Khóa
Thứ Mười Hai
KINH
KIM CANG
Dịch
nghĩa và lược giải
Bài
Thứ 3
PHẦN
CHÁNH TÔN (tt)
7.
Không nên chấp: "Thấy thân tướng của Phật là thấy được
Phật".
8.
Người tin được kinh này, là do đã trồng căn lành từ nhiều
kiếp.
9.
Người thọ trì kinh náy được công đức vô lượng
10.
Giáo pháp của Phật cũng như chiếc thuyền đưa người qua
bể khổ
11.
Phật phá cái chấp "Như Lai có thành Phật và thuyết pháp".
12.
Phật pháp không có sai khác, do trình độ của chúng sanh mà
thấy có sai khác
7.
KHÔNG
NÊN CHẤP:"THẤY ĐƯỢC THÂN CỦA PHẬT LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT
Phật
hỏi: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy cái thân tướng của
ta đây là thấy được Như Lai chăng?".
Tu
Bồ Đề thưa: "Bạch thế Tôn ! không thể cho thấy cái thân
tướng của Ngài đó là thấy Như Lai. Tại sao vậy?_ Vì Như
Lai nói: "Cái thân tướng này, không phải thật là thân tướng
của Như Lai".
Phật
dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Phàm cái gì có hình tướng đều
là hư vọng. Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng,
không thậ (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật
tướng các pháp).
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này, Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy
sắc thân của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ
nhứt, nói về việc thấy Phật.
Trên
đường tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý. Nhờ Sự tướng
bên ngoài, mới ngộ được lý tánh bên trong; có ngộ Lý tánh
bên trong, mới thấy rõ được Sự tướng bên ngoài.
Người
chấp Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các
thức ăn caso lương mỹ vị, nhưng bụng vẫn đói. Người
mê Sự mà bỏ Lý, cũng như trẻ con mê bánh vẽ.
Nhờ
có tượng cốt giả, kinh giấy, tăng phàm v.v...là sự tướng
bên ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt,
Pháp thiệt và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta.
Nếu
bác bỏ Sự tướng bên ngoài là hư giả (không thờ Phật,
tụng kinh v.v...) mà chỉ chấp suông về phần Lý tánh bên
trong (Phật tức tâm), thì đức Phật nơi tâm ta cũng không
làm sao biểu lộ ra được.
Chư
Tổ dạy:
"Thật
tế lý địa, bất thọ nhứt trần
phật
sự muôn trung, bất xả nhứt pháp".
Nghĩa
là: Về Phật tâm thanh tịnh, thì không có một nảy trần.
Nhưng về phần Sự tướng tu hành, thì không thể bỏ qua một
pháp nào.
Trái
lại, nếu chấp về Sự tướng (cầu Phật bên ngoài) mà không
tìm Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ
thấy được Phật. Bởi thế nên phật dạy:
"Nếu
người chấp: "thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật,
nghe tiếng nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật",
thì người đó đã đi lạc về đường tà, không bao giờ
thấy được Phật".
(KINH
KIM CANG)
Ngày
xưa có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật.
Đi đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước
có sinh trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa
đường; một vị uống nước được sống, đi đến ra mắt
Phật.
Phật
quở rằng: "Ông Tỳ kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông
vẫn sống và đã thấy ta rồi. Còn ông không giữ giới tuy
sống, ở sát bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta
ngàn dặm".
Tại
sao, vị Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy
Phật, mà Phật lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại,
vị Tỳ kheo không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được
Phật, mà Phật lại cho là "cách Phật ngàn dặm?".
Cho
biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp
bên ngoài của Phật, chưa phải là thấy được phật; phải
thấy "Phật tâm thanh tịnh" hay "pháp thân Phật" mới thật
là thấy Phật.
Song
le, đa số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng,
tìm ohật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm đức
Phật thiệt trong tâm của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở:
"Phật trong nhà không thờ, mà thờ đức Phật Thích Ca ngoài
đường" là vậy.
Vì
phá cái mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật
gỗ (Phật giả). Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._
Ngài trả lời: "đốt để tìm xa lợi" (tìm Phật thiệt).
Ông chủ chùa thấy vậy sợ khủng khiếp, nên rụng hết râu
mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội rất nặng.
Vì
sự kiện này, nên cổ nhơn có lám bài kệ:
Nguyên
văn (dịch âm):
Đơn
Hà thiêu mộc Phật
Viện
chủ lạc tu mi
Nhứt
trường kỳ đặc sự
Thiên
hạ thiểu nhơn tri
Dịch
nghĩa:
Tổ
Đơn Hà đốt Phật gỗ
Ngài
viện chủ rụng râu mày
Một
trường hợp rất đặc biệt
Trong
thiên hạ ít người biết.
Trọng
tâm trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi:
"Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy
được Như Lai chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho
thấy cái thân tướng của Phật là thấy Phật".
Phật
dạy tiếp: "Phàm cái gì có hìng tướng đều là hư vọng",
(phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật
do tứ đại giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng.
Bởi thế nên thấy sắc thân của phật, chưa phải là thấy
được Phật.
Vậy
thì thấy cái gì mới thấy được Phật?
Phật
dạy tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư vọng,
tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp).
Ngài
thái Hư Pháp sư giảng:
Đoạn
này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất
cả các hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều
hư vọng, như hoa trong gương, như trăng duới nước, không
có chơn thật. Nếu người rõ thấu được các tướng đều
hư vọng như vậy, tức là đã thấy được "pháp thân của
Như Lai", tức là rõ thấu được "tướng chân thật của các
pháp", cũng tức là "Trí huệ vô thượng", và cũng tức là
"Kim Cang Bát Nhã diệu tâm".
(KIM
CANG GIẢNG LỤC)
Tóm
lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã,
phá trừ vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và
80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được
Phật", mà quên xoay trở lại, tự tìm cấu đức Phật thiệt
trong tự tâm của minh.
8.
NGƯỜI
TIN ĐƯỢC KINH NÀY, DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP
Ông
Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! chúng sanh nghe đến
kinh này, chẳng biết có tin được không?".
Phật
dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện
tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh
này. Sau 500 năm, khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất
gia (trì giới) hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này,
mà sanh lòng tin thọ, thì biết người này đã trồng căn lành
(đã tu), không phải mới bốn năm đời Phật, mà đã nhiều
kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay
LƯỢC
GIẢI
Ông
Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh
này, có tin được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về
việc tin thọ.
Phật
vì những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã,
dạy các vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các
vô minh vọng chấp ngã, pháp, để trở vềvới bản tâm thanh
tịnh là tánh Bát Nhã chơn không, vô trụ vô tướng.
Ông
Tu Bồ Đề lo ngại cho chúng sanh căn cơ thấp kém, sợ e không
hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh
nghe đến kinh này, có tin được không?".
Đại
ý, Phật dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp,
có chúng sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi
Phật nhập diệt 500 năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt
pháp, cũng có chúng sanh hiểu và tin được kinh này. Nhưng,
những chúng sanh đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp tin được
kinh này, là do họ đã nhiều kiếp có tu hành, trồng căn lành
từ vô lượng đức Phật về trước (như Ngài Huệ Năng chỉ
nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong kinh này
mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu từ bốn năm
đời đức Phật trở lại đây.
9.
NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NẦY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG [^]
Phật
dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc
chắn: Nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin
thọ, cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm,
thì chúng sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên.
Tại
sao vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng
nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp
và tướng không phai pháp".
LƯỢC
GIẢI
Phật
khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công
đức vô lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt.
Người
có cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa
thích về âm nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới
thấy được cái đẹp và ưa thích về hội hoạ. Người có
cái khiếu về văn chương mới thấy cái hay và ưa thích về
văn chương.
Cũng
thế, người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ
Duy thức là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được
kinh Bát Nhã.
Người
đã có hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp
(Phật pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này
đuợc nghe thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của
mình được sanh trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi
thế nên phật dạy: " ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn:
chúng sanh nào nghe hiểu và tin được kinh này, thì sẽ được
phước đức vô lượng vô biên".
10.
GIÁO
PHÁP CỦA PHẬT CŨNG NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ
KHỒ
Phật
dạy: "Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng
chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều
bị dính mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ
giả. Bởi thế nên khôngđược chấp "tướng chánh pháp" hay
chấp "tướng phhi chánh pháp".
Cũng
vì lẽ đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải
biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua
sông; các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp.
"Chánh
pháp" còn không nên trụ chấp huống chi là "phi pháp".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh
pháp" và chấp "phi chánh pháp".
Phật
dạy hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là
"chánh pháp" (hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn
trụ chấp, bất luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc
vào bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, hay nói
gọn hơn là mắc vào tướng ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã,
pháp thì phiền não vọng chấp đua nhau sanh khởi. Phiền não
vọng chấp sanh khởi, thì hành giả không thể hàng phục được
vọng tâm và an trụ chơn tâm.
Bởi
thế nên Phật dạy:" Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò
đưa người qua sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ
chiếc đò, mà lên bờ. Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư
chấp giữ chiếc đò, thì không bao giờ lên bờ được. Người
tu hành cũng thế, phải bỏ cái "chấp", mới lên bờ giải
thoát được.
Trong
kinh Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như
ngón tay để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón
tay mới thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ
xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng".
Tóm
lại, Phật dạy:"chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp,
huống chi là "phi pháp".
***
Ngài
Xuyên Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã,
nên làm bài kệ rằng:
Nguyên
văn (dịch âm):
Đắc
thọ phàn chi mạt túc kỳ
Huiyền
nhai tán thủ trượng phu nhi
Thuỷ
hàn dạ lãnh ngư nan mích
Lưu
đắc không thuyền tải nguyệt qui.
Dịch
nghĩa:
Niu
nhánh chuyền cây chẳng phải tài
Dốc
đứng buông tay mới trượng phu
Gió
lạnh đêm khuya câu chẳng có
Thuyền
không chỉ chở bóng trăng thanh.
ĐẠI
Ý
Câu
thứ nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ
nơi danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây,
thì không có gì hay cả.
Câu
thứ hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng
như người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết,
mới là bực đại tài.
Câu
thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya
thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như
tờ, cá chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt động.
Câu
thứ tư, nói về khi các vọng chấp các tướng ngã, pháp đã
hết, thì chỉ còn ánh Trí huệ Bát Nhã chơn không; cũng như
chiếc thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh
(Trí huệ Bát Nhã).
11.
PHẬT
PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP"
phật
hỏi ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Lai
có thuyết pháp không?".
Tu
Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không thành Phật và
Như Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của
Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ
chẳng nhằm, không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi
pháp.
Như
thế thì làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật",
và có cái gì quyết định là "nói pháp".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai
thật có thành Phật, và thật có nói pháp".
Trong
Duy thức Tam thập tụng có chép:
Hiện
tiền lập thiểu vật
Vị
thị Duy thức tánh
Dĩ
hữu sở đắc cố
Phi
thật trụ Duy thức
Nghĩa
là: nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có
chứng Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh,
vì còn vọng chấp có "sở đắc" vậy.
Nếu
Như Lai có thành Phật, tất nhiên phải có chúng sanh chưa thành
Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh khởi.
Nếu còn ngã, nhơn v.v...thì không phải là Phật.
Nếu
Như Lai có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp.
Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã,
bỉ, thứ. Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật
pháp. Bởi thế, nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc
Phật nói:"Ta không nói một chữ".
Đức
Lão Tử nói:"Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không
phải thật là đạo. Cái "tên? mà có thể kêu gọi được,
thì không phải thật là "tên" (Đạo khả đạo, phi thường
đạo giả, danh khả danh, phi thường danh).
Kinh
chép:"Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc
cây. Trời Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ô ng Tu Bồ
Đề hỏi:"Ai rãi hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích
thưa:"Ngài nói kinh Bát Nhã hay quá ! Con đến rãi hoa cúng dường".
Ông Tu Bồ Đề nói:"Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích
thưa:"Ngài không nói, con không nghe".
Kết
luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới
thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã".
Ông
Tu Bồ Đề đã hiểu:"Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không
thể chấp thủ, chẳng phải "có", chẳng phải "không", không
phải "chánh pháp" và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên
bạch Phật rằng:"Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng
không thuyết pháp".
Tóm
lại, phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩ
và lời nói luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết
pháp".
12.
PHẬT
PHÁP KHÔNG CÓ SAI KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY
CÓ SAI KHÁC
Ông
Tu Bồ Đề bạch Phật:"Phật pháp đã như thế, tại sao lại
có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy:"Vì
trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh
hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác".
LƯỢC
GIẢI
Đoạn
nầy phá cái chấp "Phật pháp có sai khác".
Đoạn
trên đã nói:"Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói
năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp
và cũng không phải phi pháp" . phật pháp đã cao siêu như vậy,
vượt ra ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả
thánh hiền cao thấp khác nhau?
Phật
giải thích:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có
các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có
sai khác"
Trong
kinh thường thí dụ:"Như ba con thú qua sông". Nghĩa là Phật
pháp như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con
thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu
thừa); con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi
thì lội ngập ống chân (dụ cho Đại thừa).
***
Phật
pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn,
nên Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:
Nguyên
văn (dịch âm):
Hư
không cảnh giới khởi tư lương
Đại
đạo thanh u lý cánh trường
Đản
đắc ngũ hồ phong nguyệt tại
Xuân
lai y cựu bách hoa hương.
Dịch
nghĩa:
Hư
không rộng rãi lớn bao la
Lý
đạo lại càng quá thẩm xa
Trăng,
gió, nước hồ thường tự tại
Chào
xuân đua nở trăm nghìn hoa.
ĐẠI
Ý
Hư
không đã rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại
càng cao siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật
thiên nhiên của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ
phẳng lặng, xuân về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh
thần tự tại giải thoát của Phật pháp.
Kinh
chép:"Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất
cả các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì
pháp thế gian, còn ngộ là Phật pháp.
GIẢI
DANH TỪ
Chấp
thủ: nắm giữ
Chánh
Pháp: Pháp chơn chánh
Phi
Pháp: Pháp không chơn chánh
Vô
vi: Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là
chơn như hay Phật tánh.