Chương XX: Sự phục hưng môn phái Trúc Lâm
NGUYÊN DO CỦA SỰ PHỤC HƯNG
Vào
khoảng giữa thế kỷ thứ mười bảy, một số khá đông các cao tăng từ Trung
Hoa đã qua Ðại Việt hành đạo, đây là một nguyên nhân quan trọng khiến
cho Phật Giáo ở nước ta được phục hưng.
Những
cao tăng này phần nhiều đã rời bỏ quê hương họ trong thời gian chuyển
tiếp giữa đời nhà Minh và đời nhà Thanh. Hồi đó Ðại Việt đang ở vào tình
trạng Nam Bắc phân tranh, và Trịnh Nguyễn đang ở vào tình trạng Nam Bắc
phân tranh, và Trịnh Nguyễn đã bắt đầu đánh nhau ở Quảng Bình và Hà
Tĩnh.
Sau
gần một thế kỷ loạn lạc, đầy dẫy bạo động, đức tin của các nhà chính
trị nơi triết học Tống Nho đã lung lay. Nhiều sĩ phu đại diện cho Triết
học Tống Nho trong suốt thời gian đó đã chứng tỏ hư hỏng và bất lực.
Trong đau khổ cùng cực, người ta bắt đầu quay về với đạo Phật, một đạo
lấy đức từ bi là gốc và kỹ thuật trị thế là chủ yếu. Các Chúa Trịnh cũng
như các Chúa Nguyễn, không phải là những người học Phật thâm uyên và có
ý chí tu học như các vua Trần, nhưng đã quy hướng về đạo Phật, lấy đó
làm nơi nương tựa tinh thần. Họ không phải là những nhà hành đạo Phật
giáo như các vua Trần. Họ chỉ là những tín đồ Phật Giáo, lấy sự ủng hộ
Phật Giáo để tạo dựng công đức cho dòng họ chứ không biết áp dụng Phật
Giáo vào việc dựng nước. Tuy vậy, đó cũng là một trong những nguyên nhân
đưa tới sự phục hưng.
Với
sự nứt rạn dần dần của niềm tin nơi triết học Tống Nho, nhiều nhà trí
thức, sau khi nếm đủ khí vị vô thường và đen bạc của thời đại, cũng đã
bắt đầu xoay sang nghiên cứu Phật học. Ðã thấy một số nho sĩ trí thức bỏ
Nho theo Phật. Thiền phái Lâm Tế lại được truyền vào nước ta một lần
nữa: Ðàng ngoài thì do các thiền sư Chuyết Chuyết và Minh Hành; Ðàng
Trong thì do các thiền sư Nguyên Thiều và Minh Hoàng. Ta nhớ rằng thiền
phái Lâm Tế đã được truyền vào Ðại Việt lần đầu tiên so thiền sư Thiên
Phong ở thế kỷ thứ mười ba: Trần Thái Tông và quốc sư Ðại Ðăng là hai
người đệ tử đầu và xuất sắc. Sau Chuyết Chuyết, Minh Hành, Nguyên Thiều
và Minh Hoàng, một số cao tăng khác từ Trung Hoa qua hành đạo cũng mang
theo thiền học Lâm Tế. Ðồng thời thiền phái Tào Ðộng được truyền sang
Ðại Việt lần đầu: ở Ðàng Ngoài thì do thiền sư Thủy Nguyệt sang du học ở
Trung Hoa mang về, ở Ðàng Trong thì do các thiền sư Hưng Liên và Thạch
Liêm đưa tới.
THIỀN SƯ CHUYẾT CHUYẾT
Thiền
sư Chuyết Chuyết tên Thiên Tộ, họ Lý, pháp danh là Hải Trừng, pháp hiệu
là Viên Văn, thường được gọi là Chuyết Công, sinh năm 1590, tại quận
Thanh Chương thuộc tỉnh Phúc Kiến. Thuở nhỏ học thông tứ thư ngũ kinh,
lớn lên xuất gia tu học với Tiệm Sơn trưởng lão. Sau lên cầu học với Ðà
Ðà Hòa thượng ở Nam Sơn. Theo sách Kế Ðăng Lục của Như Sơn, Hòa thượng
Ðà Ðà là một danh tăng thường được vua Minh Thế Tông vời vào cung điện
để bàn việc triều đình, và được vua phong cho đạo hiệu là Khuông Quốc
Ðại Sư. Sau khi đắc pháp với Ðà Ðà, Chuyết Chuyết vân du trong quốc nội
để giáo hóa, rồi vào khoảng năm 1630 cùng với số đệ tử dùng thuyền nhỏ
rời khỏi Trung Hoa đi về miền Nam. Ông và các đệ tử đổ bộ lên đất Cao
Miên. Rồi rời Cao Miên ông đi qua Chiêm Thành, vượt Chiêm Thành sang Ðại
Việt, Từ Ðàng Trong, ông cùng các đệ tử khởi hành ra Ðàng Ngoài, dừng
chân hoằng hóa tại các chùa Thiên Tượng, Nghệ An và chùa Trạch Lâm,
Thanh Hóa một thời gian. Ðến năm 1633, thầy trò tới được kinh thành
Thăng Long. Thầy trò ông cũng có mang theo một số kinh điển. Ðến Thăng
Long, ông và đệ tử ở lại chùa Khán Sơn và bắt đầu giảng dạy Phật pháp.
Người đến học gồm cả người Trung Hoa và người Việt Nam. Sau một thời
gian, Chuyết Chuyết dời về chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh,
cách kinh thành chừng ba mươi cây số. Trong thời gian hoàng hóa ở đó,
Chuyết Chuyết được Chúa Trịnh Tráng biết đến và hâm mộ, xem như bậc
thầy. Vua Lê Huyền Tông và các bậc công hầu cũng đều kính trọng. Sau đó
một thời gian vì Chúa Trịnh Tráng muốn có thêm kinh điển Phật Giáo để
lưu hành trong nước, cho nên Chuyết Chuyết ủy đệ tử mình là Minh Hành
trở về Trung Hoa để thỉnh kinh. Kinh điển thỉnh về được an trí tại chùa
Phật Tích. Một số kinh đã được khắc bản trong thời ấy để ấn loát và phổ
biến. Bản khác đều được tàng trử tại chùa Phật Tích(46). Trong số những
kinh sách mà Chuyết Chuyết mang theo lần đầu, có một nghi thức cúng cô
hồn dưới nước và trên cạn, gọi làThủy Lục Chư Khoa. Chuyết Chuyết và các
đệ tử đã tổ chức một trai đàn lớn, cầu cho tất cả vong linh nạn nhân
của thời đại. Nghi thức và cách tổ chức trai đàn này rất được vua Lê
chúa Trịnh và các bậc công hầu thời ấy hâm mộ. Thủy Lục Chư Khoa từ đó
được áp dụng rộng rãi tại các chùa Ðàng Ngoài.
Sau
khi hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và công chúa Trịnh Thị Ngọc
Duyên xuất gia tại chùa Phật Tích, chúa Trịnh Tráng bắt đầu cho trùng tu
lại chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp(47). Khi việc trùng tu hoàn tất, Chuyết
Chuyết được mời sang trú trì chùa Ninh Phước cho đến khi viên tịch. Ông
tới Thăng Long năm 43 tuổi. Ông mất ngày rằm tháng bảy năm Giáp thân
(1644), thọ 55 tuổi. Sau khi Chuyết Chuyết viên tịch, vua Lê Chân Tông
phong hiệu là Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Ðại Ðức Thiền Sư. Thiền sư
Minh Hành lập tháp Báo Nghiêm để an trí nhục thân của ông. Trên đỉnh
tháp có hình một cây bút do Minh Hành dựng. Một vị cư sĩ gốc Trung Hoa
tên Âu Dương Vựng Ðăng được Minh Hành nhờ viết một bài văn bia kỷ niệm.
Theo bài văn bia thì Chuyết Chuyết khí tượng lạ lùng và có tài cảm hóa,
được vua Lê rước làm thầy và được các bậc công hầu kính trọng. Ông lại
viết: “Tôi học Phật, lánh sang nước Nam, có dịp được hội đàm với thiền
sư Chuyết Chuyết tại chùa Khán Sơn ở Thăng Long. Lúc mới gặp, ta có thể
nghĩ ông là người khùng. Nhưng lâu ngày, tôi thấy ông là một người rộng
rãi thông minh, trong lòng không vướng bận một điều gì. Ông lại có tài
ngôn luận, bởn cợt và cả bậc công khanh. Ông đức độ trung hậu, biết kính
già yêu trẻ, coi bậc thiên tử như bạn thân, khinh tiền của như cỏ
rác...
Chuyết
Chuyết thuộc về thế hệ thứ 34 dòng Lâm Tế. Hai vị đệ tử xuất sắc nhất
của Chuyết Chuyết là Minh Hành và Minh Lương; Minh Hành là người gốc
Trung Hoa, còn Minh Lương là người Ðại Việt.
THIỀN SƯ MINH HÀNH
Thiền
sư Minh Hành pháp hiệu là Tại Tại, là người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang
Tây. Ông từng là cánh tay phải của Chuyết Chuyết. Truyền thống Phật Giáo
Ðàng Trong thường liên hệ ông với Nguyên Thiều, người đem phái Lâm Tế
truyền vào Ðàng Trong, và có khi cho rằng ông là đệ tử của thiền sư
Nguyên Thiều nữa. Nguyên Thiều sang Ðại Việt năm 1665, có nghĩa là sau
khi Minh Hành đã tịch(48). Như vậy truyền thuyết cho rằng ông đã làm một
trong những danh tăng do Nguyên Thiều vâng mệnh chúa Nghĩa Vương về
Trung Quốc mời sang để tham dự giới đàn truyền giới tại chùa Linh Mụ là
không đúng. Thiền sư Minh Hành ngày trước đã cùng thầy là Chuyết Chuyết
từ Cao Miên đi qua Chiềm Thành rồi sang Ðại Việt; trước khi ra Ðàng
Ngoài đã đi qua Ðàng Trong, và có thể thầy trò đã dừng chân hoằng hóa
tại Bình Ðịnh (lúc bấy giờ Bình Ðịnh đã thuộc về lãnh thổ Ðại Việt) và
Thuận Hóa, và đã ghi dấu chân ở những nơi đó. Ta biết rằng Chuyết Chuyết
và Minh Hành trước khi đến Thăng Long cũng đã dừng chân hoằng hóa tại
Nghệ An, hành đạo tại chùa Thiên Tượng và ở Thanh Hóa khai sáng chùa
Trạch Lâm.
Năm
1643 khi Chuyết Chuyết dời sang trú trì chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp thì
Minh Hành trở thành viện chủ chùa Phật Tích. Rồi đến năm 1644 khi Chuyết
Chuyết mất, ông trở thành viện chủ chùa Ninh Phúc. Ông mất vào năm
1659, thọ 64 tuổi. Hai ngọn tháp được dựng nên để thờ ông: một ngọn ở
chùa Ninh Phúc, một ngọn ở chùa Trạch Lâm, tỉnh Thanh Hóa. Tại ngọn tháp
chùa Trạch Lâm, một pho tượng mà Bezacier cho là “kiểu tượng Việt Nam
khéo nhất mà chúng ta đã thấy”(49).
Chân
trú và Diệu Tuệ là hai người đệ tử của Minh Hành. Chân Trú trù trì chùa
Hoa Yên núi Yên Tử, còn Diệu Tuệ trú trì chùa Phật Tích. Minh Hành có
để lại một bài kệ truyền pháp như sau
Minh Chân Như Tính Hải
Kim Tường Phổ Chiếu Thông
Chí Ðạo Thành Chính Quả
Giác Ngộ Chứng Chân Không
nghĩa là
Thấy chân như biển rộng
Ánh vàng chiếu vô cùng
Ðạt đạo thành chính quả
Giác ngộ chứng chân không
Chữ của bài kệ này đã được dùng để tự đặt pháp danh cho những thế hệ tiếp của phái Lâm Tế tại Ðàng Ngoài.
CHÂN NGUYÊN, NGƯỜI CÓ CÔNG PHỤC HƯNG MÔN PHÁI TRÚC LÂM
Một
trong những ngọn đuốc sáng của Phật Giáo Ðàng Ngoài là thế kỷ thứ mười
bảy là thiền sư Chân Nguyên, trú trì chùa Long Ðộng. Chính Chân Nguyên
và các đệ tử của ông đã làm phục hưng phái Trúc Lâm, cứu vãn được một số
quan trọng những tác phẩm của các thiền tổ Trúc Lâm bằng cách sưu tầm,
hiệu đính, khắc bản và lưu hành những tác phẩm này.
Thiền
sư Chân Nguyên họ Nguyễn tên Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh
Hà, tỉnh Hải Dương, Ông sinh năm 1646, xuất gia năm 19 tuổi, học với
thiền sư Chân Trú tại chùa Hoa Yên, được pháp danh là Tuệ Ðăng. Nhưng
sau đó không lâu, Chân Trú qua đời. Bèn cùng với bạn đồng liêu là Như
Niệm tu hạnh đầu đà, du phương để tham vấn thêm Phật pháp. Sau đó Như
Niệm đổi ý, không đi vân du nữa mà về trú trì chùa Cô Tiên, Tuệ Ðăng bèn
lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham học với thiền sư Minh Lương, đệ
tử của Chuyết Chuyết. Minh Lương đặt pháp hiệu cho ông là Chân Nguyên.
Chữ chân là chứ thứ hai trong bài kệ tuyền pháp của Minh Hành, sau chữ
minh của Minh Lương. Ở đây, Chân Nguyên thụ bồ tát giới đốt hai ngón tay
để phát nguyện hạnh đạo bồ tát. Ông xây dựng đài Diệu Pháp Liên Hoa tại
chùa Vĩnh Phúc. Sau đó ông được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trú trì
chùa Long Ðộng và Quỳnh Lâm, xưa vốn là những trung tâm lớn của phái
Trúc Lâm. Năm 1684, Chân nguyên dựng đài Cửu Phẩm Liên hoa tại chùa
Quỳnh Lâm, theo kiểu mẫu đài Cửu Phẩm Liên Hoa mà Huyền Quang đã dựng
ngày xưa tại chùa Ninh Phúc. Nă 1692, hồi bốn mươi sáu tuổi, ông được
vua Lê Hi Tông triệu vào cung để tham vấn đạo Phật. Khâm phục tài đức
ông, bua ban cho Chân Nguyên mỹ hiệu Vô Thượng Công và dâng cúng áo cà
sa cũng những pháp khí để thờ tự. Năm 1722, hồi 76 tuổi, ông được vua Lê
Dụ Tông phong chức tăng thống và ban hiệu Chính Giác Hòa Thượng. Năm
1726, trong tư thế kiết già, ông tịch và tháng Mười âm lịch, thọ 80
tuổi. Vua Dụ Tông truyền dựng tháp Tịch Quang tại chùa Long Ðộng và chùa
Quỳnh Lâm.
Sách
Ðăng Kế Lục nói rằng một hôm ông tham vấn Minh Lương về một điều thâm
diệu trong Phật pháp thì chỉ thấy Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt ông
một hồi lâu, nhờ đó mà ông giác ngộ. Minh Lương có để lại một bài kệ phó
pháp sau đây cho Chân Nguyên:
Ngọc xinh ẩn trong đá
Hoa sen nẩy tự bùn
Nên biết tìm giác ngộ
Nơi sinh tử trầm luân.
(Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ư nê
Tu tri sinh tử xứ
Ngộ thị tức bồ đề)
Chân
Nguyên có nhiều đệ tử xuất sắc, trong số các vị ấy, ta có thể kể Như
Hiện, Như Trừng, Như Sơn và Như Trí. Chữ như là chữ thứ ba trong bài kệ
truyền pháp của Minh Hành. Chân Nguyên để lại hai bài kệ truyền pháp,
bài sau đây được chép trong sách Kế Ðăng Lục:
Chính niệm phân minh được suốt ngày
Là đem thể tính tự phô bày
Giác quan vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành giác ngộ ngay
(Hiển tích phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tình nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chính biến tri).
Còn một bài nữa được chép trong bài Ngộ Ðạo Nhân Duyên do ông sáng tác:
Thể tính xưa nay vốn nhất như
Hào quang chiếu sáng cõi không hư
Nếu lấy giác quan mà vận dụng
Tinh thông muôn pháp đạt Vô dư
(Cùng kim cắng cổ bản như như
Pháp tính viên đồng xán thái hư
Ưng xuất lục căn năng vận dụng
Tinh thông vạn pháp triệt vô dư)
Những sáng tác của Chân Nguyên hiện có:
1) An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh
2) Ngộ Ðạo Nhân Duyên
3) Thiền Tịch Phú(*)
Ông
còn hiệu đính và trùng khắc Thánh Ðăng Lục; Các thế hệ sau ông được phú
chúc sự nghiệp phục hồi nền văn học Phật Giáo nước nhà. Như Trí trùng
san sách Thuyền Uyển Tập Anh (1715). Như Sơn soạn Kế Ðăng Lục (1734).
Như trừng và Như Hiện chuyển ra văn Nôm những bản về giới luật như Sa Di
Thập Giới, Hai Mươi Bốn Thiên Uy Nghi, v.v... từ trước chỉ lưu truyền
bằng Hán văn. Tịnh Quang trùng san Thượng Sĩ Ngữ Lục (1763). Sách Tam Tổ
Thực Lục được trùng san 1765 cũng do người trong pháp phái thực hiện
Thiền Tông Bản Hạnh
Như
đã nói trong các chương X và XVIII, tên đẩy đủ của sách là An Tử Sơn
Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh. Ðây là một cuốn sách viết bằng thơ Nôm
lục bát, cùng tài liệu của các sách Thánh Ðăng Lục, Khóa Hư Lục và Tam
Tổ Thực Lục. Bản của chúng tôi được đọc thuộc bản in năm 17458 do Ni cô
Diệu Thuần ở chùa của bổn sư là Liễu Viên. Tuy tài liệu dùng để viết
sách đều lấy ở các tác phẩm cổ, nhưng đoạn đầu và đoạn cuối sách phản
chiếu khá rõ rệt quan điểm thiền học của Chân Nguyên.
Ngộ Ðạo Nhân Duyên
Ðó
là một bài văn chữ Hán, cũng nói về quan niệm thiền của Chân Nguyên,
kèm theo nhiều bài thơ và kệ của tác giả. Bài này thấy in trong kỳ trùng
khắc năm 1745 của sách Thiền Tông Bản hạnh.
Thiền Tịch Phú
Ðây
là một bài phú Nôm về chùa Long Ðộng, rất giàu từ ngữ thuần túy Việt
Nam. Bài này làm ta nhớ bài Vịnh Hoa Yên Tự Phú của Huyền Quang. Bài phú
này được chùa Long Ðộng duy trì và được Thiền Phổ phiên âm và in trong
Ðuốc Tuệ số 7, ra ngày 21.1.1936 tại Hà Nội.
Ðể có một ý niệm về nghệ thuật phú Nôm của Chân Nguyên, chúng ta hãy đọc một đoạn trong Thiền Tịch Phú:
Am thờ tổ ngói lấp gỗ lim
Nhà trú tăng vách vôi tường gạch
Mấy bức kẻ chữ triện mực giồi
Bốn bên diễu câu lơn sóc sách.
Gác rộng thênh chuông đưa ba chập, niệm nam mô nhẹ tiếng boong boong
Lầu cao vót trống điểm mấy hồi, đọc thần chú khua tang cách cách
{...}
Chè Bát đức sẵn đà lưu loát, chẳng phải lo củi nấu kỳ cầm
Bách tam thừa vốn đã chứa chan, nào có nhọc bột đâm thì thịch
Quả Bồ đề ăn ngọt xớt, muôn kiếp hằng no
Hoa Ưu bát ngửi thơm tho, ngàn đời chẳng dịch
Sang Tây phương bệ ngọc đứng phơi
Về Ðông độ tòa vàng ngồi phịch
Bể Từ bi thênh thang rộng rãi, mặc sức chở người
Thuyền Bát nhã thăm thẳm bao la, giàu lòng độ khách
{...}
Thích Ca Phật tổ ngồi tuyết sơn khô chẳng gầy gùa
Di Lặc Tiên quang di vận thủy đẩy đà phục phịch
Ðức Huệ Năng bát nguyệt thung phường
Tổ Ðạt Ma cửu niên diện bích
Thần quang đoạn tý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm
Ca Diếp nhãn đồng, thoạt chốc ngộ miệng cười khềnh khệch
Dù ai quyết lòng học đạo, hỏi cho hay sừng thỏ lông rùa
Hoặc kẻ dốc chí chân tu, xem cho biết đầu cua tai ếch...
TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA CHÂN NGUYÊN
Theo
Chân Nguyên, đóa sen mà Phật đưa lên cho đại chúng ở hội Kỳ Viên xem,
đóa sen đã làm cho Ca Diếp mỉm cười, là tượng trưng cho tính giác ngộ có
tính trong sáng tròn đầy (trạm viên) của tất cả chư Phật và tất cả
chúng sinh. Giác ngộ thành đạo tức là phát hiện được tự tính đó: tự tính
này hiện hữu một cách bình đẳng nơi mọi loài và mọi vật, không phân
biệt trong ngoài trên dưới:
Thuở xưa hội cả Kỳ viên
Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày
Ca Diếp trí tuệ cao tay
Liễu ngộ tự tính bằng nay mỉm cười
Trần trần sát sát Như Lai
Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen
Hoa là vốn tính trạm viên
Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng(50)
Khi
một bậc giác ngộ muốn diễn tả nói năng, thì chính đóa hoa ấy của tâm
(tâm hoa) ứng miệng nói ra chứ không phải là do ta vận dụng tri thức,
quan niệm và ngôn ngữ thông thường:
Hậu học đã biết hay chăng
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời(51)
Như
vậy đối với Chân Nguyên, tất cả những điều nói năng không phát xuất
trực tiếp từ kinh nghiệm về tự tính đều là những điều trống rỗng. Phương
pháp của thiền khác với phương pháp của giáo. Thiền là sự trao truyền
của tâm qua tâm, còn giáo là sự trao tuyền bằng kinh bằng lục:
Giáo là kinh lục kể bày
Giấy mực văn tự chất đầy hà sa
Tông là nguyên tự tính ra
Vốn vô nhất vật, lặng hòa hư linh(52)
Ðọc kinh thì lâu lắm mới hiểu được đạo, trong khi chiêm nghiệm theo lời chỉ dẫn của tổ thì có thể chứng ngộ trong giây phút:
Xem kinh Bụt thuyết còn xa
Nghiệm cơ tổ bảo sát na biết rồi (53)
Chân
Nguyên lại khuyên độc giả đừng ngại ngùng khi nghe những mẫu vấn đáp có
tính cách kỳ lạ giữa các tổ và môn đệ của họ. Những mẩu vấn đáp này
đích thị là ngôn ngữ Thiền, nhằm đối trị các trường hợp cao thấp thuận
nghịch khác nhau, là những phương tiện đập vỡ thói quen và thành kiến để
đưa người ra khỏi sự bế tắc:
Ngộ tính không tịch thì thôi
Chẳng lạ chỉ lời vấn đáp tiêu hao
Cơ quan thuận nghịch thấp cao
Những sự huyễn trí chiêm bao đặt làm
Ðại vi thuyết pháp chỉ nam
Cho ta ngộ đảo kẻ đàm kinh lâu(54)
Ngôn
ngữ này lắm khi chỉ là sự giữ lặng thinh, hoặc là giương mắt, hoặc là
nhíu lông mày, hoặc là hét lên một tiếng vang dội như sư tử lớn:
Hoặc là nghiễm tọa vô vi
Hoặc là thuấn mục, giương mi giao thuần
Hoặc hiện sư tử tấn thân
Quát thét một tiếng xa gần vang uy
Ai khôn xem đấy sá nghì
Hội ngộ tự tính, tức thì chứng nên(55)
Nhưng
lối truyền thông mà Chân Nguyên ưa nói nhất là nhìn thẳng vào hai mắt
cả người mình đối thoại. Ta nhớ hồi còn tu học với Minh Lương, Chân
Nguyên vì được Minh Lương nhìn thẳng vào hai mắt mình mà trong phút giây
giác ngộ. Cho nên ông đã dùng hình ảnh này nhiều lần trong Thiền Tông
Bản Hạnh:
Tam thế chư Phật tổ sư
Tứ mục tương cố thị cừ thiền cơ
Tứ mục tương cố là bốn mắt nhìn nhau.
Tứ mục tương cố nhãn đồng
Thầy tớ trao lòng đăng chúc giao huy.
Thầy tớ trao lòng là sự truyền tâm giữa thầy và trò, còn đăng chúc giao huy là đèn đuốc nối sự sáng cho nhau.
Hóa Phật thọ ký vô biên
Tứ mục tương cố mật truyền tâm tông
Ông lại cũng dùng những hình ảnh này trong tác phẩm Ngộ Ðạo Nhân Duyên nữa:
Ðèn tâm mắt Phật mới vừa sinh
Tâm ấn truyền nhau, bốn mắt nhìn
Tiếp nối đèn kia về bất tận
Thiền lâm thắp mãi ánh quang minh.
(Nhất điểm tâm đăng Phật nhãn sinh
Tương truyền tứ mục cố phân minh
Liên phương tục diệm quang vô tận
Phổ phó thiền lâm thọ hữu tình)
Về
vấn đề ngôn ngữ Chân Nguyên viết: “Sử dụng ngôn thuyết là việc bất đắc
dĩ phải dùng phương tiện để đối trị vọng tưởng của chúng sinh. Nếu không
tùy trường hợp mà đối trị những vọng tưởng ấy, tức là không thể có giáo
pháp. Mà không có giáo pháp nghĩa là không có Phật cũng không có tăng.
Tam bảo đã không thì không có người thuyết pháp, cũng không có pháp được
thuyết. Giáo pháp đã từ nhân duyên mà có thì cũng chỉ là phương tiện để
làm trẻ con nín khóc mà thôi, đâu có chân thực. Người ngu phu thì cần
nhiều kinh điển, nhiều giáo pháp; bậc thượng trí thì chỉ cần một tiếng
hét hay một nụ cười cũng có thể đốn ngộ tự tính”
Chân
Nguyên rất hâm mộ đoạn nói về ngôn ngữ thiền trong kinh Lăng Già và
thường hay trích dẫn kinh này trong các tác phẩm của ông. Ông nói:
Ai chưa tín thọ còn ngờ
Thinh kinh Lăng Già quyển nhị hòa trông(56)
Công
án mà Chân Nguyên đã sử dụng nhiều nhất trong thiền tập có lẽ là công
án mà Bách Trượng ngày xưa đã trao cho Hương Nghiêm: “Hãy nói cho tôi
nghe về mặt mũi của chính ông khi mà ông chưa được cha mẹ sinh ra”. Công
án này có liên hệ tới pháp hiệu Chân Nguyên của ông. Chân Nguyên là
nguồn gốc chân thực. Công án ấy ông đã diễn tả trong sách Thiền Tông Bản
Hạnh:
Thuở xưa trời đất chưa sinh
Cha mẹ chưa có thật mình chân không
Chẳng có tướng mạo hình dung
Tịch Quang phổ chiếu viên đồng thái hư.
Thì
ra mặt mũi ấy là chân không. Chân không cố nhiên không phải là hư vô
-hư vô là giả chứ không phải là cái không chân thực. Cái không chân thực
vượt ra ngoài có và không. Nó là thực tại không thể diễn ra bằng tướng
mạo hình dung. Ông lại còn diễn tả cái thấy của ông về công án này trong
hai bài kệ gọi là ChânNguyên Trạm Tịch nghĩa là “Chân Nguyên vốn là
trong sáng và lặng lẽ” Ðọc bài này ta đừng quên rằng hai tiếng chân
nguyên vừa có nghĩa là “nguồn gốc chân thật” Vừa có nghĩa “ông thầy tu
Chân Nguyên”
Thiên địa phụ mẫu vị sinh tiền
Tịch quang viên trạm thị chân nguyên
Tự giác giác tha danh viết Phật
Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên.
(Khi
đất trời và cha mẹ chưa sinh, thì chân nguyên lặng yên, chiếu sáng tròn
đầy, trong trẻo. Nếu cái nguồn gốc chân thật ấy mà hiển lộ được thành
hành động tự giác, giác tha thì được gọi là Phật, có thể đem từ bi tâm
thuyết pháp để làm lợi cho cõi người và cõi trời).
Vạn pháp không hoa giai bất thực
Vị độ quần sinh giả lập quyền
Liễu liễu bản lai vô nhất vật.
Chân nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên
(Mọi
hiện tượng đều như hoa đốm giữa hư không, không có thực chất. Vì muốn
độ quần sinh cho nên tạm đề cập tới chúng. Giác ngộ được rằng xưa nay
không một hiện tượng đã từng hiện hữu thì Chân Nguyên vắng lặng trong
trẻo trở về nguồn cội của nó).
Về
phương diện phương pháp hành đạo, Chân Nguyên chủ trương rằng chìa khóa
của sự đạt đạo là nuôi sáng ý thức mình về sự hiện hữu của tự tính
“trạm viên”, nguồn gốc chân thật của mình. Ý thức được như vậy thì mọi ý
nghĩ, mọi hành động của ta tự nhiên đi vào con đường giác ngộ, và không
cử chỉ nào của ta mà không phải là mầu nhiệm thần thông: mắt thấy, tai
nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc và ý nghĩ. Ðó là sự “vận dụng của lục
căn” trên căn bản ý thức về tự tính giác ngộ. Chân Nguyên nhắc lại điều
này nhiều lần. trong Thiền Tông Bản Hạnh:
Hậu học đà biết hay chăng?
Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời.
Thiêng liêng ứng khắcp mọi nơi
Lục Căn vận dụng trong ngoài thần thông.
Và trong bài kệ Thị tịch:
Hiển tích phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tính nhậm suy vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chính biến tri.
Nhưng
dù sao, diễn tả cái thấy của mình vẫn là chuyện khó khăn; Chân Nguyên
biết điều đó, cho nên một lần ông ta viết bài thơ này, coi như bài thơ
đẹp nhất của vị thiền sư đã từng làm cho phát triển chấn hưng vào cuối
thế kỷ thứ mười bảy:
Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng chẳng xong
Vì anh đưa một nét
Ðầu núi ánh dương hồng.
(Hữu thuyết giai thành báng
Vô ngộ diệc bất dung
Vị quân thông nhất tuyến
Nhật xuất lĩnh đông hồng.
NHỮNG VỊ ÐỆ TỬ XUẤT SẮC CỦA CHÂN NGUYÊN
Chân
Nguyên có nhiều đệ tử xuất sắc, trong đó Như Hiện và Như Trừng là hai
người nổi bật nhất. Thiền sư Như Hiện được tiếp nối y bát của truyền
thống Trúc Lâm, còn thiền sư Như Trừng lập được một thiền phái lấy tên
là Liên Tông. Cả hai phái ấy sau này nhập lại làm một, và tăng sĩ của cả
hai phái đều đóng góp tích cực vào việc phục hồi những tác phẩm đời
trần.
Thiền sư Như Hiện
Hiệu
là Nguyệt Quang, ông sinh ở làng Ðường Hào ở Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Ông xuất gia năm mười sáu tuổi, tại chùa Long Ðộng ở Yên Tử. trước khi
Chân Nguyên mất, ông được trao y bát Trúc Lâm, kế thế cho chùa Long
Ðộng, Quỳnh Lâm và Nguyệt Quang, Năm 1730, các chùa Quỳnh Lâm và Nguyệt
Quang dưới sự chăm sóc của ông được chúa Trịnh Giang trùng tu. Chúa cùng
dân ba huyện Ðông Triều, Thủy Ðường và Chí Linh góp sức vào việc xây
dựng lại các chùa này. Gần mười ngàn người làm việc trong suốt một năm
mới xây dựng xong hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm. Dân chúng ở ba
huyện kể trên được miễn sưu dịch trong một năm, bảy năm sau, chúa Trịnh
Giang lại cho đúc một pho tượng Phật rất lớn để thờ tại chùa Quỳnh Lâm.
Năm
1748, Như Hiện được vua Lê Hiển Tông ban chức tăng cương, và năm 1757
được sắc phong là Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng. Ông dạy trên 60 đệ
tử xuất gia. Thiền sư Tính Tĩnh là vị đệ tử được ông trao truyền y bát
Trúc Lâm và kế thế các chùa Long Ðộng, Quỳnh Lâm và Nguyệt Quang(57).
Ông mất ngày mồng sáu tháng chín năm Ất dậu (1756).
Thiền sư Như Trừng
Tự
là Lân Giác, hiệu là Cứu Sinh thượng sĩ, ông vốn là một vị vương công
họ Trịnh. Ông tên là Trịnh Thập, con của Phổ Quang Vương, sinh ở tỉnh
Thanh Hóa năm 1696. Lớn lên ông được vua Lê Hy Tông gả công chúa thứ tư
cho. Ông có tư dinh tại phường Bạch Mai, huyện Thọ Xương. Sau tư dinh là
một cái đồi rất cao. Một hôm ông bảo người nhà đào hồ trên ấy để thả cá
vàng; người nhà đào được một cọng sen lớn vào trình ông. Ông cho đó là
điềm xuất gia, liền đổi làm nhà chùa, đặt tên là Viện Ly Trần, chùa Liên
Tông, bắt đầu ăn chạy, học đạo, ngồi thiền. Sau đó ông dâng sớ xin xuất
gia. Ðược vua chấp nhận ông lên thẳng núi Yên Tử làm lễ thiền sư Chân
Nguyên tại chùa Long Ðộng. Lúc đó Chân Nguyên đã tám mươi tuổi. Ông nổ
lực học tập, sau đó được thụ giới, đắc pháp với Chân Nguyên và trở về
tĩnh tu tại chùa Liên Tông. Trong thời gian hoằng hóa, ông có lập thêm
chùa Hộ Quốc ở phường An Xá (cũng tại Thọ Xương) và chùa Hàm Long ở Quế
Dương (Bắc Ninh). Hồi còn làm sa di pháp hiệu là Như Như tại chùa Long
Ðộng, ông có viết các bài Ngũ Giới Quốc Âm và Thập Giới Quốc Âm bằng thơ
Nôm lục bát. Ông tịch năm 1733, lúc mới được ba mươi bảy tuổi, có để
lại bài kệ sau đây:
Gốc bắt nguồn từ nơi không gốc
Từ vô vi mà đến
Lại đi về vô vi
Ta không đến không đi
Tử sinh làm sao hệ lụy được ?
(Bản tòng vô bản
Trong vô vi lai
Hoàn tòng vô vi khứ
Ngã bản vô lai khứ
Tử sinh hà tằng lụy?)
Thiền
sư Tính Dược đệ tử ông, được chỉ định trú trì chùa Liên Tông, còn thiền
sư Tịnh Ngạn trú trì chùa Hàm Long. Ngoài hai vị đệ tử lớn này, ông có
nhiều đệ tử cao tăng khác: Tình Tuyền, Tịch Dự, Vũ Hoa, Chính Tâm, Phổ
Toán và Thông Vinh. Tính Tuyền được ông gửi sang Trung Hoa du học và
thỉnh kinh. Vị này lưu học tại chùa Khánh Vân núi Ðỉnh Hồ ở Quảng Châu
sáu năm(58), khi về có thỉnh theo được ba trăm bộ kinh và luật, cả thảy
hơn một ngàn cuốn. Gần hai trăm bộ kinh đã được khắc bản và in lại để
phổ biến trong xứ. Nhiều bản gỗ còn được chứa cất tại chùa Sùng Phúc và
Kiến An.
Chùa
Liên Tông sau này cũng được gọi là chùa Liên Phái, trung tâm của hệ
phái do thiền sư Như Trừng thành lập. Các chùa Hộ Quốc, Hàm Long, Sùng
Phúc, Nghiêm Xá, Thiên Quang, Phúc Ân, Vân Trai, v.v... đều là những tổ
định thuộc phái này.
CÔNG TÁC TRÙNG SAN NHỮNG TÁC PHẨM PHẬT HỌC LÝ TRẦN
Như
đã nói, vì rất có ý thức về một nền Phật Giáo dân tộc nên thiền sư Chân
Nguyên đã khuyến khích môn đồ gắng sức phục hưng các tác phẩm Lý Trần.
Ông đã trùng khắc Thánh Ðăng Lục và trước tác sách Thiền Tông Bản Hạnh.
Sau đây ta hãy xét về công tác trùng san những tác phẩm khác tiếp theo
sau đó.
Thuyền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
Như
đã nói trong chương bốn, sách này do công phu nhiều người biên soạn,
bắt đầu từ đời Lý. Trong số những người có công ta phải kể đến thiền sư
Thông Biện, thiền sư Thường Chiếu, Thiền sư Thần Nghi và thiền sư Ấn
Không. Bản in cổ nhất còn lại là bản in năm 1715 do thiền sư Như Trí
thực hiện. Bản in năm 1859 do Phúc Ðiền thực hiện có ghi là in theo bản
cũ chùa Tiêu Sơn. Bản cũ chùa Tiêu Sơn có thể là bản in năm 1715 của Như
Trí. Ta biết rằng Chân Nguyên tịch 1726, vậy sách Thuyền Uyển Tập Anh
dã được trùng khắc trong khi ông còn sống. Thiền sư Như Trí có thể là
pháp tử của thiền sư Chân Nguyên, nếu không thì cũng là pháp điệt của
thiền sư này. Ðiều lạ là tại sao ông không đến nhờ Chân Nguyên hiệu đính
và đề tựa cho cuốn sách trước khi khắc bản mà lại đi nhờ một nhà nho
không mấy thông hiểu về Phật học. Hay tại chùa Tiêu Sơn ở huyện Yên
Phong tỉnh Bắc Ninh xa cách chùa Long Ðộng ở Yên Tử chăng?
Sau đây là một đoạn trích trong bài tựa của nhà nho kia mà tên tuổi cũng không còn được giữ lại:
“Sau
buổi giảng dạy ở Chiên đường, tôi thấy một thiền giả đến đàm luận về
đạo Phật. Những chuyện chúng tôi đàm đạo đều thuộc về những vấn đề của
đạo Phật như biểu tượng lông rùa sừng thỏ. Rồi lấy trong tay áo ra một
cuốn lục tên là Tập Anh nhờ tôi xem và khảo đính để tránh những lỗi lầm
trước khi khắc in lại. Thấy trong bộ lục có nhiều vị cao thiền danh tổ,
sức học cao viễn, đạo đức linh diệu, bất giác tôi thấy trong lòng nảy
sinh ra sự kính phục. Những bậc này đàm luận về Chân Không, thuyết pháp
về Giác Ngộ, đề tài vốn không nằm trong phạm vi nghiên cứu của tôi.
Nhưng vì Kinh Dịch có nói: “không phải ta hỏi đứa bé mà là đứa bé hỏi
ta”, cho nên tôi không thể không chiều lòng. Tôi sửa chữa lại những chỗ
sai, bổ túc những nơi thiếu sót. Trong vòng mười lăm hôm, bộ lục này lấy
lại được văn thể nghĩa lý ngày xưa, như là mặt trăng thêm sáng. Vị tăng
lại còn nhờ tôi viết một bài tựa khắc thêm vào đầu sách để làm sáng cho
lời Phật dạy. Tôi không tiếc công, liền gọi người nhà mang giấy bút tới
và viết những dòng thô sơ này. Vị tăng liền cảm ơn và nhận lấy”.
Dưới
bài tựa có câu: “Trùng khắc vào một ngày tháng tư năm Vĩnh Thịnh thứ
11, triều Lê”, nhờ đó mà ta biết được là sách được trùng khắc năm 1715.
Tiếp đó là một danh sách các đệ tử xuất gia và tại gia của Như Trí có lẽ
là những người đã có công trong việc trùng khắc. Những đệ tử xuất gia
toàn là những sa di: Tính Nhụ, Tính Trung, Tính Kiến, Tính Quán, Tính
Huy, Tính Bản. Ðiều này cho ta biết là vào năm trùng khắc Thuyền Uyển
Tập Anh, Như Trí chưa có đệ tử nào thọ Tỳ khưu giới, và do đó ông còn
đang trẻ, vào khoảng bốn mươi tuổi.
Kế Ðăng Lục
Tên
đầy đủ của sách này là Ngự Chế Thiền Uyển Thống Yếu Kế Ðăng Lục, sách
do thiền sư Như Sơn chùa Hồng Phúc soạn. Sở dĩ có chữ ngự chế là vì sách
này được soạn thảo dưới sự bảo trợ của vua Lê Thuần Tông. Sách được
khắc bản năm 1734, tám năm sau khi Chân Nguyên viên tịch. Sách viết theo
thể tài của sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên bên Trung Hoa, nhưng nội dung sách
phần lớn chỉ để viết về tiểu sử của những vị tổ sư Ấn Ðộ và Trung Hoa.
Về phái Lâm Tế ở Việt Nam, cách chỉ có tiểu truyện của ba vị thiền sư:
Chuyết Chuyết, Minh Lương, và Chân Nguyên. Về phái Tào Ðộng ở Việt Nam,
sách chỉ có tiểu truyện của hai vị thiền sư: Thủy Nguyệt và Tông Diễn.
Ðã vậy, sách không có nhiều giá trị sử học. Tiểu truyện đã không ghi năm
sinh và năm tịch của các thiền sư mà nhiều lúc lại còn ghi chép sai lạc
theo kiểu “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Ví dụ đoạn vấn đáp sau đây
vốn là câu chuyện giữa thiền sư Viên Chiếu (998-1090) và một đệ tử, chép
trong sách Thuyền Uyển Tập Anh mà Như Sơn lại đưa vào sách Kế Ðăng Lục,
cho là cuộc đối thoại của Chuyết Chuyết và Ðà Ðà:
- Nghĩa Phật và Thánh khác nhau thế nào?
- Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh thục khí đầu cánh
- Ðệ tử chưa hiểu
- Ngày quạ vàng chiếu rặng
Ðêm thỏ ngọc sáng soi.
Ðoạn
đối thoại sau đây vốn là câu chuyện giữa Vân Phong (mất năm 956) và
Thiện Hội (mất năm 950), chép trong Thiền Uyển Tập Anh, đã được Như Sơn
đưa vào Kế Ðăng Lục để làm cuộc đối thoại giữa Minh Lương và Chân
Nguyên.
- Sinh tử đến, làm sao mà tránh thoát?
- Thì tránh vào chỗ vô sanh vô tử.
- Chỗ vô sinh vô tử là chỗ nào?
- Nó nằm ngay trong chỗ sinh tử.
Có lẽ Như Sơn không được đọc sách Thuyền Uyển Tập Anh cho nên mới phạm những lỗi lầm to lớn trên.
Ðến
năm 1859, trước khi trùng khắc Kế Ðăng Lục, thiền sư Phúc Ðiền thêm vào
sách ấy tiểu truyện của năm vị thiền sư Việt Nam nối dòng Chân Nguyên.
Cách thức biên tập của Phúc Ðiền vượt hẳn cách thức của Như Sơn: Phúc
Ðiền có ghi rõ ngày tháng và chi tiết có liên hệ tới đời sống và sự hành
đạo của các thiền sư. Tuy nhiên, Phúc Ðiền đã không chữa lại những sai
lầm mà Như Sơn đã mắc phải, có lẽ vì sợ mang tiếng bất kính đối với một
vị tổ sư. Bài tựa sách Kế Ðăng Lục của Như Sơn không cho ta một dữ kiện
lịch sử nào trừ ngày tháng và địa điểm mà bài tựa ấy đã được viết.
Như
Sơn soạn Kế Ðăng Lục tại chùa Hồng Phúc. Một người đệ tử ông là sa di
Tính Chúc giúp về việc thẩm duyệt. Hai người đệ tử khác: sa di Tính Phái
và Tính Hiển hiệu chính. Ba vị đều là sa di. Ðiều này cho ta thấy Như
Sơn hồi đó chưa có đệ tử thọ giới tỳ khưu, do đó tuổi ông còn đọ vào
trạc tứ tuần.
Năm 1907, sách Kế Ðăng Lục lại được chùa Nguyệt Quang ở Ðông Khê trùng khắc một lần nữa.
Thánh Ðăng Lục
Như
đã nói trong chương XVIII, sách này do Chân Nghiêm trùng san năm 1550.
Chân Nguyên trùng san lần nữa năm 1705, và Tính Lương trùng san lại một
lần nữa năm 1750, lần này do Tính Quảng đề tựa. Trong bài tựa, Tính
Lương nói: “Ngày xưa, thầy tôi là Tuệ Ðăng Hòa Thượng...”. Có thể Tính
Lương đã được gặp mặt Chân Nguyên (Tuệ Ðăng) lúc ông này còn sống, nhưng
Chân Nguyên không phải là bổn sư trực tiếp của Tính Lương. Cũng như
Tính Quảng, Tính Lương thuộc về thế hệ của chữ Tính trong bài kệ truyền
pháp của Minh Hành, do đó họ phải thuộc về thế hệ đệ tử của thế hệ mang
chữ Như, như là Như Hiện, Như Trừng, Như Thị...
Thượng Sĩ Ngữ Lục
Tên
đầy đủ của sách là Trần Triều Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Sách này do
Pháp Loa biên tập, Trúc Lâm Ðiều Ngự khảo đính và Trần Khắc Chung đề
bạt. Sách được in nhiều lần trong đời Trần. Tuệ Nguyên chùa Long Ðộng
núi Yên Tử trùng khắc vào năm 1763, tức là hai năm trước khi thiền sư
Như Hiện qua đời. Tuệ Nguyên có viết một bài tựa, nhưng không cho ta
biết sách được in lại căn cứ vào bản in nào. Ðến năm 1903, sa môn Thanh
Cừ chùa Pháp Vũ in lại, chung với sách Tam Tổ Thực Lục.
Khóa Hư Lục
Sách
này của Trần Thái Tông soạn, được in nhiều lần trong đời Trần. Bản in
của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943 đã căn cứ trên bản in của chùa Quất Tụ
năm 1850; mà bản của chùa Quất Tụ đã căn cứ trên bản in của chùa Hoa
Yên như Tuệ Nguyên (người trùng san Thượng Sĩ Ngữ Lục), có lẽ hai người
là đồng sư với nhau. Vậy có thể là bản in Khóa Hư Lục của chùa Hoa Yên
được Tuệ Hiền thực hiện vào giữa khoảng thế kỷ thứ mười tám.
Tam Tổ Thực Lục
Phần
thứ nhất cả sách này nói về đời Trúc Lâm Ðiều Ngự, không đề tên người
biên tập. Theo nguyên tắc thì Bảo Sát hay Pháp Loa phải là người biên
tập phần này, vì họ là người kế thừa của Trúc Lâm Ðiều Ngự. Pháp Loa là
đệ nhị tổ Trúc Lâm.
Phần
thứ hai của sách nói về đời Pháp Loa, do thị giả của Pháp Loa là Trung
Minh biên tập và Huyền Quang, đệ tam tổ của Trúc Lâm Hiệu đính.
Phần thứ ba của sách, nói về đời Huyền Quang, không biết do ai soạn(59)
Bản
in cổ nhất của Tam Tổ Thực Lục hiện có là bản in năm 1765, sau ngày Tuệ
Nguyên trùng khắc sách Thượng Sĩ Ngữ Lục hai năm, chưa rõ là do ai thực
hiện. Tựu trung, ta có thể nói là người trùng khắc cũng thuộc về môn
phái Trúc Lâm. Sau bản in này là bản in năm 1897, rồi đến bản in năm
1903 do Thanh Cừ chùa Pháp Vũ thực hiện. Bản này được in chung với
Thượng Sĩ Ngữ Lục và có mang bài tựa của Thanh Cừ.
Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Lục
Sách
này do Hòa thượng Phúc Ðiền chùa Bồ Sơn thực hiện. Sách này có hai tập:
tập thứ nhất in lại sách Thuyền Uyển Tập Anh; tập thứ hai gồm có các
sách Tam Tổ Thực Lục, Thiền Uyển Thống Yếu Kế Ðăng Lục và một số tài
liệu khác mà Phúc Ðiền gọi là “ngoại khoa tạp lục”(60)
Sách
được ấn hành năm 1859. Nhưng trước đó một năm, Phúc Ðiền đã bổ túc sách
Kế Ðăng Lục với tiểu truyện của năm vị thiền sư phái Lâm Tế. Vì sách Kế
Ðăng Lục có ba quyển cho nên khi cộng với sách Thuyền Uyển Tập Anh và
Tam Tổ Thực Lục, tất cả trở thành năm quyển. Vì vậy bài tựa của Phúc
Ðiền được gọi là Truyền Ðăng Ngũ Quyển Tân Tự (bài tựa mới của sách
Truyền Ðăng Năm Quyển).
Có
thể nói rằng bài tựa này đã được viết sau khi quyển một của Ðại Nam
Thiền Uyển Truyền Ðăng Lục đã in xong và bản gỗ còn lưu lại chùa Liên
Tông. Sau đó gần một năm thì quyển hai cũng được in xong, bản gỗ lưu lại
chùa Bồ Sơn. Ðầu bài tựa có dòng chữ: “San khắc Truyền Ðăng thủ Trần
gia bản”, có nghĩa là “khắc lại sách Truyền Ðăng mà sách nhà Trần để
đầu”, “sách nhà Trần” đây là Tam Tổ Thực Lục vậy.
Sau
đây ta hãy đọc vài đoạn trong bài tựa quan trọng này để thấy sự hình
thành của Truyền Ðăng Tập Lục: “Nước ta xưa kia có bộ lục Thiền Uyển tên
là Tập Anh chép đại khái về các bậc thạc đức cao tăng của ba triều đại.
Tuy vậy nội dung lỗ mỗ bất nhất, văn mạch khó phân, cho nên {đã} hiệu
đính lại, viết cho rõ ra để khắc bản ấn hành mà bảo tồn bản cũ, làm
thành quyển thượng. Ðến Triều Trần, có sách Thánh Ðăng Lục(61), một
quyển ghi chép ba tổ đời Trần, có sự tích nhưng không có hình ảnh. Rồi
đến đời Hậu Lê, Như Sơn tổ sư tuân thừa sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên, tuyển
thành ba quyển, có hình ảnh có sự tích, từ Phật Uy Âm cho đến bảy Ðức
Thế Tôn, cho đến bốn mươi bảy vị tổ Tây Trúc và hai mươi ba vị tổ Trung
Hoa, cùng pháp phái Lâm Tế tại nước ta, ba vị tổ Chuyết Chuyết, Minh
Lương và Chân Nguyên, sau nữa là tông phái Tào Ðộng với hai thiền sư là
Thủy Nguyệt và Tông Diễn. Về tông phái Lâm Tế, từ Cứu Sinh thượng sĩ trở
về sau chưa được chép vào, do đó lão tăng thuận theo thứ tự truyền
đăng, chép tiếp tiểu sử năm vị tổ sư, có hình ảnh và sự tích...(62). Lão
tăng đau xót nghĩ rằng ngọn đèn của chư tổ đã sắp tàn lụi, cho nên đem
hết tâm lực mình gom góp các lục, từ bộ nói về ba tổ đời Trần, đến bộ
nói về hai phái Lâm Tế và Tào Ðộng, gồm cả chân đế và tục đế, làm thành
một tập, thêm vào đó những tạp lục ngoại khoa, làm thành quyển hạ, khiến
cho pháp được truyền và đèn được nối. Một ngày tháng 11 năm Mậu ngọ,
nhằm năm Tự Ðức thứ mười một, thầy giám tự chùa Bồ Sơn pháp danh là
Phương Viên và tăng chúng môn đồ xin đem về chùa san khắc. Ðêm 13 tháng
ấy, thầy giám tự chùa Liên Phái, pháp danh là Thanh Chiêu, nằm mơ thấy
một vị thần tăng nói: “Nhờ đại đức hãy cùng đi với tôi tới chùa Báo
Thiên xem coi sách Phật Tổ Thống Kỷ(63) đã khắc xong chưa?” Thầy Thanh
Chiêu đáp: “Bộ sách đã khắc xong, hiện nay bản gỗ được lưu tại chùa Liên
Phái”. Vị thần tăng hỏi: “Tôi muốn hỏi bản sách mới soạn để nối vào
sách Thống Kỷ kia. Bản này đã khắc xong chưa?” Ðáp: “Bản này hiện đang
để tại Bồ Sơn tự, đang còn khắc bản, chưa xong”. Thầy giám tự thức giấc,
sáng ấy tới chùa Báo Thiên kể lại chuyện thần tăng ứng mộng cho tôi
nghe. Nghe xong tôi vui mừng quá đỗi. Có thần tăng chứng minh, tôi xin
tất cả các vị có mặt phát tâm hoan hỷ bình đẳng, đừng sinh tâm hữu vô,
đắc thất, thị phi, nhân ngã, tồn vong, bỉ thử, thì lão tăng này rất lấy
làm hy vọng vạn lần vậy.
Tự
Ðức năm thứ mười hai, ngày 30 tháng giêng năm Kỷ mùi, chùa Bồ Sơn, hòa
thượng Phúc Ðiền, có giới đao và độ điệp soạn; giám tự pháp danh Phương
Viên thừa lệnh khắc bản; chưởng lãnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận Chiếu
pháp danh Ðại Tuệ hưng công, môn nhân là Văn Ðường vâng lệnh viết ra”.
Bản
in Thuyền Uyển Tập Anh năm 1715 còn được giữ lại, tự nó cũng được chia
làm hai quyển thượng và hạ, Tờ thứ tư có đề chữ quyển thượng và tờ thứ
72 có đề chữ quyển hạ chung (hết quyển hạ). Trong khi Trùng Khắc Ðại Nam
Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục thì lấy toàn bộ sách Thuyền Uyển Tập Anh
làm quyển thượng; tờ 1 có ghi hai chữ quyển thượng, và tờ 65 chó ghi
bốn chữ quyển thượng chung tất (hết quyển thượng).
Trong
bản in Thuyền Uyển Tập Anhănm 1715 còn được giữ lại, người ta cũng đã
đóng lộn vào ba tờ vốn thuộc vào Trùng Khắc Ðại Nam Thiền Uyển Truyền
Ðăng Lục quyển hạ. Ba tờ này được đóng chen vào giữa tờ 3 và tờ 4 của
sách Thuyền Uyển Tập Anh. Có nhiều lý do khiến ta nói vậy. Lý do thứ
nhất là ngoài lề mỗi tờ, có dòng chữ: Thuyền Uyển Truyền Ðăng Lục quyển
hạ. (Thuyền Uyển Truyền Ðăng Lục là tên gọi tắt của Trùng Khắc Ðại Nam
Thuyền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục) dùng để in vào lề mỗi tờ, quyển thượng
cũng như quyển hạ. Lý do thứ hai là kiểu chữ, giấy in, số chữ mỗi trang
và mỗi dòng của ba tờ khác hẳn với Thuyền Uyển Tập Anhầm lại giống hệt
với Thuyền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục (mỗi trang của Thuyền Uyển Tập Anh
có 22 dòng, mỗi dòng có 34 chữ, trong khi mỗi trang Thuyền Uyển Truyền
Ðăng Tập Lục có 20 dòng, mỗi dòng 42 chữ). Lý do thứ ba là ba tờ ấy
không nằm đúng vị trí của nó trong sách Thuyền Uyển Tập Anh, từ hình
thức đến nội dung. Về hình thức, ba tờ ấy vốn được đánh số 8, 9, 10,
không thể rnằm xen kẻ giữa tờ 3 và 4 của sách Thuyền Uyển Tập Anh. Về
nội dung, ba tờ ấy có hình vẽ và tiểu dẫn về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần,
không dính dấp với nội dung của Thuyền Uyển Tập Anh vốn chỉ chứa đựng
những tài liệu về các thiền sư trước Trần.
Xem
bài tựa của Phúc Ðiền rồi xét những điểm vừa nêu đó, ta thấy tác phẩm
của Phúc Ðiền là một tập đại thành của những tác phẩm có tính cách
truyền đăng do người Việt sáng tác từ trước tới giờ. Môn phái Trúc Lâm
do Chân Nguyên phục hưng đã làm được những công trình đáng kể, trong đó
việc trùng san để duy trì những tác phẩm Phật Giáo Lý Trần rất đáng để
cho chúng ta biết ơn. Trước họ, ta chỉ thấy có một Lương Thế Vinh đề tựa
cho Nam Tông Tự Pháp Ðồ (thế kỷ thứ mười sáu) và một Tuệ Tĩnh(64),
phiên dịch Khóa Hư Lục (nữa đầu thế kỷ thứ mười bảy). Tiếc là những môn
đệ của Chân Nguyên đã không tìm ra được những sách như Nam Tông Tự Pháp
Ðồ, Nam Minh Thiền Lục, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Ðại Hương hải Ấn
Thi Tập... Binh lửa và bàn tay tiêu diệt văn hóa của người Minh đã làm
nghèo đi rất nhiều kho tàng văn hóa Phật Giáo Lý Trần để lại.
--------------------------------------------------------------------------------
(46)
Louis Bezacier, trong cuốn L’Art Vietnamien (Nhà xuát bản Editions de
l’Union francaise, Paris 1954) nói rằng những bản khắc này gần đây đã bị
người ta lấy làm củi nấu cơm, cho nên Trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội đã
cho người đến khiêng về lưu trú tại Trường.
(47)
Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là con gái của Chúa Trịnh Tráng. Bà là
chính cung của vua Lê Thần Tông, tức là Lê Duy Kỳ. Bà sinh ra vua Lê Hy
Tông. Bà thường được người ta gọi là Bà Chúa Kim Cương. Khi xuất gia với
Chuyết Chuyết, bà được pháp danh là Diệu Viên, hiệu là Pháp Tính. Bà có
soạn thảo bộ Tự Ðiển Chỉ nam Ngọc AÂm Giải Nghĩa bằng thơ lục bát,
những từ ngữ cả Hán và Nôm cộng lại cả thảy là 20.000 chữ. Từ ngữ Hán
được chia ra ba mươi loại như: thiên văn, địa lý, thân thế, nông vụ,
cầm, thú, hôn nhân, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, thảo mộc, văn nghệ, y
lý, dược thảo, tang lễ v.v... (Bia chùa Ninh Phuc ở Bút tháp, dựng năm
1647). Công chúa Trịnh Thị Ngọc Duyên là con của bà Trịnh Thị Ngọc Hạnh
và vua Lê Thần Tông, và là cháu gái của chúa Trịnh Tráng. Bà xuất gia
năm 26 tuổi, pháp danh là Diệu Tuệ. Bà học Phật dưới sự chỉ dạy của Minh
Hành. Năm 1659, sau khi Minh Hành tịch, bà được chỉ định là tọa chủ
chùa Phật Tích. Bà tịch năm 1664, lúc 49 tuổi.
(48) Minh Hành mất năm 1659 tức là năm Kỷ Hợi
(49) Louis Bezacier, sách đã dẫn
(*)
Theo nhà Phật học Lê Mạnh Thát trong Chân Nguyên thiền sư toàn tập, 2
tập, Tu thư Vạn Hạnh, thành phố Hồ Chí Minh, 1980, thì Chân Nguyên có
đến 11 tác phẩm, kể cả những cuốn chưa xác định thật chắc chắn: 1. Tôn
sư phát sách đăng đàn thụ giới; 2.Nghênh sư duyệt định khoa; 3. Long thư
Tịnh Ðộ văn tự; 4. Long thư Tịnh độ luận, bạt, hậu tự; 5. Tịnh độ yếu
nghĩa; 6. Ngộ đạo nhân duyên; 7. Thiền tịch phú; 8. Thiền tông bản hạnh;
9. Nam Hải quan âm bản hạnh; 10. Ðạt Na thái tử hành; 11. Hồng mông
hành (N.H.C.)
(50) Thiền Tông Bản Hạnh
(51) Thiền Tông Bản Hạnh
(52) Thiền Tông Bản Hạnh
(53) Thiền Tông Bản Hạnh
(54) Thiền Tông Bản Hạnh
(55) Thiền Tông Bản Hạnh
(56) Ðây là đoạn văn liên hệ dịch từ Kinh Lăng Già:
“Này,
Ðại Tuệ, không phải trong mọi thế giới đều có sự sử dụng ngôn thuyết.
Ngôn thuyết là tác động vào tai. Ở nhiều nước Phật, người ta giáo hóa
bằng nét mặt, hoặc bằng cách nhướng mắt, hoặc nhíu lông mày, hoặc mỉm
cười, hoặc đằng hắng, hoặc nháy mắt, hoặc tư duy trầm lặng, hoặc dao
động thân thể. Này Ðại Tuệ, như các cõi Chiêm Thị và Hương Tích, cõi của
Phổ Hiền Như Lai, người ta chỉ cần sử dụng cái nhìn mà cũng đủ làm cho
các vị bồ Tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn (Anutpattikadharmakshanti),
và các quả Tam Muội lớn lao khác. Phật lại bảo Ðại Tuệ: Xem ngay trong
thế giới này, ta cũng thấy các loài như ong, kiến, không hề dùng tới
ngôn ngữ mà vẫn cũng có thể thi hành với nhau được bao nhiêu việc”.
(57) Thiền sư Tính Tĩnh họ Trần, sinh năm 1692 ở Ðông Khê. Sau khi đắc pháp với Như Hiện, ông trú tại chùa Nguyệt Quang.
(58)
Tính Tuyền sinh năm 1674, xuất gia tại chùa Liên Tông năm 12 tuổi. Qua
Trung Hoa năm 22 tuổi, ông học Phật và Thụ giới với Thiền sư Kim Quang
Ðoan tại chùa Khánh Vân. Ngày ông xuất dương, thiền sư Như Trừng có làm
bài kệ sau đây để tiễn đưa:
Gương cổ thiền lâm bụi bám đầy
Vị Pháp quên mình đã mấy ai?
Tham vấn gương xưa còn nhắc nhở
Tám lần hành cước gắng hôm mai!
(Thiền lâm cổ kính cửu mai trầm
Vị pháp vong thân kỷ hứa nhân
Ngũ thập tam tham kim cổ tại
Bát tuần hành cước đã tân cần
Khi
ông về nước thì Như Trừng đã viên tịch. Ông bèn lập đạo tràng tại chùa
Càn An, tăng ni khắp chốn đến xin cầu học và thụ giới. Ông có công phục
hồi phong thái thiền môn, khích lệ các tự viện chỉnh đốn việc nghiêm trì
giới luật; nhờ đó nếp sống thiền gia trở nên có quy cũ trở lại và đức
tin của quần chúng nơi tăng đoàn tăng gia gấp bội. Ông tịch năm bảy mươi
tuổi, vào năm 1744. Tháp ông được xây tại chùa Sùng Phúc và Hàm Long.
Ông có để lại bài kệ sau đây:
Ðạo lớn không lời
Vào cửa bất nhị
Pháp môn vô lượng
Ai người thừa kế?
(Chí đạo vô ngôn
Nhập bất nhị môn
Pháp môn vô lượng
Thùy thị hậu côn?)
(59) Xem chương XIV
(60) Xem chương XIV
(61) Ðể ý: Phúc Ðiền đã gọi Tam Tổ Thực Lục là Thánh Ðăng Lục.
(62)
Năm vị tổ sư mà tiểu truyện đã được Phúc Ðiền đưa vào sách Kế Ðăng Lục
là: Như Trừng, Tỉnh Tuyền, Hải Quýnh, Như Hiện và Tính Tĩnh. Tuy nhiên
ta còn thấy sau đó tiểu truyện của các vị Kim Liên, Tường Quang, Phổ
Tính và Tin Kim. Chắc hẳn các tiểu truyện này đã được những vị hậu bối
của thiền sư Phúc Ðiền thêm vào sạu này.
(63) Ðây là nhằm chỉ sách Thuyền Uyển Tập Anh, mà lề lối biên tập cũng tương tự với sách Phật Tổ Thống Kỷ của Trung Hoa.
(64)
Thiền sư Tuệ Tĩnh sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười sáu. Sách Hải
Dương Phong Vật Chí nói ông có pháp tự là Vô Dật, pháp hiệu là Thận
Trai. Ông người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương. Ông tu ở chùa Hộ Xá, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Ðịnh. Ông cũng là
một dược sư giỏi. Ông là tác giả các sách:
-Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục, bản dịch bằng chữ Nôm
- Nam Dược Thần Hiệu
- Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư
Bài
tựa sách Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục được viết năm 1631 cho nên ta biết
ông sinh vào cuối thế kỷ thứ mưòi sáu. Sách Nam Dược Thần Hiệu cũng còn
truyền đến ngày nay. Sách Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư được tái bản năm 1717
sau khi chúa Trịnh Cương sai các quan ở Nội phủ và Y Viện hiệu đính
những chữ viết sai và khắc lầm của bản in trước. Người viết chữ để khắc
bàn in năm 1717 là một thiền sư pháp danh là Pháp Thịnh. Chính sách này
cho biết Tuệ Tĩnh ở chùa Hộ Xá. Một phần của sách này được viết bằng
Nôm lục bát. Không rõ thiền sư Tuệ Tĩnh tịch vào năm nào. Hiện còn di
tích đền thờ ở nguyên quán là làng Văn Thai ở Hải Dương. Dân làng và các
làng lân cận còn tiếp tục trồng những dược thảo do ông chỉ dạy.
Sách
Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục hiện có là một bản chép tay, có bài tựa của
thiền sư Tuệ Duyên chùa Sùng Quang huyện Giao Thủy viết, đề năm Ðức Long
thứ ba (1631). Ðể có một ý niệm về văn dịch của Tuệ Tĩnh trong Thiền
Tông Khóa Hư Ngữ Lục, ta hãy đọc một đoạn trong “Bài tựa Bốn Núi”.
“Nguyên
chừng vốn không có tứ đại, chẳng có ngũ ấm. Bởi cái không lại tự tính
dấy nhuộm vọng tình, vọng tình bèn hóa nên sắc tướng, tuy đã có sắc
tướng, sau lại bại hoại về đường chân không; ấy sự vọng tưởng là theo
tính chân không mà tính chân không lại hóa hiện sắc tướng.
“Quen
lấy tính chân không, bèn hóa sinh mọi sắc tướng. Ðã trái chưng trong
nghĩa vô sinh vô hóa, bèn mới làm chưng sự luân hồi hữu hóa hữu sinh.
Trong lòng đã được nghĩa vô sinh vô hóa, ấy thì chưng sau chẳng có hóa
lại chẳng có sinh. Bây giờ chứng minh có làm sự hóa sinh đấy, thì về sau
lại phải có sinh cùng có hóa...”
(Nguyên
văn của Trần Thái Tông: “Nguyên phù tứ đại bản vô, ngũ uẩn phi hữu. Do
không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không; thị vọng tòng không,
không hiện vọng, vọng sinh chủng sắc. Ký bội vô sinh vô hóa, vĩnh vi
hữu hóa hữu sinh; vô sinh hóa tắc vô hóa vô sinh, hữu hóa sinh vố hữu
sinh hữu hóa..”)