Khóa
Thứ Mười Hai
KINH
KIM CANG
Dịch
nghĩa và lược giải
Bài
Thứ 7
PHẦN
CHÁNH TÔN (tt)
38.
Người thọ trì kinh này công đức vô lượng
39.
Công đức kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn
40.
Phật khuyên người thọ trì đọc tung kinh này sẽ được
đạo quả Bồ Đề
41.
chỗ phụng thờ kinh này, cũng được nhơn thiên và thánh thần
cúng dường
42.
Người thọ trì kinh này mà bị người kkhinh khi là do tội
chướng đời trước của họ rất nặng nề.
43.
Người thọ trì kinh này, công đức nhiều hơn Phật Thích
Ca cúng dường vô số chư Phật
44.
Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ bàn, nên phước báo của
người thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ bàn.
45.
Đây là lần thứ hai, ông Tu Bồ Đề hỏi lại Phật hai câu
quan trọng
46.
Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp với Phật Nhiên
Đăng".
47.
Phật nói: "Tất cả các pháp đều là Phật pháp.
38.
NGƯỜI
THỌ TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy rõ ràng
và biết chắc chắn: đời sau nếu có người phát tâm thọ
trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu công đức
vô lượng vô biên".
LƯỢC
GIẢI
Đầy
là lần thứ 6, Phật khuyến khích về công đức thọ trì
kinh này.
Kinh
này nghĩa lý cao siêu khác thường, quá tầm hiểu biết của
người, sợ người không hiểu và không tin thì sẽ mất lợi
ích lớn, nên Phật dạy: "Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy
biết rõ ràng và chắc chắn: sau này nếu có người thọ trì
đọc tung kinh này, sẽ được công đức vô lượng".
Người
hiểu biết được nghĩa lý và thọ trì kinh này, người ấy
sẽ ngộ được kinh Kim Cang Bát Nhã, tức là đã trồng hạt
giống Bồ Đề, tất nhiên sẽ đặng quả Bồ Đề nên Phật
nói: "được công đức vô lượng".
***
39.
CÔNG
ĐỨC KINH NÀY VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu có người nào, một ngày ba lần:
Sớm mai, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố
thí; Trưa, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để
bố thí; Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông
Hằng để bố thí. Bố thì như vậy cho đến vô lượngtrăm
ngàn muôn ức kiếp, phước đức của người này vô lượng
vô biên.
Nếu
có người nghe kinh này, tin hiểu không nghi ngờ, thì người
này phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin mà thôi
còn được phước đức như vậy, huống chi là thọ trì đọc
tụng, hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại,
công đức của kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ
bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ 7, Phật tán thán công đức của kinh này không
thể nghĩ bàn. Người đem một thân mình bố thí đã khó,
huống chi là nhiều thân. Nhưng, giả sử có người đem nhiều
thân mình ra bố thí, mỗi ngày ba lần, sớm mai, trưa và chiều
đều bố thí vô lượng vô số thân mình, cho đến nhiều
ngày, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều kiếp đều bố thí
như vậy, thì phước đức người này biết là bao nhiêu.
Nhưng,
nếu có người nghe kinh này, chỉ sanh lòng tin, không nghi ngờ,
thì phước đức còn nhiều hơn người trước, huống chi thọ
trì đọc tụng hoặc giảng dạy cho người khác.
Tại
sao vậy?_ Vì người tin được kinh này là người đã ươm
trồng hạt giống Kim Cang Bát Nhã; thọ trì đọc tụng là
huân tưởng hạt giống Bát Nhã; giảng dạy cho người là
làm cho người huân sanh hạt giống Bát Nhã. Hạt giống Bát
Nhã đã sanh trưởng thì thế nào cũng được thành Phật.
Bởi thế nên nguời tin thọ hoặc giảng dạy kinh này, phước
đức nhiều hơn người bố thí thân mạng.
Tóm
tắt đoạn này, Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:
Nguyên
văn (dịch âm):
Sơ
tâm hâu phát thí tân đồng
Công
đức vô biên toán mạc cùng
Tranh
tợ tín tâm tâm bất lập
Nhứt
quyền đã phá thái hư không,
Dịch
nghĩa:
Sớm
trưa bố thí phát tâm đồng
Công
đức vô biên tính chẳng cùng
Đâu
bằng tính tâm không trụ chấp
Một
tay đánh phá cõi hư không.
ĐẠI
Ý BÀI TỤNG
Đây
là lần thứ 8, Phật tán thán công đức người thọ trì kinh
này sẽ đặng quả Bồ Đề của Phật .
Phật
vì những hàng Đại thừa Bồ Tát và những người phát tâm
Tối thượng thừa cầu quả Phật, mà nói kinh này. Bởi thế
nên những người chịu nghe và tin theo kinh này, hoặc thọ
trì đọc tụng hay giảng dạy cho người nghe, tất nhiên người
ấy đã có căn tánh (hạt giống) Đại thừa hay Tối thượng
thừa, nên đặng công đức vô lượng vô biên và sẽ thành
Phật.
Trái
lại, những người căn tánh Tiểu thừa, bị gò bó trong cái
khung bốn tướng, tư tưởng không hợp với giáo lý Đại
thừa, nên không bao giờ họ lãnh hội được kinh Đại thừa
và tu hành theo Đại thừa hoặc giảng dạy cho người.
***
41.
CHỖ
PHỤNG THỜ KINH NÀY CŨNG ĐƯỢC NHƠN THIÊN VÀ THÁNH THẦN CÚNG
DƯỜNG
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Chỗ nào phụng thờ kinh này, thì chổ
ấy như có chùa tháp của Phật; tất cả trời người, thánh
thần đều cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc di
nhiễu".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ 9, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã
Ba La Mật.
Trong
đoạn thứ 13, Phật dạy:"Tất cả Phật và Pháp đ62u từ
kinh này sanh ra". Vì kinh này rất quý báu như vậy, nên trong
đoạn 20 và đoạn này (41) đều nói, chỗ thờ kinh này, cũng
được trời, người, thần thánh xem như chùa Phật hay tháp
Phật, đều đến cung king lễ bái cúng dường, hoặc đi kinh
hành (đi xung quanh chỗ thờ kinh).
***
42.
NGƯỜI
THỌ TRÌ KINH NÀY MÀ BỊ NGƯỜI KHINH KHI LÀ DO TỘI CHƯỚNG
ĐỜI TRƯỚC CỦA HỌ RẤT NẶNG NỀ.
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu người tho trì đọc tụng kinh này,
mà bị người khing khi, thì người này do tội chướng đời
trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đoạ
vào ác đạo; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, nhưng tội
chướng đời trước bị tiêu diệt và họ sẽ mau đặng quả
Bồ Đề".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ 10, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.
Kinh
này công đức vô biên và rất quý báu như thế, nên người
thọ trì kinh này lẽ ra phải được sự cung kính tôn trọng.
Nhưng trái lại, bị người khing khi, thì biết người này
do tội chướng đời trước nặng nề còn thừa lại, đáng
lẽ phải bị đoạ vào ác đạo. Nhờ công đức thọ trì
kinh này, nên họ bị quả báo rất nhẹ, là chỉ bị người
khinh khi. Từ đây các tội chướng đời trước tiêu diệt
và họ sẽ đặng thành quả Phật.
Tóm
tắt đoạn này, Ngài Trương Vô Tận có làm bài tụng:
Nguyên
văn (dịch âm):
Tứ
tự diêm hương khứ phục hoàn
Thánh
phàm chỉ tại sát na gian
Tiền
nhơn tội nghiệp kim nhơn tiện
Đáo
khước tiền nhơn tội nghiệp sơn.
Dịch
nghĩa:
Bốn
mùa lạnh nóng mãi trôi qua
Phàm
thánh không ngoài một sát na
Tội
nghiệp tiền thân nay phải chịu
Chịu
rồi mới hết nghiệp oan gia.
ĐẠI
Ý BÀI TỤNG
Bốn
mùa nóng lạnh, ngày thánh trôi qua là sự tuần hoàn của vũ
trụ. Chứng thánh hay đoạ phàm, chỉ ở trong sát na mê hay
ngộ. Kiếp trước làm tội ác nên kiếp này phải trả, bị
người khinh khi. Trả xong nghiệp chướng oan gia mới được
tự tại giải thoát.
***
43.
NGƯỜI
THỌ TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC NHIỀU HƠN PHẬT THÍCH CA CÚNG DƯỜNG
VÔ SỐ CHƯ PHẬT
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô
số kiếp, trước thời Phật Nhiên Đăng, ta cúng dường và
phụng thờ tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng
về sau này, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì
công đức của người này so với công đức của ta cúng dường
phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công đức của ta
không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn,
một phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay
thí dụ cũng không thể tính toán hay thí dụ được công đức
của người thọ trì kinh này".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ 11, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.
Cúng
Phật thuộc về tu phước, dù nhiều bao nhiêu, cũng thuộc
về phước hữu vi.
Người
thọ trì kinh này, sẽ tỏ ngộ được lý Bát Nhã và sẽ mau
đặng đạo quả Bồ Đề. Sau khi thành đạo, họ sẽ trở
lại hoá độ vô số chúng sanh đều được giải thoát, thì
công đức làm sao thí dụ được hay tính toán cho hết. Bởi
thế nên Phật nói:"Công đức của người thọ trì kinh này
nhiều hơn công đức của Phật cúng dường vô số chư Phật
về quá khứ".
***
44.
KINH
NÀY NGHĨA LÝ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NÊN PHƯỚC BÁO CỦA NGƯỜI
THỌ TRÌ KINH NÀY CŨNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
Phật
dạy:" Nếu ta nói hết công đức của người thọ trì đọc
tụng kinh này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn, hoặc
nghi ngờ không tin.
Tóm
lại, kinh này nghĩa lý vô biên, không thể suy nghĩ và luận
bàn, nên phước báu của người thọ trì kinh này cũng không
thể suy nghĩ và luận bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ 12, Phật tóm lại, tán thán nghĩa lý của kinh
này vô biên, nên công đức của người thọ trì kinh này,
cũng không thể nghĩ bàn.
Từ
trước đến đây đã 12 lần, Phật so sánh, khuyến khích và
tán dương công đức của người thọ trì kinh này. Nếu nói
hết lời, Phật e người nghe rối trí, hoặc nghi ngờ không
tin. Nếu người hiểu được nghĩa lý cao thâm của kinh này,
không thể nghĩ bàn, thì họ sẽ tin công đức phước báu
của người thọ trì kinh này, cũng không thể nghĩ bàn.
***
45.
ĐÂY
LÀ LẦN THỨ HAI, ÔNG TU BỔ ĐỀ HỎI LẠI PHẬT HAI CÂU QUAN
TRỌNG
Khi
ấy, ông Tu Bồ Đề bạch Phật:"Bạch Thế Tôn ! nếu có người
phát tâm Bồ Đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và làm
sao an trụ chơn tâm?"
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì
phải dụng tâm như vầy: Ta hoá độ tất cả chúng sanh, nhưng
không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao
vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được
độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, nhơn, tướng chúng sanh và
tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát.
Tu
Bồ Đề ! Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ
Đề".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 1), ông Tu Bồ Đề
hỏi Phật "Làm sao hàng phục vọng tâm? Và làm sao an trụ
chơn tâm?".
Đại
ý Phật dạy:" Nguời phát tâm Bồ Đề ra làm các Phật sụ,
lợi ích tất cả chúng sanh, không nên chấp ngã, pháp hay bốn
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu không chấp
ngã pháp hay bốn tướng thì sóng phiền não vọng niệm không
sanh. Nếu sóng phiền não vọng niệm không sanh thì biển chơn
tâm tự yên tịnh. Đó là phương pháp "hàng phục vọng tâm"
mà cũng là "an trụ chơn tâm".
Nếu
Bồ Tát làm Phật sự, hoá độ chúng sanh, mà còn thấy có
mình hoá độ (ngã) và người được độ (nhơn) thì Bồ Tát
chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, vì còn chấp bốn tướng:ngã,
nhơn v.v...nên không phải là Bồ Tát.
Nói
đến "Tâm Bồ Đề", sợ có người trụ chấp tâm Bồ Đề,
nên Phật liền phá chấp:" Thật không có một pháp gì gọi
là phát tâm Bồ Đề".
Ngộ
được lý vô trụ của kinh Kim Cang Bát Nhã, Ngài Trường Sa
có làm bài kệ như sau:
Nguyên
văn (dịch âm):
Bách
xích can đầu bất động nhơn
Tuy
nhiên đắc nhập vị vi chơn
Bách
xích can đầu tu tấn bộ
Thập
phương thế giới hiện toàn thân.
Dịch
nghĩa:
Đầu
sào trăm thước đứng vững trân
Tuy
ngộ nhưng chưa đúng lý chơn
Đầu
sào trăm thước thêm một bước
Mười
phương thế giới hiện toàn thân.
ĐẠI
Ý BÀI KỆ
Hai
câu đầu là nói, người tu hành dầu cao siêu đến đâu, nhưng
nếu còn chấp một tí nào, thì cũng chưa phải là thật tu,
thật chứng, cũng như người đứng trên đầu sào trăm thước,
tuy cao, nhưng chưa thoát ly được đầu sào.
Hai
câu sau là nói, hành giả phải rời tất cả vọng chấp ngã,
pháp mới nhập được pháp giới tánh (chơn tâm hay Bát Nhã);
lúc bấy giờ thân mình hiện khắp cả mười phương pháp
giới; cũng như chim đã bỏ đầu sào trăm thước, thung dung
tự tại bay đi trong cõi thái hư.
***
46.
PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP VỚI PHẬT NHIÊN ĐĂNG"
Phật
hỏi: " Tu Bồ Đề ! Về quá khứ, Như Lai có đắc pháp Bồ
Đề với Phật Nhiên Đăng không ?"
Tu
Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn !Như Lai không có đắc pháp
Bồ Đề với phậ Nhiên Đăng:.
Phật
dạy: "Đúng như vậy, Như Lai không có đắc pháp gì cả. Nếu
Như Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho
ta rằng: về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích ca Mâu
Ni".
Phật
dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Có người nói: "Như Lai đặmng quả
Bồ Đề ". Thật ra, Như Lai là bản thể như như của các
pháp, nên Như Lai không đặng pháp gì cả.
Tu
Bồ Đề ! Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không
phải thật".
LƯỢC
GIẢI
Đây
là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 15) phật dùng Trí
huệ Kim Cang Bát Nhã, phá cái chất "Phật có đắc pháp". Đúng
theo thinh thần kinh Kim Cang Bát Nhã, thì phải phá trừ hết
các mây vô minh vọng chấp nhơn, ngã v.v...lúc bấy giờ mặt
trời Bát Nhã chơn không (chơn như hay Phật tánh) mới hiện.
Bởi
thế nên Phật tuy đắc pháp Bồ Đề, nhưng không thấy mình
có đắc (vô ngã) và pháp Bồ Đề (vô pháp) đã đắc, nên
mới được Phật nhiên Đăng thọ ký.
Nếu
Như Lai còn thấy mình có đắc pháp Bồ Đề, tức nhiên Như
Lai còn chấp ngã (mình đặng) và chấp pháp (pháp Bồ Đề),
chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì đâu được Cổ Phật
Nhiên Đăng chứng nhận cho: "Về sau ông sẽ thành Phật hiệu
là Thích Ca Mâu Ni".
Chúng
sanh chấp "Như Lai đặng quả Bồ Đề", vì chúng sanh chưa
hiểu hai chữ "Như Lai". Phật giải thích:"Như Lai là bản thể
như như của các pháp"; đã là như như, nên không có đặng
pháp gì cả.
Phật
dạy tiếp:" Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không
phải thật". Nếu đạo Bồ Đề mà còn có hư hay là thật,
thì không phải Bồ Đề. Đến chỗ này thì dùng lời nói
luận bàn không trúng, đem ý thức suy nghĩ phân biệt cũng
chẳng nhằm. Đây là lần thứ ba, Phật phá cái chấp "Như
Lai đặng đạo Bồ Đề" (lần thứ nhứt và thứ hai ở về
đoạn 15 và 36).
Ngộ
được lý "Phật tuy đã thành Phật, nhưng không thấy mình
được thành Phật", nên ngài Phật Quốc Thiền sư có làm
bài kệ như sau:
Nguyên
văn (dịch âm):
Tâm
tâm tức Phật, Phật tâm tâm
Phật
Phật tâm tâm, tức Phật tâm
Tâm
Phật ngộ lai vô nhứt vật
Tướng
quân chỉ khát vọng mai lâm.
Dịch
nghĩa:
Tâm
tâm tức phật, phật tức tâm
Phật
phật tức tâm, tâm tức Phật
Tâm,
Phật ngộ rồi không chi cả
Nói
me đỡ khát vạn quân binh.
ĐẠI
Ý BÀI KỆ
Người
mê, chấp tâm và Phật riêng khác. Kẻ hiểu lại nói: Phật
tức tâm, tâm tức Phật. Người tỏ ngộ rồi không còn thấy
có Phật và tâm. Vì cảm hoá chúng sanh nên mới đặt ra có
danh từ tâm và Phật để kêu gọi. Cũng như vì muốn cho vạn
quân đỡ khát nước, nên vị Chỉ huy mới phương tiện nói
"gần đến rừng me".
GIẢI
DANH TỪ
Thọ
ký: Truyền trao và ký nhận.
***
47.
PHẬT
NÓI:" TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐỀU LÀ PHẬT PHÁP"
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! Như Lai nói:" Tất cả các pháp đều là
Phật pháp". Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các pháp thật ra không
phải các pháp, chỉ giả gọi "các pháp"; cũng như thân Phật
cao lớn, Như Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả
gọi "thân Phật cao lớn".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật phá cái chấp "các pháp và thân Phật". Kinh chép:"
Pháp thân Phật biến khắp tất cả; cảnh giới của Phật
ở gọi là Thường tịch quang?. Bởi thế nên nói "tất cả
các pháp đều là Phật pháp".
Chúng
ta bị mây vô minh che khuất trăng Bát Nhã, nên chỉ thấy các
pháp ngã, nhơn v..v.. chư Phật và Bồ Tát đã giác ngộ , phá
tan mây vô minh, trăng Bát Nhã được sáng tỏ, nên chỉ thấy
toàn là Phật pháp.
Vừa
nói đến "các pháp", sợ chúng sanh chấp "các pháp? mà không
ngộ được tánh Bát Nhã chơn không, nên Phật liền phá:"
Như Lai nói "các pháp" thật ra không phải "các pháp", chỉ
giả gọi là "các pháp". Cũng như thân Phật, thật ra không
phải thân Phật, chỉ giả gọi thân Phật".