Chương XXIII: Thiền Phái Tào Động tới Nước Việt
CHỦ TRƯƠNG CỦA TÀO ÐỘNG
Thiền phái Tào Ðộng được truyền vào Ðại Việt từ thế kỷ thứ mười bảy, cả ở Ðàng Ngoài lẫn Ðàng Trong.
Thiền
phái này có hai thiền sư Ðộng Sơn và Lương Giới (807-869) và Tào Sơn
Bản Tịch (840-901) sáng lập, vị thứ hai là đệ tử của vị thứ nhất. Ðạo
tràng của Bản Tịch là ở Sùng Thọ Viện núi Tào Sơn, Giang Tây. Sau đó một
đạo tràng khác được mở tại Ngọc Hà Sơn. Hai nơi ấy là cứ điểm của phái
Tào Ðộng.
Nói
đến phái Tào Ðộng là nói đến nguyên tắc năm địa vị (ngũ vị) giữa thẳng
(chính) và nghiêng (thiên). Ý niệm về địa vị giữa thẳng và nghiêng vốn
là của Ðộng Sơn. Tào Sơn đã xếp đặt và trình bày lại ý niệm ấy, và
truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Thẳng ở đây tượng trưng cho tuyệt đối còn
nghiêng tượng trưng cho tương đối. Tống Nho sau này có ý niệm về Lý và
Khí rất tương tự với ý niệm về thẳng và nghiêng này.
Ðộng
Sơn nói: “Có một vật trên thì chống trời, dưới thì đỡ đất. Nó đen như
sơn, luôn luôn chuyển dịch và họat động”. Ðó là cái Thẳng. Cái thẳng còn
có nghĩa là Tuyệt Ðối, là nền tảng của trời đất và muôn loài. Cái tuyệt
đối ấy vốn không thể nắm bắt bằng khái niệm, không thể diễn tả được
bằng ngôn từ.
Còn cái nghiêng? Cái nghiêng là khi cái thẳng đi vào thế giới hiện tượng, thế giới của sự vật tương đối.
Tuy
nhiên, Thẳng và Nghiêng không phải là hai vật khác nhau: tương đối là
đối vơi tuyệt đối mà có, tuyệt đối là đối với tương đối mà thành. Cũng
như sóng là nước, nước là sóng. Sóng tuy nhiều nhưng là một, nước tuy
một mà là nhiều. Thẳng và chân không, nghiêng là diệu hữu.
Sự liên hệ giữa Thẳng và Nghiêng làm thành năm địa vị như sau:
1)
Cái thẳng đi vào cái nghiêng (Chính trung thiêng): Vì cái Tuyệt Ðối nằm
trọn trong cái tương đối nên ta có thể hiểu được cái Tuyệt Ðối qua cái
Tương Ðối. Ðộng Sơn có nói: “Trong cái Tuyệt Ðối đã có cái Tương Ðối
rồi, nếu không thì hóa ra cái Tuyệt Ðối có trước cái Tương Ðối sao?”
2)
Cái nghiêng đi vào cái thẳng (Thiên trung chính). Vì cái Tương Ðối chỉ
có thể có do nhờ cái Tuyệt Ðối, cho nên trong cái Tương Ðối phải xáp mặt
cho được cái Tuyệt Ðối. Ðộng Sơn lại nói: “Cái Tương Ðối đã có trong
cái Tuyệt Ðối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tương Ðối có trước cái Tuyệt
Ðối sao?”
3)
Cái nghiêng trong tự thân của nó (Chính Trung lai). Ðây là cái Tuyệt
Ðối trong tư thế tuyệt đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản
thể - hiện tượng. Ðây là pháp thân, là chân như.
4)
Cái nghiêng trong tự thân cả nó (Thiên trung chi). Ðây là cái Tương Ðối
trong tư thế tương đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể
- hiện tượng. Ðộng Sơn ví trường hợp này như là trường hợp hai người
đang đấu kiếm với nhau, không bên nào áp đảo được bên nào. Hoặc là một
bông sen nở trong lò lửa, không hề bị lửa cháy xém. Người đạt đến vị trí
này là người đã thâm nhập thế giới pháp thân và trở ra tung hoành nơi
thế giới hiện tượng.
5)
Cái thẳng và cái nghiêng trong cùng một tự tính (Kiên trung đáo). Tới
vị trí này thì mọi phân biệt giữa Tuyệt Ðối và Tương Ðối, bản thể và
hiện tượng, không còn nữa.
Năm
vị trí giữa thẳng và nghiêng cũng được giải thích bằng năm sự liên hệ
giữa vua và tôi (ngũ vị quân thần). Có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi
là vì có vua:
1- Vua trông thấy bầy tôi.
2- Bầy tôi hướng về vua
3- Vua (một mình)
4- Bầy tôi (một mình)
5- Vua và bầy tôi (bên nhau).
Sau này trong phái Tào Ðộng, những chủ trương sau đây dần dần lại được hình thành:
1) Chỉ cần ngồi thiền mà không cần chủ đề thiền tọa (chỉ quán đả tọa)
2) Ngồi thiền và đạt đạo là một việc chứ không phải là hai (tu chứng nhất như)
3) Không trông chờ sự chứng đắc (vô sở đắc)
4) Không có đối tượng giác ngộ (vô sở ngộ)
5) Tâm và thân nhất như (thân tâm nhất như)
Những
nguyên tắc trên dần dần được áp dụng trong các thiền phái khác. Thiền
sư Phân Dương (947- 1024) của phái Lâm Tế chẳng hạn cũng đã sử dụng khái
niệm về năm vị trí giữa cái thẳng và cái nghiêng. Khái niện “vô đắc”
cũng rất được phổ thông trong thiền phái Lâm Tế. Ngược lại, lối dùng
thoại đầu cũng được áp dụng trong thiền phái Tào Ðộng.
Vào
thế kỷ thứ mười bảy, khi phái Tào Ðộng truyền sang Ðại Việt thì những
khác biệt giữa hai tông phái hình như không còn bao lăm nữa.
TÀO ÐỘNG Ở ÐÀNG NGOÀI
Ở
Ðàng Ngoài, như ta đã biết, thiền phái Tào Ðông do thiền sư Thủy Nguyệt
đi du học Trung Hoa mang về. Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu là Tông Giác,
sinh năm 1936. Ông tên là Ðăng Giáp, quê làng Thanh Triều, ở Hưng Nhân,
tỉnh Thái bình. Ông tu ở một ngôi chùa trên núi Hùng Lĩnh. Cùng với hai
đệ tử, ông đi qua Hồ Châu, tham học với thiền sư Nhất Cú Tri Giáp tại
núi Phụng Hoàng. Ông rời Ðại Việt năm 1664, lúc ông mới hai mươi tám
tuỏi. Ông tu học tại Hồ Châu trong ba năm. Ðến năm 1667, ông và hai
người đệ tử về, cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Ðông Triều,
tỉnh Hải Dương. Ở Hải Dương, ông gặp và làm quen với một cao tăng tên
là Tuệ Nhãn. Tuệ Nhãn tu ở Ðông Sơn, tên tục là Mai Tư Phụng, quê ở làng
Dưỡng Mông ở Kim Thành, Hải Dương. Vì tu ở chùa làng Dưỡng Mông nên ông
được gọi là Tổ Muống. Ở Ðông Sơn, ông dạy rất đông đệ tử. Ông từng được
vua Lê sắc phong là “Ðại Thánh Ðông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư:. Chưa
biết vua nào đã sắc phong, và từ năm nào(86).
Thiền
sư Thủy Nguyệt cũng từng tới hành đạo ở chùa Tư Phúc, núi Côn Sơn, và
chùa Nhẫm Dương ở Hạ Long. Ông mất năm 1704, thọ sáu mươi tám tuổi.
Hồi còn học với thiền sư Tri Giáo ở Hồ Châu, có lần ông được Trí Giáo hỏi:
- Chỗ an thân lập mệnh của ông là chỗ nào?
Thủy Nguyệt đáp:
- Trên sóng nước an nhiên.
Tri Giáo liên hỏi tiếp:
- Ðêm ngày ông giữ gìn nó ra sao?
Thủy Nguyệt đáp:
- Ðúng ngọ trăng sao hiện
Nữa đêm mặt trời hồng
Tri Giáo:
- Chuyện an thân lập mệnh như thế được rồi, còn chuyện mặt mũi xưa nay của ông như thế nào?
Thủy Nguyệt :
-Quơ sào trên bóng cỏ
Tên nhọn sẽ bay ra(87)
Tri
Giáo khen: “Con rắn hai đầu ấy, đừng để nó chạy thoát! Hãy xỏ mũi nó!
Cẩn thận! Người là con cháu xứng đáng của tông Tào Ðộng. Ta cho phép
người pháp hiệu là Thông Giáp”.
Ông có để lại một bài kệ sau đây:
Núi sông dệt gấm vẽ tranh
Từ nơi suối ngọc chảy thành sữa thơm
Trên bờ oanh hót hoa vàng
Dưới sông cá lội từng đàn thẩn thơ
Ông chài ngủ dưới trăng mờ
Nong tằm phơi nắng hè trưa nực nồng.
(Sơn chức cẩm thủy họa đồ
Ngọc tuyền dũng xuất bạch đà tô
Ngạn thượng hoàng hoa oanh lộng ngữ
Ba trung bích thủy điệp quần hồ
Nguyệt bạch đường đường ngư phủ túy
Nhật hồng cảnh cảnh kiển bà phô).
Vị
đệ tử được Thủy Nguyệt truyền pháp tên là Tông Diễn, hiệu là Chân Dung.
Thiền sư Tông Diễn khi tới với Thủy Nguyệt đã là một vị tăng có trải
qua nhiều năm tu học rồi Ông vốn là người Ðông Sơn; nghe Thủy Nguyệt
hành đạo ở gần, ông tới tham vấn, thì gặp lúc Thủy Nguyệt đang nghỉ
ngơi, Thủy Nguyệt nói: “Tôi đang nghỉ ngơi, chẳng biết lúc nào mới có
tin tức”. Tông Diễn trả lời này: “Giờ dần mặt trời mọc, giữa ngọ trời
đứng bóng”. Thủy Nguyệt ngạc nhiên vì câu trả lời giản dị đó. Ông hỏi:
“Vậy thì giữ gìn ra sao?” Tông Diễn đọc bài kệ:
Ðã có gì cũng có
Khi không gì cũng không
Khi có không nhào xuống
Mặt trời mọc đỏ hồng.
(Ứng hãu vạn duyên hữu
Tùy vô nhất thiết vô
Hữu vô câu bất lập
Nhật cảnh bổn đương bô).
Thủy
Nguyệt nghe bài kệ, liền bước xuống vỗ vai Tông Diễn nói: “Dòng Tào
Ðộng chủ trương Ngũ Vị Quân Thần, nhà ngươi đúng là người phải thừa kế
môn phái này”. Nói xong trao cho Tông Diễn bài kệ sau đây:
Không có pháp nào sinh
Không có pháp nào diệt
Sen nở trên lưỡi người
Chuyện tương truyền ta biết
(Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Phật Phật tổ tổ truyền
Uẩn không liên đàu thiệt).
Về
Ðông Sơn, Tông Diễn ra sức hoằng hóa tông Tào Ðộng. Học giả bốn phương
nghe tiếng tìm tới tham học rất đông. Năm 1709, ông mất; ông có để lại
bài kệ sau đây:
Hoa nở xuân mới đến
Lá rụng liền biết thu
Ðầu cành sương đọng ngọc
Trên lá tuyết thành châu
Buổi sáng trời quang vẩy rồng hiện
Xế trưa mây tạnh có voi chầu
Vằn cọp ngoằn ngoèo một thứ
Phượng bầy thể tính như nhau
Pháp của Ðạt Ma có gì lạ?
Lênh đênh mặt biển cánh hoa lau(88)
(Hoa khai xuân phương đáo
Diệp lạc tiện tri thu
Chi đầu sương oánh ngọc
Ngạc thượng tuyết liên châu
Thanh thần vân tán sản long giáp
Bạch nhật hà quan lõa tượng khi
Báo văn tuy kiến nhất
Phụng chúng thể toàn câu
Ðạt Ma Tây lai truyền hà pháp?
Lô hoa thiệt hải thủy phù phù).
Phái
Tào Ðộng do Thủy Nguyệt và Tông Diễn truyền bá ở Ðàng Ngoài, rất được
thịnh hành vào cuối thế kỷ thứ mười bảy và trong thế kỷ thứ mười tám.
Tiếc là chưa khảo cứu thêm được về sự truyền thừa. Hiện nay các chùa như
Hàm Long, Hòa Giai và Trấn Quốc ở Hà Nội đều thuộc tông phái Tào Ðộng.
THẠCH LIÊM VÀ TÀO ÐỘNG Ở ÐÀNG TRONG
Ở
Ðàng Trong Ðại Việt, người đầu tiên truyền bá thiền Tào Ðộng có lẽ là
thiền sư Hưng Liên. Ông lập đạo tràng ở chùa Tam Thai Quảng Nam và được
tôn làm quốc sư. Chương trước đã nói về ông. Tiếc là hiện nay chưa khảo
cứu được về công trình hoằng pháp và sự truyền thừa của ông. Chùa Tam
Thai bị đổ vỡ hủy hoại trong cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ thứ mười
tám, tài liệu thất lạc hết. Chùa này được trung tu năm 1825 đời vua Minh
Mạng.
Thiền
sư Thạch Liêm hiệu Ðại Sán Hán Ông, người Giang Tây, sinh năm 1633,
xuất gia hồi thiếu niên ở chùa Thượng Lam, theo hầu thiền sư Giác
Lãng(89). Năm mười sáu tuổi Giác Lãng Giác qua đời, không biết ông đã
được tiếp tục và Thụ giới với vị nào. Sau ông nhập chúng làm giảng sư
chùa Trường Thọ ở Quảng Ðông do thiền sư Thực Hành trú trì. Sau khi Thực
Hành mất, ông được thừa kế trú trì chùa Trường Thọ. Nhờ tài hội họa và
kiến trúc sẵn có, Thạch Liêm đã biến chùa Trường Thọ thành một nơi danh
thắng ở Quảng Ðông.
Theo
lời đề nghị của quốc sư Hưng Liên, chúa Nguyễn Phúc Trăn đã hai lần mời
ông sang Ðại Việt, nhưng ông chưa đi được. Mãi đến năm 1694, khi chúa
Nguyễn Ðăng Chu cho người sang mời ông mới quyết định ra đi. Cùng đi với
ông có độ một trăm người, trong đó hơn phân nữa là tăng chúng. Ðoàn
người đi trên hai chiếc thuyền buôn mang theo rất nhiều pháp khí kinh
tượng để tổ chức giới đàn. Thuyền của ông tới đảo Tiêm Bút La vào ngày
27 tháng giêng năm Ất hợi (1695). Chúa Nguyễn Phúc Chu cho thuyền đi
đón, rước về định cư ở chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa(90). Khoảng một ngàn
người thợ làm việc trong ba ngày đêm, cất mười gian phương trượng và lưu
xá cho đoàn tăng khách tạm trú.
Trong
những công tác mà Thạch Liêm đã thực hiện được trong thời gian lưu trú
tại Ðàng Trong, có thể nói rằng công tác quan trọng nhất là tổ chức giới
đàn Thiền Lâm. Giới đàn này tổ chức từ mồng một đến ngày mười hai tháng
tư năm Ất hợi (1965). Giới đàn có đến ba ngàn giới tử trong đó số giới
tử xuất gia lên tới 1.400 vị vừa tỳ khưu vừa sa di. Chương trình của
giới đàn như sau:
- Ngày 24 tháng ba các giới tử xuất gia nhập giới đàn.
- Ngày mồng một truyền giới sá di. Thạch Liêm thượng đàn thuyết pháp, có chúa và các quan đến nghe.
-
Ngày mồng sáu truyền giới tỳ khưu. Quốc mẫu và vương huynh thiết lễ trai
tăng cúng dường các vị tăng sĩ mới thụ giới, và ghi chép lời pháp ngữ
của Thạch Liêm.
-Ngày
mồng tám tháng tư, Phật đản, làm lễ trao Bồ Tát giới cho chúa Nguyễn
Phúc Chu, quốc mẫu, công chúa và những người quyến thuộc trong nội cung.
Lễ truyền giới được tổ chức ở chùa Giác Vương Nội Viên trong phủ Chúa.
Thạch Liêm viết cho chúa một cuốn sách ngắn, chỉ bày cách tu tập, gọi là
Hộ Pháp Kim Thang Thư. Buổi chiều, lễ truyền giới Bồ Tát cho các vương
huynh là Lệ Truyền Hầu và Thiều Dương Hầu cùng một số các quan được tổ
chức tại chùa Thiền Lâm.
-
Ngày mồng chín tháng tư, lẽ truyền giới Bồ Tát cho chư tăng được cử hành
tại chùa Thiền Lâm. Các vương huynh công chúa cúng dường trai tăng và
thỉnh Thạch Liêm thuyết pháp, rồi ghi chép pháp ngữ.
-
Ngày mười hai tháng tư, Thạch Liêm và quốc sư Hưng Liên thống suất hai
dãy tân giới tử, tất cả một ngàn năm trăm vị tăng đều mang bình bát,
chống tích trượng làm lễ “cổ Phật khất thực” trong thành phố, và đến phủ
chúa tạ ơn chúa Nguyễn đã thành tựu công đức cho đại giới đàn. Lễ cúng
dường cơm chay được thiết lập tại phủ chúa. Giới đàn bế mạc chiều hôm
ây.
Trong giới đàn này, giới điệp cấp phát cho giới tử đều có đóng kèm ấn của phủ chúa.
Một
giới đàn khác sau đó đã được tổ chức tại chùa Di Ðà ở Hội An ngày mồng
bảy âm lịch năm ấy. Khoảng trên ba trăm người đã xin thụ giới. Giới đàn ở
đây được tổ chức rất đơn giản, nhưng giới điệp cũng được đóng kèm ấn
chúa.
Giới
đàn Thiền Lâm có một tầm quan trọng lớn. đó là một giới đàn tổ chức cho
cả nước; các tỉnh đều có giới tử về thụ giới. Ta nhớ là thiền sư Liễu
Quán cũng đã từ Phú Yên ra để thụ giới sa di ở giới đàn này. Phái Tào
Ðộng trước kia chỉ có ảnh hưởng ở Quảng Nam, nay đã lan ra khắp xứ.
Ðáng
lý thiền sư Thạch Liêm đã về từ tháng bảy âm lịch năm đó, nhưng vì gió
bão cản trở nên ông lưu lại Ðại Việt để dưỡng bệnh. Từ Hội An ông được
chúa Nguyễn Phúc chu cho người vào đón ra chùa Thiên Mụ. Ông ở Thiên Mụ
cho đến ngày 24 tháng sáu năm tới mới xuống thuyền về Quảng Ðông, Thạch
Liên qua Ðại Việt năm 62 tuổi, mất năm 71 tuổi (1704).
CON NGƯỜI CỦA THẠCH LIÊM
Thiền
sư Thạch Liêm là một nghệ sĩ. Ông sở trường về nhiều môn: thi văn, hội
họa, chữ viết, thủ công. Mao Tế Khả đề tựa tạp thơ Ly Lục Ðường của
Thạch Liêm đã viết:
“Trượng
nhân là bậc bác nhã khôi kỳ, càng sở trường về thi ca; cho đến các môn
như tinh tượng, lịch luật, diễn xạ, lý số, triện lệ, đơn thanh, môn nào
cũng siêu việt”.
Chùa
Trường Thọ ít ra cũng có đến một trăm tăng sĩ. Những vị theo Thạch Liêm
qua Ðại Việt đã hơn năm mươi người rồi. Vì giới tiểu thủ công nghệ nên
Thạch Liêm tổ chức kinh tế tự túc trong chùa. Với gỗ lê, gỗ đàn, đồng
thau, đá hoa, chùa đã chế ra nhiều dùng có giá trị nghệ thuật như bàn,
ghế, bình phong, cẩm đôn, hộc tộ, bát, đĩa, v.v... Chùa cũng tổ chức dệt
vải lụa. Thạch Liêm là một họa sư, những bức họa của ông rất được khen
ngợi. Trong tập Họa Gia Thi Sở đời Thanh tác giả là Lý Tuấn Chi viết về
Thạch Liêm như sau: “Ðại Sán tự Hán Ông, người Lĩnh Nam, tu ở chùa Kim
Lăng, có tài vẽ chân dung khéo. Năm Mậu ngọ, đời Khang Hy (1678), ông có
vẽ cho Trần Gia Lăng một bức hình, có đề lời, mặt đẹp râu dài, tinh
thần hoạt bát, thời ấy hầu như khắp danh nhân trong nước đều có đề vịnh.
Có biên soạn Ly Lục Ðường Tập”.
Nhờ
có cơ sở kinh tế tự túc, không những chùa Trường Thọ được Thạch Liêm
kiến thiết mau chóng, mà rất nhiều văn nghệ sĩ nghèo trong nước cũng
được ông giúp đỡ. Sự giao du của ông với văn nghệ sĩ trong xứ rất rộng.
Tập thơ Ly Dục Ðường của Thạch Liêm có phụ đính 34 bức tranh do tác giả
vẽ nên có văn của các danh sĩ như Khuất Ông Sơn, Thanh Lê, Dược Ðình,
Vương Thế Trinh, Từ Phàm, Ngô Ý, Ngô Thọ Tiềm và Cao Tằng Vân đề ở lạc
khoản. Tập thơ lại có thới mười mấy danh sĩ đề tựa. Nói tóm lại là ông
giao thiệp thân mật với hầu hết các văn nhân nổi tiếng của thời đại ông.
Cũng
vì tiếng tăm của ông lững lẫy như thế nên có nhiều kẻ ghen ghét và
chống đối ông kịch liệt, cho ông là “ngạo mạn, dối trá, buôn lậu”,
v.v... Thực ra tính ông cương trực và ưa nói thẳng nên bị nhiều người
ghen ghét. Vì bị dèm pha cho nên năm 1702 ông bị quan án sát Quảng Ðông
là Hứa Tự bắt giam tra hỏi, rồi đuổi về Cống Châu, Giang Tây. Ở Cống
Châu, ông lại mở đạo tràng ở chùa Sơn Tự; tăng đồ quy tụ rất đông và đạo
tràng lại bành trướng lớn lao như cũ. Quan sở tại là quan tuần vũ Giang
Tây lại cho bắt ông áp giải về nguyên quán. Ông chết trên đường đi. Ðó
là vào năm 1704.
Quan
án sát Quảng Ðông Hứa Tự Hưng là người thế nào? Năm 1695, khi còn làm
chức đồng tri ở Mân Châu, ông đã bị cách chức vì tội làm nhục thuộc viên
và hạch sách đòi ăn hối lộ, tiền bạc, ngựa... Qua năm 1699 nhờ tiền bạc
được phục chức, và sau đó được bổ đi án sát Quảng Ðông. Một người như
thế cố nhiên không thể chịu nổi thái độ ngang ngạnh của một ông thầy tu
nghệ sĩ như Thạch Liêm, cố nhiên cũng không mang chịu cúi đầu khuất phục
một vị quan quyền như thế. Tâm sự của ông về việc bị ganh ghét được ông
tỏ bày chút ít trong sách Hải Ngoại Sự Ký(91). Ông viết: “Lại còn một
bọn người ngu dốt làm ma làm quái, bới lông tìm vết, bày đặt chuyện thị
phi. Nhưng chuyện thị phi ấy đâu có rõ ràng; chúng chỉ vì lòng ghen ghét
cho nên tự trong bóng tối khuấy cho sóng động mòi xao, bày chuyện đặt
điều làm cho người ta không chịu nổi để khoái chí mình. Nhưng ta đâu có
nao núng, bởi việc đều vô ảnh vô tông, tất cả đều trôi theo dòng nước.
Những thử thách kia chỉ làm cho ý kiến thêm tinh, hạnh nguyện thêm vững,
càng mài không mòn, càng nhuộm càng không đen. Rốt cuộc bọn họ lại giúp
ta như thầy nghiêm bạn tốt vậy”.
Sách
Hải Ngoại Kỷ Sự cũng phản ánh tính cương trực của Thạch Liêm. Cái gì ở
xứ khách mà ông muốn khen thì ông khen, còn cái gì ông muốn chê là ông
chê. Sự khen chê có khi không chính xác, vì sự thấy nghe của ông về văn
hóa và phong tục Ðại Việt có khi không được rộng rãi và minh xác; cũng
có thể vì ông lấy văn hóa Trung Quốc làm tiêu chuẩn để xét đoán văn hóa
Ðại Việt khiến ta có thể không bằng lòng khi đọc Hải Ngoại Kỷ Sự. Tính
nói thẳng là một tính rất tốt, nhưng sự nhận xét không được thấu đáo là
một khuyết điểm. Dù sao, ông đã phải trả một giá quá dắt về tính nói
thẳng của ông.
Một
điều đáng tiếc trong cuộc du hành Ðại Việt của ông là, ngoài quốc sư
Hưng Liên là đệ tử của ông, ông không được gặp những cao tăng khác lúc
bấy giờ đang hành đạo tại Ðại Việt. Trong số những vị này, có những vị
từ Quảng Ðộng tới như ông. Hải Ngoại Kỷ Sự không hề nhắc đến những vị
như Tử Dung, Tế Viên, Pháp Hóa, Từ Lâm, Minh Hải, v.v... nghĩa là những
vị đang chủ trương các đạo tràng lớn lúc bấy giờ như Ấn Tôn, Quốc Ân,
Chúc Thánh, Từ Lâm, Thiên Thọ... Ông đã không có sự cộng tác của các vị
cao tăng có mặt lúc bấy giờ ở Ðại Việt., ngay trong giới đàn chùa Thiền
Lâm. Sự kiện này có nhiều lý do. Lý do đầu tiên là ông thuộc phí Tào
Ðộng. Lý do thứ hai: ông là khách đặc biệt của quốc vương. Lý do thứ ba
là bài bố cáo mà ông viết cho dán ở các chùa trong xứ nhiều tháng trước
ngày khai mạc giới đàn Thiền Lâm đã tự đánh giá sự hành đạo tại Ðại Việt
quá thấp.
Ðã
đành vì chiến tranh giữa Ðàng Trong và Ðàng Ngoài đã khiến cho nhiều
trai tráng cạo đầu đi tu để trốn lính, và do đó số tăng sĩ thất học trở
thành đông đảo, nhưng sự giáo hóa trong gần nữa thế kỷ của một số các vị
cao tăng (như Nguyên Thiều chẳng hạn) có mặt đã tạo được một số trung
tâm tu học chân chính đáng kể. Ðiều này không hề được nói đến trong bài
bố cáo của Thạch Liêm. Bài bố cáo để ra nhiều trang công kích những vị
tăng không chân chính. Ví dụ ông viết: “Có kẻ giày cỏ chưa mang qua một
đôi, cửa chùa chưa bước qua hai bậc, một ngày kia khi làm ông thầy, sợ
người ta biết rõ chân tướng, mới làm bộ lim dim con mắt, sửa giọng thanh
cao, làm trò giải thoát. Những hạng người đó lạm dự vào hàng sa môn
chẳng biết hổ thẹn, mượn danh hiệu Phật làm chuyện bán buôn, điều to lớn
cho đạo là chỗ ấy”. Rồi ông kết luận: “Trong buổi Phật pháp suy vong,
há nên lấy ngoa truyền ngoa khiến tăng sĩ khắp nước chẳng biết đạo xuất
thế là gì, ù ù cạc cạc trong cơn tùy mộng. Lão tăng chẳng nỡ làm thinh
ngồi đó, nên chẳng tránh khẩu nghiệp, nói thẳng vài lời”.
Ðúng
là thiền sư đã không tránh khẩu nghiệp, đã nói thẳng, nhưng giá ông
được Hưng Liên cho biết rõ hơn về tình hình Phật Giáo Ðại Việt thời đó
thì khẩu nghiệp ông đã nhẹ hơn và đã ít bị cô lập hơn.
Tuy
nhiên, trong bức thư giử cho hữu thừa tướng Tống Công (có lẽ là Tống
Phúc Tài) Thạch Liêm công nhận rằng “vì tới Ðại Việt chưa bao nhiêu
ngày, nên chưa thấu rõ hết những chỗ ẩn vi của tình trạng”, và ông can
chính quyền đừng bắt bớ những tăng đồ thất học. Số là trong khi nói
chuyện với Thạch Liêm, vị thừa tướng này tỏ ý lo cho sự kiện có nhiều
phần tử bất hảo trong giới tăng già, và nói rằng “phải cuốc hết cỏ dại,
lúa tốt mới có thể mọc lên”, nghĩa là phải trừng trị những tăng đồ thiếu
học. Thạch Liêm nói: “Những phần tử tăng già do từ trước đến nay chưa
được giáo hóa Phật pháp, không biết rõ thế nào là bổn phận người xuất
gia, nay nếu ta bỗng nhiên lấy pháp luật mà trừng phạt họ một cách nặng
nề thì đo gọi là “không dạy mà giết”, một chính sách “bạo ngược”, không
phải là chính sách của kẻ nhân từ vì lòng trắc ẩn mà muốn giáo hóa họ”.
Ông lại đề nghị nên để tăng sĩ giáo hóa tăng sĩ, chính quyền không nên
dự vào: “Từ ngày cắt tóc đi tu, người xuất gia từ bỏ gia đình, niệm
Phật, tụng kinh, nghĩ rằng mình đã là người đứng ngoài cuộc, thoát khỏi
lưới đời, bao nhiêu quyền che chở từ bi đều nằm cả trong tay vị sư
trưởng... Chính quyền địa phương thường nên chọn những bậc tôn sư minh
chính để chủ trì pháp tịch, thập phương vân thủy đều lấy đó làm nơi
nương dựa tinh thần. Người trên nghiêm tu giới luật, lượng sức mà giáo
hóa, khiến cho mọi người biết được bổn phận mình mà gắng sức tu trì, dần
dần chuyển phàm thành thánh. Căn khí chính đại tự nhiên nắm thẳng lấy
con đường hướng thượng mà tinh thần tu hành. Nhưng ở chốn thiền lâm,
thánh phàm ở chung, thế nào cũng có kẻ ngu ngoan cuồng vọng làm trái
giới pháp. Ðối với những người này thì phải thiết lập thanh quy: tội nhẹ
thì sám hối quỳ hương, tội nặng thì trục xuất cởi áo...” Thạch Liêm lại
nói rằng không nên trông đời tất cả mọi phần tử tăng già đều trở thành
những đại thiền sư. “Vả lại quốc gia thiết lập chùa chiền, chẳng phải
chỉ để tạo nên một số tăng sĩ biết “giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ
nhân tâm thành Phật”, mà cũng là để có những vị tăng sớm hôm đôt hương
cầu nguyện cho các bậc cho các bậc thánh minh để ngồi giữ nước, cho
trong triều có nhiều bậc hiền lương chính trực biết lấy trung hiếu tiết
nghĩa mà giáo hóa, khiến thiên hạ vui lòng làm việc thiện, bốn phương
hòa bình, nhà tù bỏ trống... “Lá thứ này Thạch Liêm viết gần một năm sau
ngày nói chuyện với Tống Phúc Tài. Có lẽ bức thư này đã ảnh hưởng nhiều
đến chính sách tôn giáo của cháu Nguyễn Phúc Chu. Thay vì thanh lọc
tăng già bằng những cuộc bắt bớ hay thi cử, triều đình chú trọng đến
việc nâng cao uy tín các bậc chân tu địa phương bằng cách ban biển ngạch
sắc tứ và câu đối cho những chùa nơi họ hành đạo(92)
TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA THẠCH LIÊM
Tư tưởng thiền học của Thạch Liêm có thể diễn tả bằng ba công thức thiền tịnh song tu; Nho Phật nhất trí và Lâm Tào tổng hợp.
Thiền
Tịnh Song Tu: Thiền tông và Tịnh Ðộ được phối hợp làm một, và Tịnh Ðộ
trở thành một phương pháp hành thiền giản dị mà đại chúng có thể tu tập
được. Phật A Di Ðà trở thành tự tính của mọi người, thấy được Phật A Di
Ðà tức là thấy được tự tính của chính mình. Hồi Thạch Liêm dự định về
nước, mẹ của chúa Nguyễn Phúc Chu là Tống Thị(93) don cơm chay cúng
dường, tỏ ý buồn rầu vì sự thầy trò xa cách. Khuyên bà niệm Phật: ‘Sự
hội họp chia lìa của con người không phải ở nơi hình hài. Nếu quốc mẫu
thường xuyên làm việc lành và nhất tâm niệm Phật không chút gián đoạn
thì đó là thầy trò được gần gũi mãi mãi. Còn nếu tâm niệm thường theo
đuổi việc trần thì dù lão tăng có ở đây hàng ngày đối diện cũng xa cách
ngàn dặm, rốt cuộc cũng có ích gì”. Quốc mẫu nghe mấy câu trên lấy làm
mừng rỡ, cầu xin ông chép lại ý ấy bằng giấy mực mà ngày đêm tuân hành.
Sau bữa trai tăng, ông về chùa Thiền Lâm viết một bài kệ ngắn cho bà,
tựa đề là: “Nói về Phật A Di Ðà của tự tính” (Tự Tính Di Ðà Thuyết). Bài
này có lẽ đã được quốc mẫu giữ gìn thận trọng lắm. Nhưng sau khi bà
chết không biết thất lạc về đâu. May nhờ có sách Hải Ngoại Kỷ Sự mà ta
còn đọc được trọn bài. Giáo lý Tịnh Ðộ ở đây được diễn tả bằng ngôn ngữ
Thiền học: “Vì tôi muốn trở về chùa cũng nên quốc mẫu xin một vài lời
lưu lại để trọn đời thọ trì, nguyện đời đời kiếp kiếp thường được thân
cận. Cho nên tôi viết những lời sau đây: “Trong các con đường tắt để tu
hành, không con đường nào bằng niệm Phật. Niệm Phật cốt ở chỗ dứt bỏ
được duyên lự, chỉ nhớ tới sáu chữ, tâm không tán loạn, niệm phải tinh
thành, sáng niệm, chiều niệm, niệm cho đến đến chỗ bất niệm, niệm cho
đến chỗ vô niệm, niệm niệm không ngừng, niệm cho thành một khối đạo hợp
thể đồng, cùng cao với trời, cùng dày với đất, cùng sáng với nhật nguyệt
tinh tú; với sông núi, cây cỏ, nhân, vật, quỷ thần, cùng chung kiếp vận
họa phúc, sang hèn, nam nữ, xa gần, qua lại, đó ăn mệt ngủ, hỷ nộ ái
lạc... Khi đã cùng vạn vật nhất thể thì nguồn suối Di Ðà không còn là
của riêng của ai nữa mà sẽ được tự tâm ý bất loạn của tự mình chảy ra.
Ai nói Di Ðà ở Tây Phương, lão tăng ở Quảng Ðông và quốc mẫu ở Ðại Việt?
Khi nhất niệm đã bất sinh thì chân thể toàn nhiên hiển hiện vậy. Nếu
tán loạn một chút thì xa cách Di Ðà mười vạn tám ngàn dặm, cách xa lão
tăng bốn mươi lăm ngày đường. Ðiều đó nếu xảy ra là do quốc mẫu ở bên
kia đại dương trên bờ Khước Nguyệt, để cho mây lục căn lay động che mờ
bản tâm vậy. Căn cứ vào đây mà bàn chuyện hợp tan thì thấy rằng cái thấy
cái nghe của ta chỉ là giả hợp vậy. Ví như trước mặt ta đây có vườn
rừng, trúc biếc hoa vàng, đó là vì con mắt chạm sắc trần mà có nhận thức
vậy. Như gió lay nước chảy dưới hồ sen kia. Ta cho là có gió lay nước
chảy, đó là vì lỗ tai chạm thanh trần mà có những thức vậy. Bốn thức
khác là tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy. Ðiều cốt yếu
là thấy sắc không nhiễm, nghe thanh không đắm, hai tướng động và tĩnh
dứtt bặt không sinh(94). Khắp cõi hư không đều là Tịnh độ duy tâm, tận
cùng pháp giới đều là Di Ðà tự tính. Di Ðà đã là tự tính chung thì lão
tăng có bao giờ xa {quốc mẫu} đâu? Cho nên biết rằng: khi nhất niệm đã
bao trùm thì trong vô lượng kiếp, không có sự tới, đi, cũng không có sự ở
lại. Lúc ấy {quốc mẫu} chỉ cần nhớ đến lão tăng thì mười phương hư
không tự nhiên đều đáp ứng, đâu cần phải đợi có lão tăng {ngồi trước
mắt} để nói dông dài. Thế giới nhiều như vi trần. Lúc đó không còn cách
nhau mảy may nào nữa. Chỉ sợ ta thiếu đức tin thôi. Vì quốc mẫu đã có
đức tin này và như kinh Hoa Nghiêm nói “đức tin là nguồn của đạo, là mẹ
của các công đức, nuôi dưỡng tất cả các pháp lành” cho nên lão tăng tặng
cho quốc mẫu pháp danh Hưng Tín và viết cho quốc mẫu một bài kệ để
chứng thực cho niềm tin ấy.
Trên có mây bay, dưới có đất
Trong nước Ðại Việt có quốc mẫu
Một tiếng gọi một tiếng ứng
Tây thiên Ðông độ còn tổ nào
Chẳng thấy Tần quốc phu nhân Bàng Ðạo Bà
Vỗ tay không dùng đến tay múa?
Chẳng thấy trên lầu Hoàng Hạc tên nghìn Phật.
Thôi Hạo đề thơ, Trương Chuyết bổ?
Nếu chẳng như vậy, tam muội người, ta biết đâu?
Hai chức Trịnh Từ cũng khôn rõ.
Di Ðà với ta chẳng đồng thời.
Vậy mà ngồi nằm không xa nhau
Nếu bảo xa nhau mất nhau mãu
Cây cung vua Sở ai tìm lại?
Câu hỏi nằm nơi câu trả lời
Câu trả lời nằm nơi câu hỏi
Tam thân cùng chung, khách chủ hai
Ði Nam về Bắc cũng là đây
Nếu biết ngày nay là ngày nào
Thì rõ năm sau là năm trước”.
Nho Phật nhất trí: Ngay trước giời đàn thiết lập tại chùa Thiền Lâm năm 1695, Thạch Liêm viết hai câu đối sau đây:
“Thích thị trì luật, nho giả lý trung, tổng yéu tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại;
“Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn”
dịch:
“Phật gia trì giới, nho giả lý trung, cốt ở thành ý tu thân, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có chính trực;
“Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đều về minh tâm kiến tính, cũng vì răn nơi chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe”.
Thạch
Liêm là người học rộng nghe nhiều, ông có kiến thức vững vàng về Nho
học. Ý tưởng Nho Phật nhất trí của ông được thấy rõ ràng trong phần đầu
của lá thư “Hộ Pháp Kim thang” mà ông viết tặng chúa Nguyễn Phúc Chu
ngày chúa thu giới Bồ Tát:
“Con
đường thế gian và xuất thế gian không có hai nẻo. Bên Nho giáo, Ðường
Ngu thì nói trung, Khổng Tử thì nói nhất, sách Trung dung thì nói thành.
Danh từ bất đồng mà cội nguồn là một. Nhất là gì? Là tâm mà thôi vậy.
Ðược cái nhất ấy mà tâm được chính, rồi lấy đó mà tu thân thì thân được
tu, lấy đó mà tề gia thì gia được tề, lấy đó mà trị quốc thì quốc được
trị. Không những thế mà bất cứ trong công việc nào, từ việc dùng người
cho đến việc hành chính, quân sự, hình luật, lễ nhạc... từ việc nhỏ đến
việc lớn, không có việc gì mà không hiểu biết một cách minh bạch và
không được xử sự một cách thỏa đáng. Trời nhờ nhất mà trong, đất nhờ
nhất mà yên, vua nhờ nhất mà thiên hạ thái bình, đó là con đường kia
vậy.
Ðức
Thế Tôn Ðại Hùng của chúng ta vì một đại sự mà con người chưa có thể
giải quyết được cho nên mới thiết lập giáo pháp đặc biệt của Ngài: đó là
phương pháp bỏ hết căn trần, không lập văn tự, chỉ thẳng lòng người,
thấy tính thành Phật, lấy tâm in tâm. Cho nên ở Tây Thiên và Ðông Ðộ có
chia ra làm năm tông phái, các thế hệ đã kế tiếp nhau mà ấn chứng, không
ngoài mục đích giải quyết đại sự đó.
Biết
rằng tính quy nguyên chỉ là một, nhưng cửa phương tiện có nhiều cách:
Ðạo của Nho gia kiến lập pháp hữu vi, duy trì mà không cần biện luận;
đạo của Phật gia gảng bày lý vô thường, bàn luận mà không cần thành lập.
Bởi vậy cho nên trong bốn mươi chín năm hành đạo, Ðức Thế Tôn chưa nói
một chữ nào”.
Trong
bản điều trần Thạch Liêm đưa lên chúa Nguyễn ông đề nghị bốn điều. Ðiều
thứ tư là mở trường để đào tạo nhân tài. Ông đề nghị “dựng nhà quốc
học, tôn thờ Khổng Thánh, tàng trữ sách Nho và mời các nhà lýhọc danh
nho ra làm thầy để giảng minh đạo Thánh(95)
Lâm
Tào tổng hợp: những đặc tính của thiền phái Tào Ðộng như nguyên tắc Ngũ
Vị Quân Thần, Chỉ Quán Ðả Tọa, v.v... không thấy nhắc đến trong thiền
ngữ và thi văn của Thạch Liêm lại hay nêu ra thoại đầu và công án rất
thịnh hành trong phái Lâm Tế. Ví dụ trong “Hộ Pháp Kim Thang Thư” viết
cho chúa Nguyễn Phúc Chu, ông đề nghị chúa tham khảo thoại đầu Ai là chủ
nhân của ta (như hà thị ngã chủ nhân công) như sau:
“Lão
tăng không có phương pháp gì xảo diệu, chỉ mời quốc vương tham khảo
thoại đầu Ai làm chủ nhân của ta? Tham khảo mà đừng mộng tưởng, đừng lấy
ý thức mà trắc độ, đừng đem nghĩa lý mà thuyên giải. Cứ đưa thoại đầu
không mùi vị không công phu ấy lên đặt trong tâm mình, ngày ba lần, đêm
ba lần, miệng lẩm nhẩm, quyết tìm cho ra ý chỉ. Bất luận khi chủ tọa
triều chính hay lúc đốt trầm lạy Phật, cho đến những lúc uống trà, ăn
cơm, khi mừng, khi giận, khi cùng quân thần tiếp kiến, lúc hầu hạ mẫu
thân, khi gặp mặt vợ con, lúc đi đứng ngồi nằm, khi gặp cảnh ưa ghét,
lúc ngồi nhà một mình... không khoẳnh khắc nào được buông lơi thoại
đầu.... Chớ nói rằng thoại đầu không có ý vị. Chính trong thoại đầu
không có ý vị ấy mà có thể tìm ra ý vị tuyệt hảo. Chớ cho thoại đầu ấy
là không có công phu: chính nơi chỗ không có công phu kia mà có công phu
tuyệt hảo. Tham khảo đi, tham khảo lại, lâu ngày chầy tháng, một buổi
kia bỗng rơi ầm xuống đất một tiếng, sờ lại thấy lỗ mũi do cha mẹ sinh
ra, mới biết từ xưa đến nay nó vẫn trên mặt mình”.
Ngoài Ly Lục Ðường Tập và Hải Ngoại Kỷ Sự, Thạch Liêm còn sáng tác Kim Cương Trực Sớ.
Tư
tưởng thièn học của Thạch Liêm không có gì đặc biệt và sâu sắc lắm. So
với các thiền sư như Hương Hải, Chân Nguyên, ta thấy kinh nghiệm tu
chứng của Thạch Liêm không được vững chãi bằng. Thạch Liêm, trên hết là
một nghệ sĩ .
Ông
là một nhà thơ và cũng là một nhà họa lớn. Chúa Nguyễn một lần muốn mời
ông xem vũ nhạc dân tộc nhưng còn ngần ngại, không biết là có hợp pháp
không, bèn hỏi ông, ông nói: “Âm nhạc cũng là mọt trong những cúng
dường”. Rồi ông vui vẽ tham dự. Ta không ngạc nhiên gì trước thái độ phá
chấp đó của một ông thầy tu nghệ sĩ. Suốt trong thời gian lưu lại Ðại
Việt ông làm rất nhiều thơ. Hải Ngoại Kỷ Sự ghi lại trên một trăm bài.
Ðể chấm dứt về ông, có lẽ ta nên đọc một bài thơ của ông. Sau dây là một
bài ông viết hồi còn ở chùa Di Ðà Hội An, vì mưa bão, chưa trở về Quảng
Ðông được, nhìn mây nhìn biển nhớ chùa:
Xuân mới vừa qua đã đến thu
Gió Tây vi vút biển vương sầu
Non muốn dứt tình mây chẳng dứt
Nước non lưu luyến cát không lưu
Nằm bệnh đâu cần hoa trước mặt
Nhớ ai há thiết nguyệt trên đầu
Dưới sương tiếng hót nào lên vút
Cành xa chim đậu giữa trời sâu
(Ký đắc xuân lai hựu tảo thu
Tây phong xuy động hải triều sầu
Thanh sơn dục đoạn vân vô đoạn
Bích thủy thường lưu sa bất lưu
Bệnh khách hà kham hoa chiếu nhãn
Hoài nhân huống phục nguyệt đương đầu
Hoài phân lộ hạ chiêm thanh khởi
Viễn thọ liên thiên độc độc điểu đầu)
HƯNG LONG NGUYỄN PHÚC CHU
Chúa
Nguyễn Phúc Chu pháp danh Hưng Long, sinh năm 1675. Lúc còn trẻ, ông là
người chăm học, viết chữ rất tốt, có khiếu về văn chương lẫn võ bị. Ông
lên ngôi chúa năm mười bảy tuổi, Pháp danh Hưng Long là do thiền sư
Thạch Liêm đặt cho năm 1695 hồi ông hai mươi mốt tuổi. Ông thọ Bồ Tát
giới cũng vào năm ấy. Thạch Liêm còn đặt cho ông đạo hiệu Thiên Túng Ðạo
Nhân.
Ông
rất mộ đạo Phật. Mới lên ngôi một năm ông đã cho sửa chùa Mỹ Am ở núi
Mỹ Am (nay là núi Thúy Vân). Năm 1965, sau khi thiền sư Nguyên Thiều
tịch, ông mời thiền sư Thạch Liêm từ Quảng Ðông qua để dạy đạo cho quan
và dân và cũng để ông quy y thụ giáo. Tín tâm của ông nơi Phật pháp rất
sâu. Ông rất khâm phục đạo đức và kiến thức của Thạch Liêm và vì vậy
Thạch Liêm đã ảnh hưởng tới ông rất nhiều về quan niệm tu hành. Một bữa
nọ thấy Thạch Liêm trì chú mà trời đang mưa nhiều ngày bổng tạnh, ông
liền nài nỉ học cho được những bài chú. Thạch Liêm nói rằng quan trọng
không phải là ở bài chú đó mà là ở người trì chú; người trì chú có thanh
tịnh và đức độ thì trì chú mới linh nghiệm. Rồi thay vì truyền cho ông
bài chú, Thạch Liêm Thạch Liêm đưa cho ông một bản điều trần mười tám
điểm về việc trị nước theo tinh thần Phật Giáo, ý nói rằng làm đúng được
nhiều điều kia thì phong điều vũ thuận, cũng linh nghiệm bằng sự trì
chú. Một lần khác ông thỉnh Thạch Liêm và chư tăng chùa Thiền Lâm khai
đàn tụng thần chú Ðại Bi, và muốn tự mình trai giơi thanh tịnh để được
tham dự. “Trai giới” ở đây có nghĩa là không ăn thịt và không gần gũi nữ
nhân.. Hỏi ý Thạch Liêm nên làm như thế nào thì thiền sư nói rằng sự
trai giới của một ông vua không thể giống như người thường dân. Thiền sư
nói: “Trai giới không phải chỉ để cho sạch miệng sạch mình và sạch tư
tưởng mà thôi đâi. Trai giới là làm cho quốc gia từ trên tới dưới được
thanh lý chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một
việc nào chẳng giải quyết thỏa đáng: Làm cho được như thế mới là sự trai
giới viên mãn của một ông vua”. Rồi Thạch Liêm đề nghị ông trai giới
bằng cách: trả tự do cho những người bị giam cầm oan ức, phóng thích bớt
những tù nhân trong ngục thất, chẩn cấp cho kẻ nghèo đói, tháo gỡ cho
những người bị đè nén ép uổng, bãi bỏ bớt những luật lệ quá nghiêm khắc,
dễ dãi cho người buôn thúng bán bưng và cho thợ thuyền. Có lẽ đây là
công trình giáo hóa to lớn nhất của vị trú trì chùa Trường Thọ, bởi vì
chúa Nguyễn Phúc Chu đã nghe lời ông. Có một lần Thạch Liêm nghe nói đến
một lối hình phạt được sử dụng tại Ðàng Trong gọi là tượng hình: bắt tù
trọng phạm giao cho voi quật. Voi nhồi phạm nhân lên cao mấy trượng,
rồi lấy ngà xốc đỡ, ngà voi thủng gan ruột, phạm nhân chết liền. Ông bèn
khuyên chúa Nguyễn bỏ hình phạt ấy. Chúa Nguyễn nghe lời.
Nguyễn
Phúc Chu cũng nghe lời Thạch Liêm viết biểu cầu phong và nhờ một vị
giám sinh là Hoàng Thần và một vị tăng là Hưng Triệt đem dâng vua Khang
Hy. Hai người này đều là người Quảng Ðông, Hưng Triệt là đệ tử của Thạch
Liêm(96). Việc này xẩy ra năm 1702, Vua Khang Hy từ khước
Theo
lời khuyên của Thạch Liêm, chúa Nguyễn Phúc Chu để ý nâng đỡ cao tăng ở
các tỉnh và ban biển ngạch sắc tứ cùng câu đối cho rất nhiều chùa.
Những biển ngạch này thường được ký “Thiên Túng Ðạo Nhân”.
Năm 1710, ông cho đúc chuông chùa Linh Mụ. Chuông nặng 3.285 cân. Trên chuông có khắc những dòng sau đây:
“Quốc
chúa Ðại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Ðộng Chánh Tông đời thứ ba
mươi, pháp danh Hưng Long, đúc hồng chung này nặng 3.285 cân, an trí ở
chùa Thiên Mụ Thiền Tựu để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo. Cầu nguyện gió
hòa mưa thuận quốc thái dân an, chúng sinh trong páp giới đều hoàn thành
đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày Phật đản tháng tư Canh
Dần”
Năm
1714, ông trùng tu chùa Thiên Mụ. Chưởng cơ Tống Ðức Ðại được ủy thác
việc trung tu lớn lao này. Công việc xong xuôi, chúa mở đại hội, ở lại
chùa một tháng ăn chay, phát chẩn tiền và gạo cho người nghèo. Phiên
Vương Chiêm Thành là Kế Bà Tử cùng hoàng gia và triều thần cũng có qua
dự hội. Một bộ Ðại Tạng Kinh được thỉnh về từ Trung Hoa và cất giữ ở
Tàng Kinh Lâu. Một bia đá được dựng lên. Bia đề năm Ất mùi (1715), có
nói về sự tích Thạch Liêm và có khắc bài minh sau đây của Nguyễn Phúc
Chu:
Ðất Việt phương Nam chừ, có nước có non
Bảo sát tráng lệ chừ, mặt trời chiếu rạng
Tự tĩnh thanh tịnh chừ, suối tuôn một ngọn
Quốc gai an ổn chừ. Nho Thích cùng ban
Ghi cảnh đẹp này chừ, nhân quả tuần hoàn
Dựng bia lưu dấu chừ, chính giữ tà an.
(Việt chi Nam hề trú thủy trú sơn
Bát sát chi tráng hề nhật chiếu thiền quan
Tính chi thanh tịnh hề khê hướng sằn sằn
Quốc chi điện an hề tứ canh u nhàn
Vô vi chi hóa hề Nho Thích đồng ban
Ký tư thắng khái hề nhân quả bồi hoàn
Kiến tiêu lập đích hề thành tồn tà nhàn)
Ông mất năm 1725, thọ năm mươi mốt tuổi, ngồi ngôi chúa được 34 năm.
THIỀN DƯƠNG HẦU
Ông
là anh thứ ba của chú Nguyễn Phúc Chu, chưa biết tên và pháp danh là
gì. Theo Thạch Liêm thì ông là một người “Cao hành độc hướng”, không uốn
mình theo lưu tục, vì tính nết khảng khái hay nói thẳng cho nên ông đã
nhiều phen phong ba. Nhờ chúa Nguyễn hiểu biết tha thứ nên mới khỏi tội
bất kính. Tuy vậy ông vẫn không bỏ tiết tháo của mình. Nhà cửa nghèo
nàn, chỉ có mấy gian lều cỏ dựa mé bờ sông. Cả ngày chỉ trồng cây tỉa
cành, quét lá nấu trà, không có vẻ vương hầu quý phái gì cả. Tuy vậy ông
đối với người rất chân thật, giao tiếp rất khiêm hòa mà trong bụng biết
rõ người trong kẻ đục. Ông thụ bồ tát giới tịa giới đàn Thiền Lâm chiều
mồng tám tháng Tư năm 1695. Từ đó thường lui tới hỏi đạo Thạch Liêm.
Thạch Liêm rất mến ông, có cho ông một đoản văn và một bài kệ là nói
người tu đạo phải dũng mãnh tinh tấn tìm về phía trước, đừng nghĩ tới
chuyện đi lui về những con đường quen thuộc, cũng như Hàn Tín đánh
Triệu, xây lưng vè bờ sông mà giàn trận, chỉ một thắng một chết chứ
không có nẻo thối lui. Bài kệ như sau:
Nhật Nam tháng Năm mùa nóng nực
Ao nhà đạo hữu nở sen xanh
Thân tuy ngọc diệp dòng thanh quý
Tâm đã thiền môn nếp sống lành
Tám mặt uy phong dàn tướng ý
Một khe nước biết đãi nhân tình
Nhàn không hát khúc Thương Lang ấy
Trân trọng muôn đời cách điệu thanh.
(Ngũ nguyệt Nhật Nam chân hỏa lý
Thanh liên hướng những xuất Chu Minh
Phổ liên ngọc diệp triều trung quý
Tâm hướng vân lâm giáo ngoại thanh
Bát diện uy phong danh tướng ý
Nhất khê bích thủy đạo nhân tình
Ðẳng nhàn bất xướng Thương Lang khúc
Trân trọng yên ba biệt điệu thanh).
--------------------------------------------------------------------------------
(86) Theo tài liệu của Ðắc Nhất, chùa Thường Tín Hà Nội, viết trong Ðuốc Tuệ số 20 ra ngày 20.3.1938
(87)
Cây sào và dây cỏ là dụng cụ ngư phủ dùng để mang cá về một nơi, tức là
sự sống thường nhật. Hai câu của Thủy Nguyệt có ý nói là từ trong sự
sống hàng ngày mà sự giác ngộ hiển hiện
(88) Tục truyền Ðạt Ma cưỡi trên một bông lau trắng, vượt biển mà về Ấn Ðộ
(89)
Thiền sư Giác Lãng Ðạo Thịnh hiệu Trượng Nhân, người Kiến Ninh, họ
Trương, xuất gia hồi mười chín tuổi với thiền sư Thụy Nham ở núi Mộng
Bút. Sau đến tham học với thiền sư Nguyên Lai ở chùa Năng Nhân, núi Bắc
Sơn. Sau nữa lại tham khảo với Ðông Uyển Cảnh và đắc pháp với vị này.
(90)
Ðại Nam Nhất Thống Chí chép: “Chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu, tương truyền
do Hòa thượng Thạch Liêm kiến tạo, cảch trí rất u tịch. Ngụy Tây Sơn
thái sư Bùi Ðắc Tuyên chiếm ở. Sau Ðắc Tuyên thất bại. Người trong làng
nhân theo nền cũ sửa chữa lại. Bản triều khoảng đời Gia Long, Thừa Thiên
cao hoàng hậu bỏ tiền ra kiến trúc lại. Nay dần dần hư nát, chỉ còn
ngôi chính điện. Phía tả chùa có một quả chuông đồng lớn cao hơn bốn
thước vòng lưng sáu thước, dày bảy tấc, có khắc chữ “Lê Vỉnh Thịnh thập
nhị niên chú”.
(91)
Sách này do Thạch Liêm viết trong thời gian lưu trú tại Ðại Việt. Sách
chia làm sáu cuốn, ghi chép cuộc hành trình của tác giả và những bài văn
thơ tác giả đã làm trong thời gian ấy. Sách lại có bốn bài tựa; một
trong bốn bài được ký tên Ðại Việt Quóc Vương Nguyễn Phúc Chu, đệ tử thọ
Bồ Tát Giới, pháp danh Hưng Long, viết ở phương trượng Tịnh danh trong
Giác Vương Nội Viện. Bài tựa này viết vào tháng Sáu năm Giáp Tý (1696),
trước ngày hồi hương của Thạch Liêm. (có lẽ tác giả tính nhầm. Năm 1696
phải là năm Bính tý-N.H.C.). Sách được khắc bản vào khoảng năm 1699. Bản
của chúng tôi sử dụng là bản được tàng trữ trong Ðông Dương Văn Khố tại
Ðông Kinh, Nhật Bản. Một bản dịch quốc ngữ của Viện Ðại Học Huế được
thực hiện năm 1963, chỉ tiếc các dịch giả không am tường mấy về danh từ
Phật học nên có nhiều chỗ làm oan cho tư tưởng Thạch Liêm.
(92)
Ở các tỉnh ta thấy những ngôi chùa mang biển ngạch sắc tứ ký tên Thiên
Túng Ðạo Nhân (đạo hiệu của Chúa Nguyễn Phúc Chu) hoặc Từ Tế Ðạo Nhân
(đạo hiệu của chúa Nguyễn Phúc Khoát).
(93)
Con gái quan thiếu phó Tống Phúc Vĩnh. Bà mất năm 1696 trước khi về
nước mấy tháng, thọ bốn mươi bốn tuổi, được truy tôn là Quốc Thái Phu
Nhân.
(94)
“Ðộng tĩnh nhị tướng liễu nhiên bất sinh”” chữ trong kinh Lăng Nghiêm
được Bồ Tát Quán Thế Âm dùng để diễn tả quá trình quan sát âm thanh để
chứng ngộ của ông.
(95)
Bản điều trần này sau đó được ông soạn thảo lại thành một bản khác gồm
có 18 điều. Số là chúa Nguyễn Phúc Chu một hôm muốn học phép trì chú cầu
mưa và tạnh; thay vì dạy những bài chú này, Thạch Liêm “Ðem những việc
chính trị bàn luận mấy ngày hôm trước, chép lại từng điều làm thành một
bản “Lập Quốc Chính Ước” gồm có 18 điểm, đều là những việc thương lính,
yêu dân, lợi nước, kỷ cương, pháp độ, chép từng điểm rõ ràng.” Chúa đọc
xong rất mừng, đem 18 điều này khắc bản yết lên cửa phủ để hiểu dụ văn
võ quan dân.
(96)
Hồi Thạch Liêm về nước, ông có để lại hai người đệ tử: Khánh Ngu và
Thiên Vũ. Hưng Triệt chắc là pháp danh của một trong hai người này.
Khánh Ngu làm hậu đường chùa Trường Thọ, còn Thiên Vũ làm tri khách