Nếu
đi dọc sông Hương, qua khỏi chùa Thiên Mụ, các bạn sẽ đi qua một quãng
sông Hương êm đềm của làng Kim Long, hai bên bờ là những hàng ngô non
xanh mơn mởn trên dải đất phù sa ven sông. Kim Long là nơi các chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làm đất đóng đô từ năm 1636, tuy nhiên vùng
đất này “trời hành cái lụt mỗi năm”, do đó đến đời chúa Nghĩa Nguyễn
Phúc Thái lại dời Phủ chúa về làng Phú Xuân. Cũng chính vì vậy mà làng
Kim Long hiện nay vẫn còn rất nhiều nhà vườn và các Phủ đệ ven sông của
các ông Hoàng trong gia tộc Nhà Nguyễn (hiện nay có khu nhà vườn Phú
Mộng _ Kim Long là nơi thu hút khách du lịch rất nhiều). Con gái Kim
Long ngày xưa nổi tiếng là khéo và đẹp, đến nỗi nhà vua cũng phải đích
thân vi hành:
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi”.
Quãng
sông Kim Long này cũng từng diễn ra các cuộc thao diễn lực lượng thủy
binh hùng hậu của nhà Nguyễn, mà lễ hội Festival Huế 2010 đã tái hiện
lại một cách hoành tráng.
Trước khi vào trung tâm thành phố Huế, dòng
sông Hương trở nên chậm rãi, tại đây phù sa bồi lắng đã tạo thành một
cồn đất hình thoi nổi lên giữa sông Hương, nằm ở phía Tây nam kinh
thành, gọi là Cồn Dã Viên và được xem như Bạch Hổ chầu bên phải kinh
thành.
Nơi
định đô gắn với việc thịnh suy của một triều đại, do đó việc chọn địa
điểm xây dựng kinh thành rất được coi trọng. Từ khi Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ đất Thuận Hóa, đã có tám lần các chúa Nguyễn di dời thủ phủ rồi
cuối cùng trở về lại Phú Xuân. Ngày Quý Mùi tháng 4 năm Ất Sửu, năm Gia
Long thứ 4 (tức 30.4.1805), Kinh thành Huế được khởi công xây dựng.
Tuân thủ theo những nguyên tắc Dịch lý và Phong thủy, nhà Nguyễn đã chọn
xây kinh thành vê hướng Đông Nam (thuộc phương Nam) vì Kinh dịch viết:
“Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương xây mặt
về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ; lấy núi Ngự Bình làm bình phong
che chắn cho kinh thành; lấy sông Hương làm yếu tố minh đường, dòng
sông nằm dài giữa hai cồn đất cong như một cánh cung mang lại sinh khí
cho Kinh thành; hai bên có Cồn Hến và Cồn Dã Viên tạo thế Tả Thanh Long,
Hữu Bạch Hổ chầu về trọng địa kinh thành. Đó là thế rồng chầu hổ phục
bảo vệ cho vương triều.
Một tấm bia làm bằng đá Thanh cao 70 cm, rộng 40 cm, dày 11 cm,
khắc 3 chữ đại tự "Dữ Dã Viên" và lạc khoản cho biết bia được
dựng vào tháng 5 năm Tự Đức thứ 21, tức là tháng 7-1868
Khi
mới bắt đầu xây dựng kinh thành thì cồn đất này chưa có tên, cái tên
chính thức của cái cồn ấy thì phải đến thời Tự Đức mới được đặt. Vua Tự
Đức đã nhận ra vẻ đẹp lý tưởng của nó trên dòng sông thơ mộng và đã cho
biến cái cồn này thành một vườn ngự. Chính nhà vua đã đặt tên là Dữ Dã
Viên (vườn Dữ Dã), lấy ý nghĩa của địa danh Dữ Dã được gợi hứng từ một
câu chuyện trong lịch sử được ghi chép ở sách Luận ngữ. Tuy nhiên lâu
ngày, để cho tiện, dân gian bớt đi một chữ còn: Dã Viên, nên tên cồn mới
trở thành cồn Dã Viên.
Cồn Dã Viên được nhắc đến nhiều trong các
văn tự thời Nguyễn, đó là nơi các chúa Nguyễn đã từng tổ chức các trận
đấu giữa voi (tượng trưng cho vua) và hổ (tượng trưng cho cái ác). Một
chứng nhân phương Tây có mặt tại Thủ phủ Phú Xuân bấy giờ là Pierre
Poivre thuật lại rằng vào năm 1750, vị chúa Nguyễn ấy và các quan trong
triều đã đi trên 12 chiếc thuyền, đến đậu gần bờ bắc của cồn để xem cho
đến khi 40 con voi quật chết 18 con cọp mới thôi. Tuy nhiên có lần một
con hổ quá mạnh đã tát con voi gục xuống và nhảy ra phía khán giả, làm
vua quan một phen khiếp sợ. Vua Minh Mạng sau đó đã xây trường đấu Hổ
Quyền. Lầu ngự của vua nghe nói tồn tại đến năm 1900, còn từ 1925 thì bỏ
mặc cho mưa nắng.
Cây đa hơn 200 năm tuổi và gò đất cao - nơi
vua ngồi để xem hổ giao chiến với voi tại cồn Dã Viên.
Cồn
Dã Viên còn gắn với một công trình khác: cầu Bạch Hổ. Đó chính là cây
cầu mà nếu bạn đến Huế bằng đường sắt thì trước khi vào ga Huế bán sẽ đi
qua đó. Cầu được xây dựng vào năm 1908, cùng lúc với tuyến đường sắt
Huế - Quảng Trị. Cầu gồm hai phần: phần phía Bắc cồn, dài 302,10m, rộng
4,05m và cao 4,35m ( bắc ngang từ bờ bắc sông Hương đến cồn Dã Viên) và
phần phía Nam, dài 102,70m, rộng 4,10m và cao 4,40m (bắc ngang từ Cồn
Dã Viên qua bờ Nam sông Hương). Ngày xưa kia cầu vẫn làm bằng sắt nhưng
mặt cầu lát gỗ. Mấy thanh gỗ mục nát hết nên người qua cầu lúc nào cũng
có cảm giác như chân mình sắp lọt tõm xuống cầu qua cái lỗ hổng rộng
ngoác. Chiếc cầu hồi ấy được ngăn ba phần, ở giữa dành cho xe lửa còn
hai bên dành chỉ cho khách bộ hành và xe đạp. Sau một thời gian, hư hỏng
xuống cấp, cầu được trùng tu, sửa chữa, lúc này phần dành cho khách bộ
hành hai bên cầu được xích lại gần nhau hơn nằm một bên của cầu và có
một rào chắn ở giữa phân tách hai luồng giao thông.
Từ
xưa đến nay, người Huế vẫn thường quen gọi cây cầu đường sắt bắc qua
sông Hương này là cầu Bạch Hổ (hay Bạch Thổ), biển tên cầu cũng ghi rõ
là cầu Bạch Hổ. Thế nhưng ít ai biết rằng, cây cầu cầu mang tên Bạch Hổ
từ xưa lại không phải là cây cầu này, cũng không phải bắc qua sông Hương
(thời các chúa Nguyễn chưa đủ sức làm cầu qua sông Hương), mà đó là cây
cầu bắc qua sông Kẻ Vạn – con sông đào nối Sông Hương với sông An Hòa,
tạo nên nhánh phía tây của tuyến thủy lộ gọi là Hộ Thành Hà. Cầu vốn
được dựng bằng gỗ khoảng năm Mậu Thìn 1808, đời vua Gia Long. Tương
truyền, khi cầu Bạch Hổ (lúc đó chưa được đặt tên) đang được xây cất, có
một con hổ trắng đến ngồi ở giữa cầu khiến mọi người đều hoảng hốt bỏ
chạy. Cũng chính vì thế mà cây cầu này được gọi là cầu Bạch Hổ. Tới đời
vua Minh Mạng, vào năm 1839 cầu được đổi tên là cầu Lợi Tế. Hiện nay tấm
bia Lợi Tế kiều bằng đá thanh, cao 98cm kể cả phần đế, hiện còn nguyên
trạng nơi đầu cầu, có khắc dòng lạc khoản: Minh Mạng nhị thập niên Kỷ
Hợi ngũ nguyệt cát nhật tạo. (Nghĩa là tạo dựng vào một ngày tốt tháng 5
năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mạng XX, tức tháng 6-1839).
Năm 1990, cầu
Bạch Hổ bị sập vì quá tải, nên được xây mới bằng bê tông cốt thép. Rộng
6,8m, dài 24,7m, cầu hiện nằm ngay đầu đường Kim Long – trục lộ men tả
ngạn Sông Hương, xuyên qua phường Kim Long, dẫn tới chùa Thiên Mụ, nên
đang được gắn biển đề cầu Kim Long.
Cầu Bạch Hổ - Cầu Lợi tế xưa và cũng là cầu Kim Long hiện nay
Bản
thân tôi vẫn còn nhớ rất rõ thời điểm này bởi nó gắn liền với một kỷ
niệm dại dột thời trẻ mà sau này mỗi lần nghĩ lại bỗng thấy rùng mình.
Năm 1990, hai chúng tôi rủ nhau lên làng Hương Hồ chơi, nơi mà năm trước
tôi đã đến thực tập tốt nghiệp. Lúc đi qua Kim Long, mặt sông Hương vẫn
đang còn bình lặng. Mưa rất to, nhưng vì sự đón tiếp nồng hậu chúng tôi
đã nán lại khá lâu. Ba tiếng đồng hồ sau, khi trở về quáng sông Hương
qua Kim Long đã tràn ngập tất cả, con đường nhựa đã nằm sấu dưới1 mét
nước. Hai chúng tôi gắng gượng lội theo dòng nước qua khỏi khu vực ngập
lụt, tưởng chừng như thoát thì con sông Kẻ Vạn chắn ngang trước mặt,
cây cầu Bạch hổ đã sập, cây cầu tạm giờ cũng đã chìm dưới mặt nước.
Phương tiện liên lạc hồi ấy không có mà không thể không về nhà, vậy là
phải chạy quanh năn nỉ mãi mới có một chiếc thuyền chịu chấp nhận đưa
chúng tôi qua dòng nướcđang chảy siết. Con thuyền nương theo dòng nước,
dưới trời mưa tầm tả, không có một phương tiện cứu hộ nào, phải chịu
trôi một khoảng mấy trăm mét, chúng tôi mới sang được bờ bên kia. Sau
này mỗi lần nghĩ lại, nếu một cơn gió mạnh đánh lật thuyền chắc có lẽ
tôi không còn ở đây mà gõ những dòng chữ này nữa.
Hiện nay, một cây
cầu mới song song, đang được xây dựng sát cạnh với cầu Dã Viên (Bạch
Hổ). Cầu dài 542,5m; bề rộng cầu (4 làn xe) 24,5m, có tổng mức đầu tư là
673,042 tỷ đồng, thời hoàn thành trong 3 năm. Cầu có các vọng lâu dọc
thân cầu để ngắm cảnh sông Hương, phù hợp với không gian kiến trúc của
Cố đô Huế và hệ thống đèn chiếu sáng nghệ thuật cho cầu.
Mô hình cầu đang xây dựng qua sông Hương song song cầu đường sắt Bạch Hổ, trên cầu có những vọng lâu để ngắm cảnh
Nếu
bạn đến Huế bằng đường sắt, từ phía Bắc vào thế nào bạn cũng qua Cồn Dã
Viên trước khi vào thành phố, bởi lẽ đường sắt có một quãng chạy qua
giữa Cồn Dã Viên (nằm giữa hai cây cầu). Cahức hẳn bạn sẽ cảm thấy thú
vị khi nhìm ngắm quang cảnh xung quanh và cố mường tượng so sánh với
những gì tôi đã kể cho các bạn trong bài viết này nhé