Khóa
Thứ Mười Hai
KINH
KIM CANG
Dịch
nghĩa và lược giải
Bài
Thứ 2
PHẦN
CHÁNH TÔN
1.
Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng
2.
Phật khen Ông Tu Bồ Đề và hứa sẽ khai thị
3.
Phật dạy Bồ Tát hoá độ chúng sanh không nên chấp tướng
4.
Phật dạy Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng
5.
Bố thí không chấp tướng, phước nhiều như mười phương
hư không
6.
Phật dạy an trụ chơn tâm.
1.
ÔNG
TU BỔ ĐỀ HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
Khi
đó, ở trong đại chúng, ông Trưởng lão Tu Bồ Đề đứng
dậy, vén tay áo bên hữu, gối quỳ xuống, chắp tay cung kính
và bạch Phật rằng:
"Hy
hữu thay Đức Thế Tôn ! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ
các vị bt. Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ Tát .
Bạch
Thế Tôn ! Nếu có người phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả
Phật, thì:
Làm
sao hàng phục vọng tâm ?
Và
làm sao an trụ chơn tâm ?
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này, ông Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi Phật hai câu quan trọng,
để mở đầu, phật nói kinh Bát Nhã.
"Hàng
phục vọng tâm" và "an trụ chơn tâm" là vấn đề khó nhất.
Nhưng nếu người phát tâm Bồ Đề, mà không "hàng phục được
vọng tâm" và "an trụ chơn tâm" thì không bao giờ chứng đặng
quả Phật.
Vậy
"làm sao hàng phục vọng tâm?"
Và
"làm sao an trụ chơn tâm?"
Đó
là điều quan trọng, mà ông Trưởng lão Tu Bồ Đề, đã đại
diện cho toàn thể đại chúng, đứng lên cung kính hỏi Phật.
Lãnh
hội được diệu nghĩa của kinh này nên Ngài Xuyên Thiền
sư có làm bài tụng rằng:
Nguyên
văn (dịch âm):
Nễ
hỷ ngã bất hỷ
Quân
bi ngã bất bi
Nhạn
tư phi hàn bắc
Yến
ức cựu sào qui
Thu
nguyệt xuân hoa vô hạn ý
Cá
trung chỉ hứa tự gia tri
Dịch
nghĩa
Người
vui ta chẳng vui
Người
buồn ta chẳng buồn
Nhạn
bay về biển Bắc
Yến
nhớ ổ trời Nam
Xuân
hoa thu nguyệt vô cùng ý
Lãnh
hội thế nào tự mình thôi (biết)
ĐẠI
Ý
Bài
này diễn tả lý Bát Nhã vô trụ
Hai
câu đầu nói về "vô trụ vô chấp". Ba câu sau tả canhvật
thiên nhiên, như nhạn bay về biển Bắc; chim yến nhớ tổ
bay về phương Nam, mùa xuân đến trăm hoa đua nở, mùa thu
thì mặt trăng sáng tỏ.
Bức
tranh tuyệt diệu của vũ trụ bao la, vô cùng ý tứ, biểu
lộ "Bát Nhã chơn như". Tự người ngộ lấy.
***
2.
PHẬT
KHEN ÔNG TU BỔ ĐỀ VÀ HỨA SẼ KHAI THỊ
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Lời ông vừa hỏi thật là quí lắm !
vậy ông hãy chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy".
Phật
dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu có người phát tâm Bồ Đề,
muốn cầu quả Phật, thì như lời ta dạy đây mà "hàng phục
vọng tâm" và "an trụ chơn tâm".
LƯỢC
GIẢI
Nhờ
ông Tu Bồ Đề thưa thỉnh, mà Phật nói kinh Bát Nhã, để
chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ: Tực mình có tánh "Bát Nhã"
và phải tự trở về với tánh "Bát Nhã" của mình; nên phật
khen câu hỏi của ông Tu Bồ Đề thật là quí lắm !
Nhưng
ngộ nhập được lý "Bát Nhã", không phải người vọng tâm
loạn ý mà nhập được; phải người dọn mình sạch sẽ,
thành tâm định ý, mới lãnh hội được, nên Phật dạy:
"Phải chăm chú nghe". Và Phật hứa sẽ dạy phương pháp "hàng
phục vọng tâm và an trụ chơn tâm" như sau.
GIẢI
DANH TỪ
Tâm
Bồ Đề: Bồ Đề là dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là
"Giác" tức là giác ngộ. Tâm Bồ Đề là tâm giác ngộ, sáng
suốt; nói dễ hiểu ho7n là "tâm Phật" (Phật cũng dịch là
Giác)
Người
phát tâm Phật để cầu quả Phật, tâm Bồ Đề là "Nhơn
Phật" quả Bồ Đề là "quả Phật".
Tu
Bồ Đề: Tên của một vị đệ tử phật. Trung hoa dịch có
3 nghĩa: 1. Thiện hiện (khéo thị hiện), 2. Thiện kiết (điềm
lành), 3. Không sanh (ông ưa nhập "không định" và ngộ lý
"chơn không" thứ nhứt).
Ông
Tu Bồ Đề, bên trong thì ẩn hạnh bt, bên ngoài lại hiện
tướng Thinh văn; địa vị cao, phước đức lớn, nên gọi
là "Trưởng lão".
Thế
tôn: "Phật là một đấng mà tất cả chúng sanh trong thế
gian và xuất thế gian đều tôn kính.
***
3.
PHẬT DẠY bt ĐỘ SANH KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! các ông phải y như lời ta dạy đây, mà
hàng phục vọng tâm của mình.
Tu
Bồ Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải độ tất cả các loại
chúng sanh (như loài sanh trứng, loài sanh con, loài sanh chỗ
ẩm thấp, loài hoá sanh, loài có sắc, loài có tưởng, loài
chẳng phải không tưởng v.v...)đều được nhập Niết bàn.
Bồ Tát tuy độ vô lượng vô số chúng sanh như vậy, nhưng
không thấy có một chúng sanh nào được độ. Tại sao vậy?
Nếu Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng sanh được độ,
tức là Bồ Tát còn chấp bốn tướng (tướng ngã, tướng
nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả) thì không phải
là Bồ Tát".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dạy Bồ Tát độ sanh, phải dùng Trí huệ Bát Nhã,
phá các vọng chấp ngã, nhơn v.v...đó là phương pháp "hàng
phục vọng tâm".
Bồ
Tát muốn biết mình còn phiền não vọng chấp hay không, để
diệt trừ, tất nhiên phải lao mình vào phiền não; nghĩa là
phải nhập thế độ sanh, làm các Phật sự.
Phật
dạy Bồ Tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự, luôn
luôn phải dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ các chấp ngã, chấp
pháp, không còn thấy bốn tướng (ngã nhơn v.v....)thì phiền
não vọng chấp không sanh. Đó là phương pháp "hàng phục vọng
tâm".
Nếu
Bồ Tát vừa khởi vọng chấp: "có mình độ và người được
độ v.v...", tức là Bồ Tát còn ngã, nhơn, bỉ, thử, thì
vô số phiền não đua nhau nổi lên như sóng. Cổ nhơn nói:
"Nhứt
ba tài động, vạn ba tuỳ".
Nghĩa
là: Một lượng sóng vừa nhô lên, thì trăm ngàn lượng sóng
liền theo đó mà nổi lên.
Nếu
Bồ Tát còn vô minh phiền não vọng chấp nổi lên, thì không
phải là Bồ Tát; vì chưa nhập được Trí huệ Bát Nhã.
Kinh
Tứ thập nhị chương chép:
"Giáo
pháp của ta: "Niệm" mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật
là "Niệm". "Làm" mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là
"làm". "Nói" mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là "nói".
"Tu" mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là "tu". "Chứng"
mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là "chứng".
Đó
là tôn chỉ "vô trụ tướng" của kinh Bát Nhã.
GIẢI
DANH TỪ
Tất
cả chúng sanh chia làm 9 loại:
1.
Loài sanh trứng (noãn sanh): như gà, vịt, chim, cò v.v...
2.
Loài sanh con (thai sanh): như người, trâu, bò v.v...
3.
Loài sanh nơi ẩm thấp (thấp sanh): như vi trùng, con oăn v.v...
4.
Loài hoá sanh (hoá sanh): như cỏ mục hoá sanh đơm đớm v.v...
5.
Loài có hình sắc(hữu sắc):như chúng sanh ở cõi Dục và
cõi Sắc.
6.
Loài không hình sắc (vô sắc): như chúng sanh ở cõi Vô sắc
v.v...
7.
Loài có tâm tưởng (hữu tưởng): như chúng sanh ở cõi trời
hữu tưởng v.v...
8.
Loài không tâm tưởng (vô tưởng): như chúng sanh ở cõi vô
tưởng. Chúng sanh ở cõi Dục, tu định vô tưởng, được
sanh về cõi trời Vô tưởng, hưởng thọ 500 kiếp, rồi vẫn
trở lại trong vòng sanh tử luân hồi.
9.Loài
chẳng phải có tưởng và chẳng phải không tưởng (phi hữu
tưởng, phi vô tưởng): như chúng sanh ở cõi trời phi phi tưởng
xứ, trong cõi Vô sắc. Chúng sanh ở cõi này, đồng với hư
không, không có thân thể và thế giới. Họ chỉ có định
không có huệ, thọ đến tám vạn kiếp, rồi trở lại đoạ
về chỗ không vong.
BỐN
TƯỚNG: Mỗi chúng sanh đều có bốn tướng: Như đối với
người khác tự xưng "tôi" hay "ta", là "ngã tướng"; Ta có
nhơn cách là "nhơn tướng"; Ta thuộc loài hữu tình, sanh vật
là "chúng sanh tướng"; Ta có thân mạng, sống trong một thời
gian là "thọ giả tướng".
Tóm
lại, phàm chấp một tướng, tất nhiên chấp đủ bốn tướng:
_ Ngã
tướng: chấp có "ta"
_ Nhơn
tướng: chấp có "loài người".
_ Chúng
sanh tướng: chấp có chúng sanh.
_ Thọ
giả tướng: chấp có mạng sống trong một thời gian
NIẾT
BÀN: Dịch âm của tiếng Phạn "Nirvana", dịch nghĩa là viên
tịch: Viên mãn vắng lặng. Niết bàn có bốn loại:
1.
Tánh tịnh Niết bàn.
2.
Vô trụ xứ Niết bàn.
3.
Hữu dư Niết bàn.
4.
Vô dư Niết bàn.
(Xem
đoạn Diệt đế trong quyển Tứ diệu đế).
***
4.
PHẬT DẠY BỔ TÁT BỐ THÍ KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát khi tu pháp Bố thí, không nên trụ
chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu
trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Tại sao vậy?
Nếu Bồ Tát bố thí mà không chấp tướng bố thí, thì phước
đức nhiều lắm, không thể nghĩ bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
trên (đoạn 3), Phật dạy Bồ Tát khi độ sanh, phải dùng
Trí huệ Bát Nhã phá trừ "ngã chấp", tức là không chấp
bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.
Đoạn
này, Phật dạy Bồ Tát khi bố thí, cũng phải dùng Trí huệ
Bát Nhã, phá trừ "pháp chấp"; nghĩa là không chấp tướng
sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là phương
pháp "hàng phục vọng tâm".
Bồ
Tát làm Phật sự, như hoá độ chúng sanh hay bố thí v.v...mà
tâm còn chấp ngã chấp pháp, tất nhiên tâm còn phiền não
nhiễm ô mà làm các phật sự (phước thiện), thì các Phật
sự đó cũng biến thành nhiễm ô; cũng như đem đồ nhơ bẩn
mà đựng vật tinh khiết, thì vật tinh khiết trở thành nhơ
bẩn, nên hành giả chỉ hưởng phước hữu lậu nhiễm ô;
nghĩa là phước báu nhơn thiên ở thế gian, hưởng có thời
hạn; như hư không bị cuộc hạn trong ly nhỏ.
Trái
lại, khi làm các Phật sự, như bố thí v.v...nếu Bồ Tát
dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ chấp ngã, chấp pháp; nghĩa
là không chấp mình là người bố thí, ban ơn (chấp ngã),
kia là kẻ thọ thí, chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố
thí (chấp pháp), thí các phiền não nhiễm ô không sanh, tâm
được thanh tịnh. Tân thanh tịnh tức là tâm Phật hay tâm
chơn như, rộng rãi bao la, như mười phươnh hư không. Nếu
đem tâm thanh tịnh mà bố thí, thì hành giả được phước
vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư không, không cùng tận.
Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố thí ít), nhưng được
hoà vào biển cả (tâm tinh) thì cũng được biến khắp cả
biển, rộng rãi bao la.
Bởi
thế nên Phật dạy: Bồ Tát khi bố thí phải "tam luân không
tịch", nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, kẻ chịu
ơn và vật bố thí. Như thế mới gọi là "Bố thí Ba la mật"
(Bố thí rốt ráo).
5.
BỐ THÍ KHÔNG CHẤP TƯỚNG PHƯỚC NHIỀU NHƯ MƯỜI PHƯƠNG
HƯ KHÔNG[^]
Phật
hỏi: "Tu Bồ Đề ! Hư không ở phương Đông có thể nghĩ
bàn được không?". Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn ! không
thể nghĩ bàn được".
Phật
hỏi tiếp: "Hư không phương Tây, phương Nam, phương Bắc,
phương trên, phương dưới và bốn gốc, có thể nghĩ bàn
được không?" Tu Bồ Đề thưa: "Bạch thế tôn ! không thể
nghĩ bàn được".
"Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát bố thí, không trụ chấp các tướng,
đặng phước đức cũng như mười phương hư không, nghĩa
là nhiều lắm không thể nghĩ bàn".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này tiếp theo đoạn trên (đoạn 4), Phật dùng mười phương
hư không, để thí dụ phước đức của người bố thí không
chấp tướng.
Phật
dạy, Bồ Tát không chấp tướng bố thí, hay nói cách khác
là đúng như Trí huệ Bát Nhã mà làm việc bố thí, thì được
phước đức vô lậu thanh tịnh và nhiều như mười phương
hư không, không có cùng tận.
_Thế
nào là phước hữu lậu nhiễm ô, có cùng tận?
Và
thế nào là phước vô lậu thanh tịnh, không cùng tận?
Chúng
tôi xin dẫn một thí dụ làm điển hình, để giải thích
vấn đề này:
Có
hai gia đình nghèo khó, đồng gặp một hoàn cảnh như nhau,
trong nhà đều có tai nạn. Cả hai đều đến hai nhà khá giả
để mượn triền. Một nhà khá giả có tâm tham, thủ lợi,
nên khi đưa của ra đòi có lời. Nhà khá giả thứ hai có
tâm từ bi, thương người nghèo khổ lại gặp tai nạn, nên
cho mượn không, chẳng nghĩ đến việc cảm ơn hay tiền lời.
Đúng
kỳ hẹn, cà hai gia đình tai nạn đều đem số tiền trả
cho hai người khá giả. Người khá giả tham lợi, nhận thêm
số tiền lời chi tiêu ít ngày hết. Thế là hai bên không
còn ơn ích gì nhau nữa cả. Người khá giả thứ hai, vì tâm
nhơn từ giúp người không cầu danh lợi, nên được người
khốn khó kia nhớ ơn và thương kinh mãi mãi.
Đến
khi nước nhà bị giặc giã, cả hai nhà khá giả đều tản
cư. Gia đình người tham lợi, tìm người giúp đỡ không ra;
đến cậy anh vay tiền lúc trước cũng không được. Đây
là dụ cho phước hữu lậu nhiễm ô (đem tân tham làm phước)
có cùng tận.
Trái
lại, gia đìng người nhơn từ, được người nghèo khó thọ
ơn trước kia, tình nguyện hy sinh giúp đỡ mãi mãi không tính
tiền công. Đây là dụ cho phước vô lậu thanh tịnh (đem
tâm từ bi làm phước) không cùng tận.
Tóm
lại, nếu hành giả đem tâm phiền não nhiễm ô (tham, sân,
si v.v...) mà làm các Phật sự, thì chỉ hưởng phước ô trược
hữu lậu của nhơn thiên, có cùng tận.
Trái
lại, nếu hành giả đem tâm thanh tịnh (từ bi, Trí huệ, không
cầu danh lợi v.v...) mà làm các Phật sự, thì hưởng phước
vô lậu thanh tịnh của Phật, không cùng tận.
***
6.
PHẬT
DẠY AN TRỤ CHƠN TÂM
Tóm
lại, Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! các vị Bồ Tát phải y như
lời ta dạy đó mà an trụ chơn tâm".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật tóm kết lại hai đoạn trên, để trả lời câu
hỏi của ông Tu Bồ Đề: "Làm sao an tru chơn tâm".
Phật
dạy: "Các vị Bồ Tát độ vô lượng vô biên chúng sanh đều
được nhập Niết bàn, nhưng không thấy có một chúng sanh
nào được độ"; và "Bồ Tát tu pháp bố thí, không nên trụ
chấp các tướng như sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp",
nghĩa là Bồ Tát không chấp ngã (khi độ sanh) không chấp
pháp (khi bố thí); đó là phương pháp "hàng phục vọng tâm"
mà cũng là "an trụ chơn tâm".
Nếu
Bồ Tát độ sanhvà làm các Phật sự, mà còn khởi vọng tâm,
chấp nơi các tướng (ngã, nhơn v.v...) thì các phiền não tham,
sân, si đua nhau nổi lên. Nếu tham, sân, si đã nổi thì không
sao khởi tạo nghiệp sanh tử luân hồi.
Trái
lại, nếu Bồ Tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không
khởi vọng tâm, chấp các tướng ngã, pháp v.v...thì các phiền
não không sanh. Phiền não không sanh, thì không tạo nghiệp.
Nghiệp không tạo thì không còn sanh tử luân hồi.
Tóm
lại, Phật dạy: "Đừng trụ chấp một nơi nào". Đó là phương
pháp "hàng phục vọng tâm" và "an tru chơn tâm" của hàng Đại
thừa Bồ Tát.
Ngài
Long Tế Hoà thượng ngộ được lý "vô trụ" của kinh Bát
Nhã, nên có làm bài tụng rằng:
Nguyên
văn (dịch âm)
Tâm
cảnh đốn tiêu dung
Phương
minh sắc dữ không
Dục
thức bổn lai thể
Thanh
sơn bạch vân trung
Dịch
nghĩa
Không
còn chấp tâm và cảnh
Mới
ngộ được lý sắc, không
Muốn
biết bổn lai bản thể
Kìa,
mây trắng với non xanh.
ĐẠI
Ý
Muốn
ngộ được lý "sắc tức thị không, không tức thị sắc",
thì phải trừ các vọng chấp ngã (tâm) và pháp (cảnh). Muốn
biết bản thể Bát Nhã chơn không, xưa nay như thế nào, thì
cứ xem " Kìa, mây trắng với non xanh".