Khóa
Thứ Mười Hai
KINH
KIM CANG
Dịch
nghĩa và lược giải
Bài
Thứ 10
PHẦN
CHÁNH TÔN (tt)
64.
Phật phá cái chấp "Như Lai cũng có đi, đứng, nằm, ngồi"
65.
Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới"
66.
Phật phá"chấp ngã"
67.
Phật phá"chấp pháp"
68.
Phật tán thán công đức thọ trì kinh Kim Cang Bát Nhã.
69.
Phật nói bài kệ: Quán các pháp hữu vi đều giả.
64.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CŨNG CÓ ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỔI"
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người chấp:Như Lai cũng tới,
lui, nằm, ngồi v.v...thì người đó không hiểu nghĩa Như Lai.
Tu
Bồ Đề ! Như Lai nghĩa là không từ đâu đến và cũng không
đi về đâu, nên gọi là Như Lai".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp "Như Lai cũng
đi, đứng, nằm, ngồi v.v..."
Pháp
thân của Phật như như bất động, không khứ không lai, không
sanh không diệt. Phật chứng được pháp thân này, nên gọi
là Như Lai.
***
65.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI"
Phật
dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người chẻ nhỏ Đại thiên thế
giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) thành vi trần. Vậy
số vi tr6àn này nhiều không?"
Tu
Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm".
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các vi trần, không phải thật
vi trần, chỉ giả gọi là vi trần. Nếu các vi trần thật
có, thì Như Lai không gọi là vi trần (chỉ gọi cái tướng,
do chẻ nhỏ thế giới mà thành).
Tu
Bồ Đề ! Như Lai nói thế giới, không phải thật thế giới,
chỉ giả gọi thế giới. Nếu thế giới thật có, thi Như
Lai không gọi là thế giới, mà chỉ gọi là cái tướng của
tổng hợp của nhiều vi trần.
Tu
Bồ Đề ! Như Lai nói cái tướng tổng hợp (thế giới) không
phải tướng tổng hợp, chỉ giả gọi là tướng tổng hợp.
Tu
Bồ Đề ! chúng phàm phu vì không biết đó là một cái tướng
tổng hợp của nhiều vi trần, nên chấp là thật có thế
giới, rồi sanh tâm tham lam luyến ái v.v...".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá cái chấp "thật có vi
trần và thế giới". Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt
ở đoạn 24) Phật phá cái chấp vi trần và thế giới.
Chẻ
vật lớn nhứt như thế giới, chẻ cho đến lúc không còn
chẻ được nữa, thì tạm gọi đó là "vi trần" (bụi nhỏ).
Rồi tổng hợp rất nhiều vi trần , đến mức cùng tột mà
tạm thành. Cả hai vi trần và thế giới đều không thật
thể, chỉ có giả danh mà thôi.
Tóm
lại, tất cả muôn sự muôn vật trong vũ trụ, lớn như thế
giới, nhỏ như vi trần, đều không thật thể, chỉ có giả
danh mà thôi. Chúng sanh không biết, vọng chấp là thật, nên
gặp cảnh thuận thì sanh tâm tham lam; còn gặp cảnh nghịch
thì sân, si v.v...rồi tạo ra các nghiệp sanh tử luân hồi,
từ đời này đến kiếp nọ, không biết bao giờ cùng tận.
Bởi
thế nên Phật thuyế kinh Kim Cang Bát Nhã, mục đích để phá
các vô minh vọng chấp thật ngã. Lhi mây vô minh vọng chấp
hết rồi, thì trăng Phật tánh (Trí huệ Bát Nhã) hiện ra,
chiếu khắp cả mười phương thế giới.
***
66.
PHẬT PHÁ CHẤP NGÃ
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu có người nói: "Phật cũng có ngã
tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng".
Vậy, người này có hiểu được nghĩa của Như Lai nói không
?".
Tu
Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Người này không hiểu được
nghĩa của Như Lai nói. Tại sao vậy? Vì Như Lai nói bốn tướng:
ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, nhưng không phải thật có
bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng ngả, nhơn, chúng sanh
và thọ giả mà thôi".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trứ cái "ngã chấp".
Có
người chấp: "Nếu không có "ngã", tại sao Phật cũng nói
có bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả? "_ Vì chúng
sanh chấp bốn tướng thật có, nên Phật cũng nói cái tên
bốn tướng, để giải thích cho chúng sanh biết bốn tướng
đó là giả, chứ không phải Phật chấp thật có bốn tướng
như chúng sanh. Bởi thế nên Phật day: "Như Lai nói bốn tướng,
nhưng không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn
tướng".
***
67.
PHẬT PHÁ CHẤP PHÁP
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Người phát tâm Bồ Đề chẳng nên chấp
các pháp thật có, mà phải thấy các pháp là giả, biết các
pháp là giả, hiểu các pháp là giả và tin các pháp là giả
Tu
Bồ Đề ! Như Lai nói "các pháp" không thật có "các pháp",
chỉ giả gọi là "các pháp"
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Kim Cang
Bát
Nhã, phá trừ cái chấp pháp
Chúng
sanh vì chấp thật có ta (ngã) nên suốt đời, chỉ lo cho ta
ăn ngon, lo cho ta mặc đẹp, lo nhà cửa cho ta, lo tiền cho ta
tiêu dùng, lo cho ta có dsanh vọng, quyền tước v.v...làm việc
gì cũng vì ta. Rồi cái gì hợp với ta thì sanh tâm tham lam
luyến ái, cái gì nghịch với ta thi sân, si, tật đố v.v...tạo
đủ điều tội lỗi.
Không
ngờ cái "ta"chẳng thật, do các duyên hoà hợp giả tạo. Khi
các duyên tan rã rồi, thì có cái gì gọi là "ta".
Ngoài
sự chấp "ta", chúng sanh còn chấp "pháp"; nghĩa là chấp muôn
sự muôn vật thật có. Vì chất sự vật thật có vcà lâu
dài, nên chúng sanh cả đời chịu khổ sở, vất vả để
tìm cầu. Được rồi tham cầu nữa, không biết bao giờ đủ;
không được thì sân hận, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi.
Do đó mà bị sanh tử luân hồi, không biết bao giờ cùng tận.
Không
ngờ các pháp cũng đều hư giả, không thật, như bể cả
biến làm ruộng dâu, ruộng dâu hoá làm bể cả, có cái gì
chơn thật và trường tồn. Bởi thế nên Phật dạy: "Người
phát tâm Bồ Đề, không nên chấp các pháp thật có, m phải
thấy các pháp là giả, hiểu các pháp là giả, và tin các
pháp là giả".
Hành
giả thấy biết và tin các pháp là giả, mới ngăn chận được
vọng tưởng tham, sân, si v.v...và mới trở về với chơn tâm
thanh tịnh của mình.
Cũng
vì thế, nên toàn bộ kinh Kim Cang Bát Nhã, đều nhắm mục
đích dả phá các vọng chấp ngã, pháp để chúng sanh trở
về với bản tâm thanh tịnh hay Phật tánh sáng suốt của
mình.
Đó
là phương pháp "hàng phục vọng tâm mà cũng là để an trụ
chơn tâm".
***
68.
PHẬT TÁN THÁN CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy
vô lượng vô số thế giới đem bố thí. Và, nếu có người
phát tâm Bồ Đề thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh
này, trọn quyển hay nữa quyển, cho đến tối thiểu là bốn
câu kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người
trước.
Tại
sao người thọ trì đọc tụng kinh này, phước đức nhiều
hơn người trước? Vì người này chẳng chấp thủ các tướng
(ngã, chấp), nhập được thể tánh Kim Cang, như như bất động
vậy".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật tán thán công đức người thọ trì kinh này, nhiều
hơn người bố thí vô số thất bảo. Đây là lần thứ 14,
phật nói về công đức trì kinh.
Người
thọ trì kinh này, sẽ phá trừ hết các vọng chấp ngã, pháp
hay bốn tướng, ngộ nhập được Kim Cang Bát Nhã là tánh
như như bất động và sẽ thành Phật, rồi trở lại giáo
hoá vô lượng vô số chúng sanh đều được giải thoát, nên
phước đức nhiều hơn người bố thí bảy báu
***
69.
PHẬT NÓI BÀI KỆ: QUÁN CÁC PHÁP HỮU VI ĐỀU HƯ GIẢ
Dịch
âm (nguyên văn):
Nhứt
thế hữu vi pháp
Như
mộng, huyễn, bào, ảnh
Như
lộ diệc như điển
Ưng
tác như thị quán.
Dịch
nghĩa:
Phải
quán như thế này:
Tất
cả pháp hữu vi
Như
mộng, huyễn, bọt, bóng
Như
sương, như điển chớp
LƯỢC
GIẢI
Phật
kết thúc thời kinh Bát Nhã bằng một bài kệ, quán các pháp
hữu vi đều giả, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn
tâm.
Hành
giả phải luôn luôn quán tất cả các pháp trong vũ trụ đều
hư giả, như chiêm bao, như vật huyễn thuật, như bọt nước,
như bóng tối, như sương mai và điện chớp.
Khi
hành giả đã đi sâu vào pháp quán giả; nghĩa là thấy một
cách chắc chắn "các pháp đều hư giả" như sáu món hư huyễn
trên, thì hành giả không còn khởi vọng tâm chấp thủ ngã
pháp hay bốn tướng.
Khi
các vô minh vọng chấp không còn thì chơn tâm thanh tịnh hiện
ra, hay nói cách khác là tánh Kim Cang Bát Nhã như như bất động
hiện ra. Lúc bấy giờ, hành giả liền chứng được quả
Bồ Đề, không cần phải gian lao khổ hạnh, nhiều kiếp tu
hành hay phải tìm đâu xa lạ.
Tóm
lại, đây là một phương pháp tu mau chóng, đặc biệt của
kinh Kim Cang Bát Nhã, để "hàng phục vọng tâm và an trụ chơn
tâm".
***
PHẦN
LƯU THÔNG
PHẦN
TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG
Khi
Phật nói kinh này rồi, ông Trưởng lão Tu Bồ Đề, các vị
Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thiện nam, tín nữ, trời, người và thần
A Tu La, đều tin thọ và jhoan hỷ vâng làm.
LƯỢC
GIẢI
Theo
thông lệ, thì tất cả các kinh của Phật đều chia làm ba
phần: Phần Tự (phần mở đề), phần Chánh tôn (phần chánh
đề) và phần Lưu thông (phần truyênbá lưu thông).
Đoạn
này là phần Lưu thông, nói về các thính giả, sau khi nghe
Phật nói kinh Kim Cang Bát Nhã rồi, tất cả đều lãnh thọ
tin theo và hoan hỷ vâng làm.
Dịch
xong, ngày 10 7 Ất Tî
(Nhằm
ngày 6 8 1965)