừng rỡ. Nhưng ngay sau đó, như sư trẻ
đi đâu biệt tích. Dân chúng Quảng Ngãi ngày nay còn truyền tụng câu ca
dao sau đây để nói về chuyện cái giếng trên núi Thiên Ấn:
Ông thầy đào giếng trên non
Ðến khi có nước không còn tăm hơi.
Chùa
Thiên Ấn còn nổi tiếng vì cái “chuông thần”. Chuyện chuông thần được
xẩy ra năm 1845 hồi vị tổ thứ ba của chùa là thiền sư Bảo Ấn thấy một vị
hộ pháp tới làm lễ và mách rằng tại làng Chú Tượng (hiện là ấp Chú
Tượng, xã Ðức Thọ, huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi) có một quả Ðại Hồng
Chung, nên đến để thỉnh về chùa. Xuất định, ông nhờ một vị tăng tến là
Ðiển Tọa đi đến là Chú Tượng dò hỏi. Tại đây dân làng nói rằng họ vừa
đúc xong một Ðại Hồng Chung để dùng trong chùa làng, nhưng vì chuông
không kêu nên ban chức việc định phá ra đúc lại. Sư Ðiền Tọa hỏi mua lại
cho chùa Thiên Ấn.
Lễ
khai chuông tổ chức tại chùa Thiên Ấn với bao nhiêu hồi hộp vì ai cũng
nghi ngại cho rằng chuông sẽ không kêu. Nhưng thiền sư Bảo Ấn vẫn im
lặng chú nguyện. Ðến khi ông cầm dùi chuông khai chung thì một tiếng
ngân tròn và ấm vang lên ngân vọng khắp núi đồi. Quả chuông hiện nay còn
ghi tên là Chú Tượng và được trên phía tả chính điện Thiên Ấn.
Ông Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) có làm bài thơ sau đây vịnh núi, chùa và chuông Thiên Ấn:
Phong cảnh ta đây thật rất xinh
Niêm hà có ấn của trời sinh(83)
Xem kia dấu tích còn vuông vức
Nhận lại non sông rõ dạng hình
Cách thức như in đồ Cổ Tự
Cỏ cây nào phụ tiếng chuông linh
Châu sa đổ dưới chân chờ mãi
Trấn chỉ sau lưng núi Cẩm Thành
Năm
vị tổ sư nối tiếp của Pháp Hóa để trú trì chùa Thiên Ấn là những vị sau
đây: Khánh Vân, Bảo Ân, Giác Tính, Hoằng Phúc, Diệu Quang. Tháp của cả 6
vị đều được dựng trên núi Thiên Ấn
Thiền sư Tế Viên
Thiền
sư Tế Viên khai sơn chùa Hội Tôn ở Phú Yên. Thiền sư Liễu Quán hồi còn
hai mươi tuổi đã tới học ở đây với ông. Ðó là vào năm 1682. Không biết
ông qua Ðại Việt năm nào, nhưng chắc chắn không là do thiền sư Nguyên
Thiều mời sang nhân chuyến đi Quảng Ðông của ông này trong đời chúa
Nguyễn Phúc Trăn. Ông tịch năm Liễu Quán mới19 tuổi, nghĩa là vào năm
1689, trước ngày Thạch Liêm qua Việt.
Thiền sư Thạch Liêm
Ông
là trú trì chùa Trường Thọ ở Quảng Ðông, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời
sang Ðại Việt năm 1695. Chúa thụ Bồ Tát giới với ông. Ông ở chùa Thiền
Lâm, sau dời về chùa Linh Mụ. Chương sau sẽ nói nhiều về ông.
MÔN PHÁI LIỄU QUÁN
Nếu
ở Ðàng Ngoài thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để
phục hưng Phật Giáo Ðàng Ngoài, thì ở Ðàng Trong thiền sư Liễu Quán cũng
được xem là vị thiền sư lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật Giáo Ðàng
Trong.
Ông
là người làng Bạc Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 từ
một gia đình nghèo. Ông mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai tuổi
ông đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp thiền sư Tế Viên, ông rất yêu mến và
xin ở lại chùa để học đạo. Cha ông ưng thuận. Làm chú tiểu ở chùa Hội
Tôn, ông được thiền sư Tế Vien thương yêu. Ông ở lại, làm việc nấu nước,
nhặt rau, học Hán tự, hai thời khóa tụng, luật sa di và những kinh điển
dễ học. Chín năm sau, thiền sư viên tịch. Lúc bấy giờ ông mới mười chín
tuổi. Tang lễ của thầy làm xong, ông để chùa cho các sư huynh trông
nom, một mình lên đường học đạo. Năm 1690, ông vượt núi băn ngàn ra tận
Thuận Hóa núi Hàm Long, cầu học với thiền sư Giác Phong. Ông được chấp
nhận ở lại đây để tu học. Ai ngờ mới được một năm tròn thì ông nghe tin
thân phụ bị bệnh. Ông xin phép trở lại quê nhà để lo săn sóc cho cha.
Hàng ngày ông lên rừng đốn củi, đem về đổi vạo nấu cơm cho cha ăn. Bốn
năm sau, thân phụ ông từ trần. Lo ma chay cho cha xong, ông lại lên
đường học đạo. Năm 1695, nghe nói thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn
lớn tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, ông đến xin ghi tên thụ giới tỳ khưu
tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm là Hòa Thượng Ðường Ðầu. Ðó là năm 1697,
lúc ông được 27 tuổi. Ðịnh cư hai năm, ông lại lên đường cầu học, tham
lễ khắp các tổ đình. Năm 1702 ông được gặp thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn
Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa. Thiền sư dạy; ông tham khảo về công án:
“Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” (Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà
xứ?). Ông rút về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá
vỡ được công án ấy, trong lòng lấy làm hỗ thẹn. Một hôm đọc Truyền Ðăng
Lục đến câu “trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu”
(Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ), thoạt nhiên ông thấy tỏ ngộ, bèn
buông sách xuống. Mùa xuân năm 1708, ông trở ra Long Sơn, trình bày
công phu mình với thiền sư Tử Dung. Tử Dung nói:
Hố thẳm buông tay
Một mình cam chịu
Chết đi sống lại,
Ai dám chê mình.
Ông
vỗ tay cười. Tử Dung nghiêm nét, nói: “Chưa được”. Ông lại nói: “Trái
cân vốn là sắt” (Bình thùy nguyên nhị thiết). Tử Dung lắc đầu.
Sáng
hôm sau, Tử Dung thấy ông đi ngang, gọi lại bảo: “Chuyện ngày hôm qua
nói chưa xong, hôm nay hãy nói lại xem”. Liễu Quán đọc:
Sớm biết đèn là lửa
Cơm chín đã lâu rồi!
Bây
giờ Tử Dung không tiếc lời khen ngợi. Mùa hè năm 1712 khi hai người gặp
nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện tại Quảng Nam, Liễu Quán đem trình
Tử Dung bài kệ Tắm Phật mà ông mới làm. Tử Dung hỏi: “Tổ truyền cho tổ,
Phật truyền cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau cái gì nhỉ?” (Tổ tổ
tương truyền, Phật Phật thụ thụ, vị thẩm truyền thụ các thập ma?)
Liễu Quán đọc liền hai câu:
Búp măng trên đá dài hơn trượng,
Cây chổi lông rùa nặng mấy cân.
(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trong tam cân)
Tử Dung lại đọc:
Chèo thuyền trên núi cao
Phi ngựa dưới đáy biển
(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã)
Liễu Quán lại đọc tiếp:
Dây đứt đàn tranh chơi suốt buổi
Gảy sừng trâu đất rống thâu đêm
(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử vận nhật đàn)
Tử dung gật đầu tỏ ý rất bằng lòng.
Thiền
sư Liễu Quán lúc bấy giờ đã 42 tuổi. Ông đã có nhiều đạo tràng hành
đạo: đó là chùa Thiền Tông, chùa Viên Thông (Thuận Hóa) và các chùa Hội
Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở Phú Yên. Chùa Thiền Tông được tạo dựng ở núi
Thiên Thai, vào khoảng năm 1708. Mãi đến năm 1747, nghĩa là năm năm sau
khi thiền sư Liễu Quán tịch, chùa mới được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban
biển ngạch sắc tứ. Ðại Hồng Chung hiện giờ của chùa cũng được đúc vào
năm đó, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám. Chùa Viên Thông cũng được Liễu
Quán tạo dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính
đạo hạnh của ông, nhiều lần triệu thỉnh vào phủ, nhưng ông một mực từ
chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Vì vậy, chúa thường tới chùa
Viên Thông ở chân núi Ngự Bình để thăm ông và hỏi đạo. Vì lý do đó, ngọn
núi kia được gọi là núi Ngự. Bốn giới đàn lớn được tổ chức liên tiếp
trong ba năm, từ 1733 đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các cao
tăng và các bậc tể quan cư sĩ ở kinh đô; thiền sư Liễu Quán được thỉnh
cầu chủ tọa. Giới Phật tử rất hâm mộ ông, cho nên năm 1740 lại tỉnh cầu
ông chủ tọa giới đàn Long Hoa. Xong giới đàn này, ông trở về chùa Thiền
Tông. Năm 1742, tuy đã 72 tuổi, ông vẫn phải làm Hòa Thượng Ðường Ðầu
của giới đàn tổ chức tại chùa Viên Thông. Ðệ tử thụ giới của ông kể cả
xuất gia lẫn tại gia có tới gần bốn ngàn người.
Mùa
thu năm ấy, Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; sáng ngày 21 tháng 11
âm lịch, ông gọi thị giả mang giấy bút tới, và viết bài kệ sau đây:
Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không
Sắc không không sắc đã dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê cũ
Há phải tìm cầu hỏi tổ tông
(Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà Tất bôn mang vấn tổ tông?)
Viết
bài kệ xong, ông ngồi dùng trà. Ðại chúng lên làm lễ, có người than
khóc. Ông nói: “Quý vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết
bàn, còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc”.
Mọi người im lặng. Thầy trò nói chuyện hồi lâu, ông hỏi: “Ðã đến giờ mùi
chưa?” Mọi người đáp: “Phải”. Ông nói: “Sau khi tôi đi, quý vị phải
nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí
tuệ, chớ quên lời dặn của tôi”. Nói xong ông nhắm mắt mà tịch trong tư
thế kiết già.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia và tháp cho ông, và ban thụy hiệu là “Ðạo Hạnh Thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng”.
Tháp
ông được dựng tại chùa Thiền Tông trên núi Thiên Thai. Ông là người
thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế. Ông để lại bài kệ truyền pháp sau đây:
Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không
Dịch:
Ðường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Ðạt ngộ chân không
Thiền
sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh
động, có gốc rễ ở Ðàng Trong. Trước ông, Phật Giáo ở Ðàng Trong mang
nặng màu sắc Quảng Ðông. Ông đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho
thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Kiến
trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ mang lấy màu
sắc dân tộc. Những bài tán lễ như “Cực lạc Từ Hàng” chẳng hạn, đã hoàn
toàn mang màu sắc Việt. Bốn vị đệ tử lớn của ông là Tổ Huấn, Trạm Quan,
Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục
tổ đình được tạo dựng khắp Ðàng Trong trong thế kỷthứ mười tám đã thuộc
về môn phái Liễu Quán. Phong trào Phật Giáo phục hưng ở thế kỷ thứ hai
mươi đã dựa trên cơ sở của môn phái mang tên ông.
DẦU CHÂN HOẰNG HÓA TẠI CÁC VÙNG ÐẤT MỚI
Vào
thế kỷ thứ mười tám, khi các chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía Nam thì
một số cao tăng cũng theo làn sóng di cư đến trác tích tại các miền đất
mới. Ở Ðông Phố (Gia Ðịnh), có thiền sư Ðạt Bổn từ Quy Nhơn vào lập
chùa Thiên Trường năm 1755. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe tiếng ông, ban
tặng cho chùa biển ngạch đề “Phổ Quang Thiên Sơn Tự”. Sau đó, chùa lại
đổi tên là Kim Chương. Thiền sư Quang Triệt lên kế vị ông sau khi ông
tịch. Năm 1775, gặp thời nhiễu nhương, Hòa Nghĩa Ðạo Lý tướng quân suy
tôn đông cung Nguyễn Phúc Dương lên kế nghiệp chúa Nguyễn để chống nhau
với cách mạng Tây Sơn, đã cử hành lễ suy tôn tại chùa này. Vì vậy, sau
đó chùa lại được ban sắc tứ là “Kim Chương Tự”. Người tiếp nối Quang
Triệt là thiền sư Quang Tuệ. Một ngôi chùa khác cũng được thành lập tại
Gia định trong thời chúa Nguyễn Phúc Khoát là chùa Tập Phước. Có lẽ vị
tổ khai sơn chùa này là một vị thiền sư đời 36 của dòng Lâm Tế. Theo các
linh vị còn để thờ tại chùa thì đời thứ 37 là thiền sư Thánh Ðắc, đời
thứ 38 là thiền sư Phước Thường, đời thứ 39 là thiền sư Ấn Thập và đời
thứ 40 là thiền sư Hoàng Trí. Trịnh Hoài Ðức từng làm thơ tặng một vị
thiền sư tên là Viên Quang tại chùa Tập Phước. Sách Ðại Nam Liệt Truyện
Tiền Biên nói rằng thiền sư Viên Quang thuộc đời thứ 36 dòng Lâm Tế
nhưng lại nói rằng Viên Quang tu tại chùa Giác Lâm, cũng ở Gia Ðịnh. Có
lẽ thiền sư Viên Quang này là người đã khai sơn chùa Tập Phước, sau đó
đã giao lại Tập Phước cho đệ tử trông nom rồi dời về chùa Giác Lâm ở cho
được thanh tịnh hơn. Giả thuyết thứ hai: thiền sư Mật Hoằng đã khai
sơn chùa Tập Phước và đã mời sư huynh mình là Viên Quang đến cư trú với
mình. Sau khi Mật Hoằng được triệu về kinh sung chức trú trì chùa Quốc
Ân thì Viên Quang cũng về cư trú tại Giác Lâm. Hai thiền sư này đều là
đệ tử của thiền sư Linh Nhạc thuộc pháp phái Nguyên Thiều, gốc ở chùa
Thập Tháp.
Nhưng
các vị du tăng hành đạo còn đi xa hơn là Gia Ðịnh, về thấu các nơi như
Biên Hòa, Tây Ninh, Hà Tiên v.v... Ở Tây Ninh chẳng hạn, thiền sư Ðạo
Trung khai sơn chùa Linh Sơn ở núi Ðiện Bà vào năm 1763. Ông là đệ tử
của thiền sư Ðại Cơ, và thuộc đời thứ tư của môn phái Liễu Quán. Ðại Cơ
là đệ tử của Tế Giác, và Tế Giác là đệ tử trực tiếp của Liễu Quán. Ðạo
Trung sau 30 năm trú trì tại Linh Sơn, giao sơn môn này cho đệ tử là
Tính Thiện và về khai sơn chùa Long Hưng ở Thủ Dầu Một. Ðó là vào năm
1794(85). Ở Hà Tiên thì có thiền sư Hoàng Lung. Theo sách Ðại Nam Liệt
Truyện Tiền Biên, thiền sư Hoàng Lung là người Quy Nhơn. Ông vân du tới
tỉnh Hà Tiên. Tại đây thấy núi Bạch Tháp ở phía Bắc đỉnh Vân Sơn núi
non quanh co, cỏ cây xanh tốt, ông liền dừng bước hoằng hóa tại đây. Ông
tịch năm 1757. Ðệ tử làm lễ hỏa thiêu nhục thân và lập tháp để thờ xá
lợi của ông.
--------------------------------------------------------------------------------
(76)
Hòa thượng Bổn Kiểu Khoáng Viên là đệ tử của thiền sư Ðạo Mân, đời thứ
ba mươi mốt, phái Lâm Tế, ở chùa Thiên Khai, Quảng Ðông. Ðạo Mân có để
lại một bài kệ truyền pháp sau đây:
Ðạo bổn nguyên thành Phật Tổ Tiên
Minh như hồng nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chân đăng vặn cổ huyền.
(77)
Sách Hải Ngoại Kỷ Sự còn cho biết là trong thời gian chúa Nguyễn Phúc
Trăn (1678-1691) trị vì ông cũng đã được chúa mời thỉnh tới hai lần
nhưng chưa đi được. Lần này ông qua là do chúa Nguyễn Phúc Chu mời. Hai
sứ giả được chúa cử sang mời Thạch Liêm là Trần Thiêm Quang và Ngô Tư
Quan chứ không phải là thiền sư Nguyên Thiều. Sách Hải Ngoại Kỷ Sự cũng
không hề đề cập đến Nguyên Thiều.
(78) Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, 1943 Hà Nội.
(79) Thạch Liêm, Hải Ngoại Kỷ Sự
(80) Theo sách Hoa Di Biến Thái, trích trong bản dịch Hải Ngoại kỷ Sự,Viện Ðại Học Huế, 1963.
(81)
Ðại Nam Thực Lục Tiền Biên nói Nguyên Thiều ra Thuận Hóa lập chùa Quốc
Ân và tháp Phổ Ðồng. Nhưng hiện không thấy dấu vết tháp Phổ Ðồng ở chùa
Quốc Ân.
(82) Hải Ngoại Kỷ Sự
(83)
Núi Thiên Ấn vuông vức như quả ấn. Núi này có rất nhiều đá son có thẻ
mài thành mực đỏ để chấm bài học trò. Chân núi phía nam có hòn nhỏ gọi
là hòn Triện, phía Bắc có núi Lã Vọng, phía Ðông tiếp núi Tam Thai, phía
Tây giáp núi Long Ðầu.
(85) Tài liệu trong Tây Ninh xưa và nay của Huỳnh Minh, 1972