KHAI THỊ
QUYỂN 1
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Phần 5
Lục Ðại Tông Chỉ tức là Ngũ Giới
Lúc dụng công,
phải biết đề khởi, phải biết buông bỏ, làm chuyện gì phải ra chuyện đó.
Người thích niệm Phật thì
tham gia Phật-thất, người thích tham thiền thì tham gia Thiền-thất. Người
không thích niệm Phật cũng chẳng thích tham thiền, thì có thể tham gia
"thất làm biếng" hoặc là "thất ngủ khò." Thất làm biếng hay thất ngủ khò
nghe có vẻ mới lạ nhưng thực sự nó hết sức là có lý.
"Thất làm biếng": Dù bạn
biếng nhác không thể làm biếng được. Tuy bạn không làm gì cả, nhưng trong
tâm lúc nào cũng có chuyện làm, đó là nghĩ vẩn vơ, vọng tưởng. Lúc thì
trên trời, khi thì dưới đất, lúc làm ác quỷ, khi đọa địa ngục, lúc làm
người, khi làm trời. Ở nơi cái tâm mà chế tạo ra đủ thứ máy móc vật liệu
trong lục đạo luân hồi. Khi cơ quan nầy đã phát động rồi, thì chuyển tới
chuyển lui, muốn làm biếng cũng chỉ lãng phí sức lực và tinh thần mà thôi.
Từ đó mình càng thêm mệt mõi, càng lười biếng hơn rồi cảm thấy mọi việc
chẳng có ý nghĩa, không có mùi vị gì cả.
Còn "thất ngủ khò" thì
sao? Ngủ song đầu óc lại mộng mị. Có lúc mộng phát tài giàu có, có lúc
mộng nghèo cùng khốn khổ, có lúc mộng làm quan, có lúc mộng đi xin ăn, có
lúc mộng thấy cọp hoặc rắn độc. Vì mộng nên ngủ cũng không an lạc, muốn đả
thất ngủ khò cũng không xong.
Vì mình không biết dụng
công, nên bất luận làm gì cũng không tốt. Người biết dụng công thì làm gì
cũng tốt, tham thiền hay niệm Phật đều tốt, ngay cả làm biếng hay ngủ
nghỉ, người đó cũng dụng công được.
Ở Vạn Phật Thánh Thành có
năm tông phái: Thiền, Giáo, Mật, Tịnh, và Luật. Quý-vị muốn tu pháp môn
nào cũng được, cứ tự do lựa chọn đừng ngại. Nếu muốn làm biếng, muốn ngủ
cũng được. Vì do làm biếng mà mình không đi ăn cắp, đó là trì giới. Tuy
ngủ mà mình không đi giết người, không sát sinh, thì đó cũng là trì giới.
Niệm Phật, Tham-thiền, hoặc là học Giáo, tập Luật hay tu Mật-tông đều là
trì giới cả. Do thế khi mình học năm giáo phái, chính là mình đang trì
Ngũ-giới: Không sát sinh, không ăn cắp, không tà dâm, không nói dối, và
không uống rượu. Dụng công tức là không phạm giới. Tuy bên ngoài mình
không biểu hiện là có hành trì giới luật (kẻ khác tuy không thấy mình trì
giới), thật ra trì mà không có hình tướng trì. Mình chẳng cần dùng danh từ
trì giới để hình dung khi đang giữ giới; lối dụng công như vậy rất tốt.
Bởi vì lý do đó, nên ở Vạn
Phật Thánh Thành quý-vị được tự do lựa chọn pháp môn tu hành, không ai
quản thúc mình cả. Bởi vì quốc gia nầy là quốc gia dân chủ, nên đạo tràng
nầy càng phải thực hành chủ nghĩa dân chủ, và tự do cá nhân. Vì vậy đã
nhiều ngày qua quý-vị muốn dụng công tu pháp gì đều được cả, chỉ cần
chuyên tâm tu hành, làm chuyện gì phải ra chuyện đó, làm gì phải làm cho
tốt, chuyên tâm chú ý là đủ.
Lại nữa, Vạn Phật Thánh
Thành có Sáu Ðại Tông-chỉ:
1. Không Tranh: Nếu không
tranh sẽ không dẫn đến sát sanh. Sát sanh là do tâm tranh hiện lên tác
quái. Khi tranh thì chỉ muốn mình thắng, đối phương thua, dù có chết hại
vô số.
2. Không Tham: Không tham
thì sẽ không trộm cắp. Tại sao lại đi ăn cắp đồ của người khác? Là bởi
mình có tâm tham lam. Nếu bạn không có tâm tham lam, thì có kẻ tặng, bạn
cũng không lấy. Lòng tham mà trừ thì nhất định không phạm tội ăn cắp.
3. Không Truy Cầu: Không
truy cầu thì sẽ không khởi ý niệm dâm dục. Dâm dục là do mình có mong cầu.
Con gái mong con trai, con trai mong cầu bạn gái, đó là thứ truy cầu kẻ
đối phương. Không những chỉ cầu thôi mà còn truy, theo đuổi nữa, giống như
cái khoan, cứ nhắm về phía trước mà khoan. Nếu không có sở cầu, thì làm
sao còn ý niệm tà dâm? Một chàng trai tuấn tú, một cô gái xinh xắn bất quá
chỉ là hai bị thịt hôi hám mà thôi. Tại sao tham luyến chứ? Nếu không có
sở cầu thì mình không sao phạm giới dâm này.
4. Không ích Kỷ: Không ích
kỷ sẽ giúp mình chẳng nói láo. Người ta nói dối vì sợ mất đi lợi ích riêng
mình, nên tâm ích kỷ mới tác quái. Rồi mình mới đi lừa người khác, nói lời
dối trá, muốn người khác không biết được bộ mặt thật của mình.
5. Không Tư Lợi: Không tư
lợi sẽ giúp mình không phạm tửu giới. Con người vì sao uống rượu? Là vì
muốn hưởng thụ, muốn thân thể mình sung sướng. Nhưng sung sướng làm tâm
mình mê loạn khủng hoảng; cứ tưởng rằng đã trở thành thần tiên, tiêu dao
trên trời vậy. Khi đã say rượu thì lại chửi rủa người khác, muốn làm gì
thì làm, tăng trưởng thêm lòng dâm dục. Có người muốn đem rượu lại trợ cho
huyết khí được lưu thông sảng khoái. Nhưng uống rồi thì mọi sự đều quên
hết. Cũng đồng một loại với hút thuốc phiện, xì ke, ma túy. Ðó đều do tâm
tự lợi hoành hành; cho nên mới đi uống rượu.
6. Không Vọng Ngữ:
Như vậy, Lục Ðại Tông-chỉ
chính là Ngũ-giới. Tại sao không nói Ngũ-giới? Là vì danh từ Ngũ-giới nghe
quen rồi, nên khi nghe không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
vọng ngữ, không uống rượu thì người ta thường nói: "Tôi biết rồi, bạn nói
mãi lời nầy làm chi?" Bởi vậy nên đổi thành: không tranh, không tham,
không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối. Những danh từ này
ai ai cũng nghe qua, cũng đã biết rồi. Nhưng rất ít người thật sự thực
hành chúng, vậy tôi lại nhắc lại rằng:
Không tranh, tức là không
sát sinh;
Không tham, tức là không
trộm cắp;
Không cầu, tức là không
dâm dục;
Không ích kỷ, tức là không
vọng ngữ;
Không tự lợi, tức là không
uống rượu.
Giảng ngày 5 tháng 12, năm
1982 tại Vạn Phật Thánh Thành.
Biểu Hiện của Ðức Hạnh
Tu đạo nghĩa
là tu đạo đức chơn chính,
không chướng ngại
ai, cũng không sợ ai chướng ngại mình.
Lúc bắt đầu tu, người học
Phật-pháp phải gieo hạt giống xuống đất. Sau khi hạt giống được gieo, nó
có thể nẩy mầm lớn lên chăng? Xem nhân duyên có đủ hay không. Hạt giống
thuận lợi nẩy nở khi tất cả trợ duyên đều đầy đủ. Nếu chẳng đầy đủ thì hạt
giống có thể bị tiêu hủy. Nếu xét khi mình phát Bồ-đề tâm, trồng chủng tử
Bồ-đề xuống rồi, hãy xem chủng tử đó trồng được xuống sâu hay không, có
kiên cố lắm không?
Nếu mình trồng đủ sâu, đủ
kiên cố chắc thật, thì tương lai chủng tử sẽ sinh căn phát nhạ. Muốn được
kết quả Bồ-đề thì cần phải một thời gian tương đương, coi thử mình sẽ dụng
công như thế nào? Nếu mình dụng công tới tấn, khai ngộ chứng quả, thành
tựu giác đạo, thì có thể coi như là gặt hái được thành công.
Từ lúc chủng tử sinh căn
phát nhạ đến lúc ra hoa kết trái; quá trình đó trải qua một thời gian dài
cần ta luôn bồi dưỡng, tưới nước, bón phân. Phân bón là gì? Tức là đạo
đức. Người tu hành ở bất cứ mọi nơi phải nương nơi đạo đức, lấy đạo đức
làm căn bản của giới điều.
Ðạo Nho nói rằng:
"Ðức giả bổn dã, tài giả
mạt dã." Nghĩa là đức là gốc mà tiền tài vật chất là ngọn. Ðức hạnh là gốc
của con người, còn tiền tài vật chất là những thứ ngọn ngành. Người tu Ðạo
lúc nào cũng phải biết tiếc phước, đừng nên phí phạm tiền bạc vật chất.
Như vậy trải qua ngày tháng lâu dài thì có thể bồi dưỡng đức hạnh của
mình. Hoa quả sinh ra rất là mau thành. Nếu như mình không ra sức bồi
dưỡng tưới nước, bón phân thì hoa quả đó rất dễ bị khô héo rồi chết đi.
Cho nên đối với người tu, điều quan trọng nhất là phải chú trọng đến đức
hạnh.
Ðức hạnh là ở nơi rất nhỏ
nhặt mà tập thành: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi" nghĩa là đừng coi những
chuyện thiện nhỏ mà không làm, rồi chỉ chờ làm những chuyện thiện lớn.
Chuyện thiện lớn chẳng có nhiều đâu. Núi to là do từng hạt bụi nhỏ kết tập
thành, bụi tuy nhỏ nhưng kết tập nhiều thì thành một khối núi lớn. Ðức
hạnh tuy là nhỏ, nhưng nếu mình tích tập nhiều thì cũng có thể thành một
khối đức hạnh lớn vậy.
Không đi ngược lại đạo đức
tức là đức hạnh. Không chướng ngại kẻ khác tức là đạo đức. Bất luận làm
chuyện gì, nên xem bổn phận mình là giúp đỡ người khác. Trên phương diện
lợi ích, thời gian, văn hóa hay trí huệ, hoặc tất cả mọi sự, nếu mình trở
ngại người khác, không làm lợi ích cho ai cả, tức là mình đã đi ngược lại
với đạo đức. Cho nên nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hạnh mình chớ đi
ngược lại đạo đức căn bản. Nếu muốn tu đạo, trước tiên cần bồi dưỡng đạo
đức, không có đức hạnh thì không thể tu đạo được. Có người muốn tu đạo thì
ma chướng tới tìm, bởi vì người nầy chẳng có đức hạnh. Cho nên nói rằng:
Ðức giả bổn dã, tài giả
mạt dã.
Nghĩa là:
Ðạo đức là gốc, tiền tài
là ngọn.
Ðạo đức giống như mặt trời
mặt trăng, giống như trời đất, và cũng giống như tánh mạng con người vậy.
Không có đạo đức thì mình không có tánh mạng, không có mặt trời mặt trăng,
và cũng chẳng có thiên địa. Thế nào là đạo đức? Tức là lấy việc làm lợi
ích cho người khác làm chủ, không chướng ngại người khác làm tông chỉ,
trong tâm lại sung mãn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1. Nhân: Là tâm nhân ái
không muốn sát hại sinh mạng kẻ khác.
2. Nghĩa: Lòng nhận thức
biết làm chuyện gì phải, và làm hết sức đứng đắn, đúng với trung-đạo,
không có thái quá cũng không có thiếu sót, không nghiêng về bên phải cũng
chẳng lệch qua phía trái, luôn luôn trung-đạo. Hiểu biết nghĩa lý thì
không ăn cắp. Người có nghĩa khí thì không bao giờ ăn cắp đồ vật kẻ khác.
3. Lễ: Là lễ thứ lễ mạo,
lễ tiết. Nếu mình có lễ tiết thì không làm những chuyện gian dâm. Ăn cắp
và tà dâm đều là thứ không hợp với lễ nghĩa, đi ngược lại với luân thường.
4. Trí: Người có trí huệ
thì không bao giờ uống rượu, hay hút thuốc xì ke, ma túy, những thứ độc
dược. Người ngu si thì mới làm những thứ điên đảo nầy.
5. Tín: Người có thành tín
thì không bao giờ nói dối cả.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín,
đó gọi là Ngũ-thường. Hễ mình có đầy đủ Ngũ-thường này tức là có đạo, có
đức. Cho nên đạo đức là do từ nơi tâm sinh ra. Nhưng khi phát ra thì nó có
nhiều hình thái: có xanh, vàng, đỏ, trắng, và đen. Ðó là biểu hiện của đức
hạnh, là ánh sáng của đức hạnh. Cho nên ông Hàn Dũ trong bài Nguyên Ðạo có
một đoạn văn nói rằng: "Bác ái chi vị Nhân. Nhân nhi nghi chi chi vị
Nghĩa. Do thị nhi chi yên chi vị Ðạo. Túc hồ kỷ vô ỷ ư ngoại chi vị Ðức."
Nghĩa là lòng bác ái tức là lòng Nhân. Lòng nhân đúng cách (hợp lẽ) thì
gọi là Nghĩa. Nhờ đó mà tiến tới gọi là Ðạo. Ðầy đủ nơi mình không dựa vào
bên ngoài nên gọi là Ðức." Ông Mạnh Tử cũng nói rằng: "Nhân nghĩa lễ trí
căn ư tâm, kỳ sinh sắc dã, túy nhiên kiến ư diện, áng ư bối, thí ư tứ thể,
tứ thể bất ngôn nhi dụ." Nghĩa là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí sinh gốc rễ trong
tâm mình. Màu sắc của nó chiếu soi nơi vẻ mặt, sáng soi nơi lưng, vận dụng
nơi tay chân. Tứ thể không cần nói nhưng biểu hiện đã rõ. Người có đức thì
không những biểu hiện nơi khuôn mặt của mình, mà ngay trên lưng của mình
cũng lưu lộ ánh sáng đức độ, thậm chí cho đến tay chân cũng có thể biểu
hiện ra đạo đức đó. Ðức tướng nầy không cần nói mà tự nó phát hiện ra,
khiến ai ai cũng thấy một cách rõ ràng. Sự biểu hiện của đức hạnh chân
chính đó là do công phu dụng công. Ðức hạnh nầy mình không thể giả trang
được, nếu như hư dối thì chỉ tạm thời thôi, chớ không thể vĩnh viễn lừa
dối người khác được.
Tu đạo nghĩa là tu chơn
chính đạo đức, không chướng ngại kẻ khác, cũng không sợ người khác chướng
ngại mình. Ai chướng ngại mình thì mình đều tiếp nhận cả. "Nghịch lai
thuận thọ" (chuyện đến nghịch ý mình, song cứ tùy thuận thọ nhận), ai đối
với mình không có từ bi, vô lý, đều là thiện-tri-thức của mình. Nếu mình
có thể "nghịch lai thuận thọ" thì mới thấy được công phu nhẫn nhục của
mình. Ðừng để lời nói của kẻ khác động tâm mình. Có những người làm như
"bất động" vì không biết hổ thẹn, đó là không đúng. Mình phải tu "bất
động," tức là phải nhẫn nhục những điều mà người ta không nhẫn nhục nổi.
Vậy mới gọi là chân chính công phu, còn ngược lại mình phải từ đầu mà
luyện tập.
Trong Lão-giáo nói: "Tam
hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều nguyên," nghĩa là biểu hiện của đạo đức viên
mãn rồi. Những tín đồ trong Phật-giáo nghe qua danh từ nầy thì cho là
ngoại đạo. Kỳ thật thế nào gọi là ngoại đạo? Thế nào là nội đạo? Tên nầy
chẳng có gì là ngoại hay nội đạo cả. Ðó chỉ dùng để hình dung kết quả
thành tựu của sự tu hành. "Tam hoa" có nghĩa là tinh, khí, thần, ba thứ
nầy đã biến hóa trở thành một thứ quang hoa. "Ngũ khí" tức là Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín, năm khí nầy đã hoàn toàn viên mãn, nên gọi là ngũ khí triều
nguyên.
Trong Phật-giáo, khi đạo
đức đã viên mãn rồi thì sẽ đạt được Ðại-viên kính-trí, Bình-đẳng Tánh-trí,
Diệu-quán Sát-trí, Thành-sở tác trí. Tức là Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn,
Lục Thông, không thiếu một thứ nào. (Tam Thân: pháp thân, báo thân, hóa
thân; Tứ Trí: Ðại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí,
Thành sở tác trí; Ngũ nhãn: Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, thiên nhãn,
nhục nhãn; Lục thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông,
thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông). Thiếu một thứ tức là không
đạt tới được cảnh giới viên mãn. Cho nên Phật-giáo vạn đức trang nghiêm,
có thể bao quát tất cả mọi tôn giáo, mà mọi tôn giáo chỉ là một bộ phận
của Phật-giáo. Vì vậy tôi thường nói: "Phật-giáo cũng như đại học,
Lão-giáo và những tôn giáo cao siêu khác thì coi như trung học, các tôn
giáo thế gian như Nho-giáo chỉ ở trình độ tiểu học mà thôi."
Tại tiểu học, trung học
hay đại học mọi người đều là học sinh; trong thế giới các tôn giáo, tín đồ
là những nhân sĩ của tôn giáo. Vì thế mình không thể phân môn biệt loại,
phân chia ngăn cách, cho tôn giáo mình là tốt, tôn giáo khác là xấu: "Nhập
giả nô chi, xuất giả ô chi" nghĩa là theo thì thuộc phe mình, không theo
mình thì bị chê bai, thái độ quan niệm đó là sai lầm. Tất cả mọi tôn giáo
đều là một bộ phận của Phật-giáo. Quan điểm này mới đúng. Bởi vì đức Phật
nói: "Tất cả chúng sinh đều có đức tướng trí huệ của Như Lai, đều có thể
thành Phật." Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Vậy thì ngoại đạo cũng là
chúng sinh, cũng có cơ hội thành Phật, thì làm sao mình lại bỏ ngoại đạo
ra ngoài Phật-giáo được? Phạm vi của Phật-giáo thì bao trùm tận hư không,
biến pháp giới, không có biên tế, không có rào cản ngăn cách chia rẽ,
không có mình và người. Cho nên người học Phật phải có tâm lượng quảng
đại, đừng quá nhỏ hẹp.
Ở trong đạo Lão, người có
đức hạnh thì có một sự biểu hiện mà người khác nhìn vào có thể biết, như
là tóc trắng như hạc, mặt mày nhan sắc hết sức hồng hào tươi tốt, trẻ
trung. Ðó là vì sao? Là bởi vì đạo đức của họ cảm chiêu biến hóa mà thành.
Tuy là đầu bạc nhưng tóc không bị khô cằn, lại có khí rất là quang nhuận,
một sợi tóc của họ có thể phóng quang. Người có công phu, có khai ngũ-nhãn
rồi khi nhìn sẽ biết ngay.
Phật-giáo thì còn cao hơn
một tầng nữa bởi vì không những tóc phóng quang, mà toàn thân, mỗi chân
lông đều phóng quang. Mỗi một lỗ chân lông của họ đều khác với những người
phàm phu. Người có công phu tu hành trong Phật-giáo thì có thể làm tóc
trắng biến thành đen, răng rụng rồi mọc trở lại. Người trong đạo Lão cũng
có những kẻ làm răng rụng mọc lại, song họ không thể làm toàn thân, mỗi lỗ
chân lông phóng quang được, đó là chỗ khác biệt với Phật-giáo vậy. Quý-vị
muốn coi người nầy có phải là thiện-tri-thức hay không? Không cần phải có
ngũ-nhãn, chỉ cần mình có tu luyện thì sẽ nhìn và biết được người đó phải
là thiện-tri-thức không? Người đó có đức hạnh không. Người không có đức
hạnh thì mặt mũi ghê tởm, xấu xí làm ai cũng sợ hãi, lánh xa.
Giảng tối ngày 17 tháng
12, năm 1982 Tại Vạn Phật Thánh Thành
Thiền Thất Hối Ngữ
Người tu hành lão
luyện vì muốn liễu sinh thoát tử, nên họ giữ lấy câu thoại đầu một cách
khẩn thiết, không một giây, một phút nào mà họ không dụng công.
Lần nầy Vạn Phật Thánh
Thành đả thiền thất, và lại đả Phật thất, song trình độ chưa phải là chân
chính đả thiền thất hay Phật-thất; bất quá quý-vị chỉ tập luyện mà thôi.
Tại sao vậy? Bởi vì tập khí lỗi lầm từ vô lượng kiếp đến nay khiến mình
lười biếng quen rồi, tất nhiên bây giờ chơn chính tu đạo, thì rất khó có
thể làm được liền. Chùa Cao Mân ở Trung Quốc mỗi lần đả thiền thất thì quy
luật của họ là không người nào được nói chuyện cả; một phút, một giây cũng
không được làm biếng nghỉ ngơi. Trong thiền đường không thể tùy tiện đi
lui đi tới, đi vô đi ra; cho dù mình có chết đi, thì thi thể cũng không
được đem ra ngoài chôn, mà sẽ bị vất dưới ghế mà thôi.
Bây giờ ở đây đột nhiên
kêu người ta dụng công như vậy, thì không thể được. Từ xưa ở Chùa Cao Mân
những người tu hành lão luyện, đều đem tánh mạng đạo). Từ nơi chỗ rốt ráo
này mà phát sinh ra nào Phật, nào Bồ-tát, nào Thánh, nào Trời, nào Ðất,
nào Tiên.
Người dụng công phải
chuyên tâm trì chí, không nên bị cảnh giới làm cho chuyển động. Tham thiền
cần phải nhớ đạo lý trong Kinh Kim Cang: "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm"
tức là hãy để tâm vận hành ở chổ nó chẳng có trụ trước. Ðó là đạo lý căn
bản mà Ngài Lục Tổ Huệ Năng khai ngộ. Nhưng có bao nhiêu người nghe qua
rồi, tụng qua rồi được khai ngộ? Nên khi tôi giảng Kinh Kim Cang, tôi nói:
"Kinh văn thì như vậy, nhưng khai ngộ có mấy ai?"
Lục Tổ Ðại Sư là người
không biết chữ nghĩa gì hết, hằng ngày lên núi đốn củi đem về bán, nhưng
khi nghe một câu kinh Ngài liền khai ngộ. Ðó là vì trong nhiều kiếp trước
Lục Tổ Ðại Sư đã hết sức chân thật tu hành, nên khi nghe qua câu Kinh Kim
Cang thì liền khai ngộ. Tại sao chúng ta bây giờ nghe qua nhiều lần mà vẫn
chưa khai ngộ? Là vì từ xưa mình chưa có tu hành, chỉ thích coi truyền
hình, xem xi-nê, đi nhảy đầm, ăn uống vui chơi, chưa từng nghiên cứu qua
kinh điển.
Kinh Kim Cang lại còn dạy
rằng: "Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả
tướng." Trong lúc tọa thiền thì mình có ngã tướng, có nhân tướng hay
không? Có chúng sinh tướng hay không? Có thọ giả tướng hay không? Nếu muốn
chẳng có thì mình phải tìm cách quét sạch đi bốn tướng đó; khiến ba cái
tâm biến mất đi, tức là tâm hiện tại, tâm quá khứ, tâm vị lai. Ba tâm nầy
không thể nắm bắt được thì tứ tướng đó làm sao mà có.
Kinh Kim Cang lại nói
rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp,
như mộng huyễn bào ảnh.
Như lộ diệc như điển, ứng
tác như thị quán.
Nghĩa là:
Tất cả pháp hữu vi, như
mộng mị huyền ảo,
Như bọt bèo bóng tối, như
sương đọng,
như điện chớp, phải thấy
suốt như vậy.
Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ
âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo, bất
năng kiến Như Lai.
Nghĩa là:
Nếu thấy ta có sắc tướng,
tìm Ta nơi âm thanh
Kẻ đó đi đường tà, chẳng
thấy được Như Lai.
Khi chúng ta tọa thiền,
đừng để âm thanh làm cho ta động tâm, đừng tùy theo sắc tướng mà làm ta
xoay chuyển. Có người tu hành đã lâu rồi, nhưng khi có được cảnh giới thì
chấp trước vào cảnh giới, đó là sai lầm. Mình phải "Thính nhi bất văn, thị
nhi bất kiến." Nghĩa là nghe nhưng không lọt vào tai, nhìn mà không có
thấy. Không nghe, không thấy thì sẽ không bị cảnh giới chuyển lay.
Giảng ngày 18 tháng 12 năm
1982
Viên Mãn Mười Tuần Thiền
Không kể khi xưa
ra sao, chỉ cần từ nay về sau mình thay đổi triệt để, thành con người mới.
Kim nhật viên mãn thập
thiền thất,
Cải đầu hoán diện phát
Bồ-đề.
Thường triển Kim-cang
Trí-huệ-kiếm,
Tung hoành Nam Bắc dữ Ðông
Tây."
Nghĩa là:
Hôm nay viên mãn mười tuần
Thiền,
Bồ-đề tâm phát, đổi mặt
mày.
Thường tuốt gươm báu
Kim-cang trí,
Tung hoành ngang dọc khắp
bốn phương.
Hôm nay là ngày cuối của
mười tuần thiền thất, chúng ta khi xưa thế nào không cần biết, chỉ cần từ
nay về sau làm một người mới, thay đổi triệt để, từ đầu tu luyện lại, dứt
hẳn lòng tham lam quỷ quái hồi xưa là được rồi. Không nên như lúc xưa, chỉ
toàn dụng công phu nơi nhân ngã thị phi, mà cần phải phát đại Bồ-đề tâm.
Mình phải luôn luôn tuốt
bảo kiếm Kim-cang-vương Trí-huệ. Ðừng có ngu si; không ngu si tức là không
làm những chuyện điên đảo sai lầm. Thế nào là điên đảo? Là có vô minh ngu
tối, hôn muội, u ám. Mình lúc nào cũng phải cầm cây kiếm Kim-cang trí huệ
nầy tung hoành nam bắc, tiêu dao thiên hạ, muốn tới chỗ nào thì tới, đạt
được cảnh giới không có mình, không có người, không ràng buộc, ra ngoài
thị phi, hết sức tự tại.
Giảng ngày 16 tháng 11 năm
1983
Mười Pháp Giới Không Ngoài Một Niệm Của
Tâm
Mười Pháp-giới từ
đâu lại?
Chính từ tâm ta
hiện tiền một ý niệm ra.
Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật.
Ưng quán Pháp-giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.
Nếu ai muốn thấu rõ
Ba đời tất cả Phật,
Hãy quán tánh Pháp-giới,
Tất cả chỉ tâm tạo.
Nếu ai muốn thấu rõ: Nếu
có ai muốn hiểu biết rõ ràng Ba đời tất cả Phật, thì phải hiểu chư Phật
trong mười phương trong đời quá khứ, hiện tại, và vị lai đều do người mà
thành.
Hãy quán tánh Pháp-giới:
Hãy quan sát tánh chất của Pháp-giới. Chúng sinh trong Pháp-giới, ai ai
cũng có bản tính. Bạn có tánh của bạn, tôi có tánh của tôi. Như tánh nóng
nảy của bạn thì dữ dằn hơn tôi một chút, song tánh giận dữ của tôi thì sâu
đậm hơn bạn một chút. Như vậy bạn thấy có giống nhau chăng? Heo có tánh
heo, ngựa có tánh ngựa, đàn ông có nam tánh, đàn bà có nữ tánh... Ai cũng
có tánh riêng. Kẻ thích ăn ngọt thì có tính hảo ngọt; thích ăn chua, thì
có tính chua chát; thích ăn cay thì có tính nóng nảy; thích ăn đắng thì có
tính chịu đắng. Tu hành là việc có tính đắng. Cây thì có tính cây, hoa có
tính hoa, cỏ có tính cỏ... Cái gì cũng có tánh riêng. Do đó mới có Tánh
của Pháp-giới. Quý-vị đã hiểu chưa? Khi xưa quý-vị hiểu lầm, cho rằng tánh
của Pháp-giới, bây giờ nên hiểu rằng "tánh của chúng sinh" ở trong
Pháp-giới.
Tất cả chỉ tâm tạo: Kinh
Hoa Nghiêm dạy rằng: Vạn Pháp đều do tâm tạo ra. Ngay cả Phật cũng do tâm
quý-vị tạo ra đó. Nếu tâm quý-vị tu Pháp Phật thì thành Phật đạo. Nếu
quý-vị thích Bồ-tát hạnh thì tu Bồ-tát đạo, thành một vị Bồ-tát. Nếu
quý-vị lòng muốn đọa địa ngục thì cứ nhắm hướng địa ngục mà tu thì tương
lai sẽ đọa địa ngục. Cho nên nói: Mười Pháp-giới không rời một niệm tâm
này.
(I) Pháp-giới của
Phật
Bất đại bất tiểu, phi khứ
phi lai
Vi trần thế giới, giao ánh
liên đài.
Nghĩa là:
Không lớn không bé, chẳng
đến chẳng đi.
Thế giới như bụi, đài sen
chiếu nhau.
Bất đại bất tiểu: Khi lần
đầu tôi nghe đến chữ Phạn Buddha, nó nghe từa tựa như chữ Bất đại (bủ tá)
trong tiếng Trung Hoa. Cái gì không to lớn? Thì là Phật. Nghĩa là Phật
không có lòng cống cao, ngã mạn, không có cái Ngã. Bất tiểu là nói Phật
cũng không nhỏ bé đâu. Nếu không to lớn, mà nhỏ bé thì không phải là Phật.
Phật thì không lớn không nhỏ.
Phi khứ phi lai: Pháp thân
của Phật thì bao trùm tận hư không biến khắp Pháp-giới; không ở mà cũng
chẳng đi. Nếu nói rằng pháp thân đi, thì đi tới nơi đâu? Nói rằng pháp
thân đến, thì đến chỗ nào? Pháp thân thì vốn châu biến, chẳng phải chỉ ở
tại thế giới của ta mà là ở khắp mọi thế giới nhiều như hạt bụi. Vô lượng
vô biên thế giới đều có pháp thân Phật, nên nói rằng thân Ngài ở vi trần
thế giới.
Giao ánh liên đài: Giao
ánh diễn tả hào quang của Phật ở Pháp-giới này chiếu sáng chư Phật ở
Pháp-giới kia. Hào quang của Phật ở Pháp-giới kia lại chiếu sáng Pháp-giới
này. Chư Phật ngự trên đài sen, hổ tương phóng quang động địa, chẳng những
các Ngài dùng sáu căn phóng quang động địa mà mỗi lỗ chân lông đều phóng
quang động địa.
Cũng trong một chân lông
xuất hiện vô lượng vô biên chư Phật, rồi mỗi một vị Phật ấy lại phóng ra
vô lượng vô biên hào quang. Quang và quang không chút xung đột, mà ngược
lại, hòa hợp. Vì vậy Phật-tử chúng ta phải hòa hợp như ánh quang minh vậy.
Giữa người với người, chớ sinh ra sự xung đột. Sự giao ánh có nghĩa là ánh
sáng của bạn chiếu tới tôi, ánh sáng của tôi soi tới bạn; quang quang
tương chiếu, hệt như sự tương thông của mỗi lỗ trên võng la tràng (lưới) ở
trời Ðại Phạm Thiên Vương vậy.?nh sáng từ cái võng ấy, lớp nầy chiếu lên
lớp nọ, trùng trùng vô tận. Ðó là Pháp-giới thứ nhất, Pháp-giới của Phật.
(II) Pháp-giới của
Bồ-tát
Hữu tình giác ngộ,
Khiêu xuất trần ai.
Lục độ vạn hạnh,
Thời khắc bồi tài.
Nghĩa là:
Khi hữu tình giác ngộ,
Hãy thoát khỏi bụi trần.
Lục độ vạn hạnh,
Lúc nào cũng dưỡng dũ.
Hữu tình giác ngộ: Bồ-tát
là tiếng Phạn, dịch là "giác hữu tình," giác ngộ tất cả hữu tình. Lại còn
được hiểu rằng Bồ-tát là một vị hữu tình đã giác ngộ. Với hai cách giải
thích này chúng ta đều có phần. Bởi vì mình là một hữu tình chúng sinh, do
đó mình có thể làm kẻ giác ngộ trong chúng sinh. Mình lại có thể dùng đạo
lý giác ngộ để thức tỉnh tất cả chúng sinh. Cũng vậy, Phật ví như người
lớn, còn chúng ta ví như con nít. Mỗi ngày mình phải uống sữa, phải nghe
Pháp, bởi nghe Pháp khiến mình tăng trưởng thiện căn, đặc biệt làm mình
khai trí huệ. Do đó khi có cơ hội nghe giảng Phật-pháp, cơ hội ấy giá trị
hơn bất kỳ đồng tiền nào mình làm ra. Có được thời giờ để nghiên cứu
Phật-pháp, chẳng phải là tuyệt hảo sao?
Tôi hy vọng những người ở
đây bớt đi du lịch. Vì sao? Bởi vì du lịch lúc này rất nguy hiểm. Quý-vị
xem: cứ mỗi kỳ hè người tử nạn nào phải chỉ có một, chắc hẳn nhiều lắm. Do
đó, nếu đi du lịch thì biết đâu quý-vị có phần trong số cố nạn nhân? Ở Mỹ,
ai cũng ham vui, thích đi du lịch. Tín đồ Phật-giáo mình phải cải thiện
thói quen ấy. Ngày nghỉ hè, hãy dành thời gian nghiên cứu Phật-pháp, tụng
Kinh, niệm Chú, lạy Phật là tốt hơn hết.
Bồ-tát là một vị hữu tình
đã giác ngộ. Trong tất cả bậcị giác ngộ, Ngài là vị hiểu thấu suốt. Trong
tất cả vị hiểu thấu suốt, Ngài là vị tu hành. Trong tất cả vị tu hành,
Ngài là người tu tập rất chân thật.
Khiêu xuất trần ai: Nếu
quý-vị không thông hiểu thì không sao nhảy thoát ra khỏi bụi trần, bởi vì
bụi trần quá dày đặc nên nhảy không ra nổi. Nếu quý-vị giác ngộ rồi, thì
bụi trần sẽ mỏng lắm, nhảy là thoát ngay. Nhưng nhảy ra rồi thì làm gì?
Phải chăng chỉ có ăn với nghỉ? Ðúng đó, quý-vị vẫn phải ăn uống, ngủ nghỉ,
mặc áo; song không phải chỉ có thế. Quý-vị chẳng sống vì làm ba chuyện ấy.
Quý-vị sống là để tu Lục-độ-vạn-hạnh. Lục-độ tức là bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Có người nói: "Tôi biết rồi, bố thí
tức là dạy người ta bố thí cho mình." Không phải đâu! Mình phải bố thí cho
người. Ðừng nên ham tiền. Tiền là thứ dơ bẩn lắm. Nếu gần gũi nó lâu ngày,
quý-vị sẽ dính phải bụi dơ của nó. Do đó, hễ không tham tiền, bạn sẽ thanh
tịnh, nhảy vọt ra khỏi chốn bụi bặm.
Thời khắc tài bồi: Chẳng
phải ngày nay tu, ngày mai nghỉ tu; năm nay tu, sang năm ngừng; tháng này
tu, tháng sau nghỉ; đời này tu, đời sau bỏ; phút này tu, phút sau ngủ.
Không phải như vậy đâu! Trong mọi lúc, mọi thời, mọi đời, mọi kiếp, mình
phải tu lục độ vạn hạnh. Nếu đuợc như vậy thì quý-vị là Bồ-tát rồi đó.
Quý-vị tưởng rằng làm
Bồ-tát dễ lắm sao? Chẳng dễ đâu! Chẳng những không dễ làm Bồ-tát, ngay cả
làm Duyên Giác, Thanh Văn cũng chẳng dễ. Làm gì dễ dàng nhất? Làm quỷ, đọa
địa ngục, thành thú vật là việc dễ dàng nhất. "Khó" tức là không dễ. Do
vậy, Bồ-tát cần làm những việc khổ hạnh ai cũng cho là khó làm, nhẫn nhịn
những việc khó nhẫn nhịn. Chẳng phải thấy khó rồi bỏ không làm. Quý-vị hãy
dấn thân tiến bước, bởi vì kẻ tinh tấn tức là Bồ-tát. Chỉ có vậy. Chẳng có
gì xảo diệu hơn đâu. Nếu có thể làm việc không ai làm đặng, quý-vị mới là
Bồ-tát.
(III) Pháp-giới
của Duyên Giác
Duyên Giác Thánh Hiền,
Cô phong độc miên.
Xuân hoa thu tạ,
Thập nhị liên hoàn.
Nghĩa là:
Thánh Hiền đấng Duyên
Giác,
Chót đỉnh một mình ngủ.
Hoa xuân, thu héo tàn,
Vòng tròn, mười hai khoen.
Duyên Giác Thánh Hiền:
Duyên Giác là bậc Thánh Hiền, lúc các Ngài ở thời Phật tại thế thì gọi là
Duyên Giác; sau khi Phật nhập diệt, thì các Ngài được gọi là Ðộc Giác, bởi
vì các Ngài tự mình giác ngộ. Các Ngài thích "cô phong độc miên," ngủ một
mình trên đỉnh chót vót. Xuân hoa thu tạ: Khi các Ngài ngắm nhìn cảnh
"xuân đến, trăm hoa nở; thu về, lá vàng rơi." Ngài giác ngộ rằng mọi sự,
mọi việc trên đời đều tự nhiên có sinh có diệt. Thập nhị liên hoàn: Do đó
các Ngài quan sát mười hai nhân duyên (hổ tương tiếp nối sinh diệt giống
như mười hai móc khoen của dây xích.) Mười hai nhân duyên đó như sau:
1. Vô Minh: Các Ngài quán
sát xem vô minh từ đâu ra? Vì sao có vô minh?
2. Hành: Khi có vô minh
thì có hành động, tức là có sự biểu hiện, hiện bày. Khi có chỗ hiển bày
thì có thức.
3. Thức: Thức nghĩa là sự
phân biệt. Hành tức là pháp hữu vi. Khi có pháp hữu vi, tâm phân biệt liền
sinh khởi. Có tâm phân biệt thì có chuyện rắc rối rồi đấy!
4. Danh sắc: Cái rắc rối
ấy chính là danh sắc. Danh (hay tên) thì có rắc rối của danh. Sắc (hình
hài) thì có rắc rối của sắc. Có danh sắc là có rắc rối; có rắc rối chính
vì có danh sắc. Không nói thì chẳng sao, càng nói về nó thì càng rắc rối.
Giảng về nó là kéo ra rắc rối. Khi tôi chưa giảng, quý-vị vốn không biết,
nên không có gì rắc rối. Một khi tôi giảng ra, quý-vị không hiểu, thì có
sự rắc rối của việc không hiểu. Vì có sự rắc rối do không hiểu biết, nên
quý-vị muốn hiểu. Có ý muốn hiểu biết nên sinh ra lục nhập (sáu căn).
5. Lục Nhập: Sáu căn sinh
ra là vì muốn hiểu biết. Do đó nên gọi là tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý
tưởng. Vì sao sinh khởi lục nhập? Vì muốn hiểu biết. Có ai ngờ rằng càng
hiểu biết thì ta càng mê muội, càng mê muội thì càng không hiểu biết. Ðó
là sáu căn.
6. Xúc: Xúc nghĩa là xúc
chạm, tiếp xúc. Khi không hiểu biết thì ta cứ chạy xúc chạm đủ phía: nào
đông, tây, nam, bắc, trên, dưới. Giống như con ruồi cứ bay đâm chạm vào
tường hoài. Vì sao ta cần xúc chạm? Vì ta muốn hiểu biết.
7. Thọ: Sau khi tiếp xúc,
thì ta có cảm giác, đó là thọ. Khi không đụng phải việc khó khăn, cảm giác
rất thoải mái. Một khi đụng việc khó, mới thấy khó chịu. Khi không ai chê
mình xấu, mình thấy sung sướng lắm. Tới lúc bị chê, mới thấy không vui. Ðó
tức là thọ, hay cảm giác.
8. Ái: Khi có cảm giác thì
yêu thích, chấp trước sinh ra. Tại sao người ta có cảm giác bất an? Bởi vì
có ái. Có ái, có yêu thích thì có ghét bỏ, không thích. Ðối với thuận cảnh
thì sinh lòng yêu thích; với nghịch cảnh thì ghét bỏ. Vì sao mình vui? Vì
sao mình không vui? Tất cả đều vì có ái và ố. ố nghĩa là không yêu thích,
ghét bỏ. Vì vậy càng ngày sự việc càng rắc rối.
9. Thủ: Ðối với cái gì
mình yêu thích, thì sinh tâm muốn nắm giữ nó, tức là thủ. Thủ là gì? Là
chấp trước, muốn chiếm hữu, nắm giữ. Bởi vì có ái nên mới có lòng muốn
chiếm đoạt.
10. Hữu: Khi đã chiếm hữu
rồi, dục vọng liền thỏa mãn. Vì sao mình muốn thỏa mãn dục vọng? Vì muốn
có nó. Do đó mới có "hữu" tức là "có."
11. Sinh: Vì có cái "hữu"
nghĩa là "có, hiện hữu," nên cứ muốn nó thuộc về mình. Khi đã thuộc về
mình, thì liền có "sinh."
12. Lão tử: Hễ có sinh ra
thì có già, chết.
Ðó là mười hai nhân duyên,
là Pháp bậc Duyên Giác tu hành.
(IV) Pháp-giới của
Thanh Văn
Thanh Văn chúng Tăng
Bất luận nam nữ
Tứ đế quán hành
ẩn thật, thị quyền.
Thanh Văn chúng tăng:
Pháp-giới của Thanh Văn gồm có các bậc sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả
Thanh Văn. Trong đó lại chia thành: sơ quả hướng (chưa chính thức chứng
đắc sơ quả), sơ quả, nhị quả hướng, nhị quả, tam quả hướng, tam quả, tứ
quả hướng, tứ quả. Hướng có nghĩa là hồi tiểu hướng đại (bỏ cái nhỏ hướng
về cái lớn).
Hàng Thanh Văn còn được
gọi là A-la-hán hay La Hán. Các Ngài có thần thông có thể phi hành biến
hóa. Các vị chứng quả, không bao giờ tùy tiện thố lộ rằng: "Ta đã chứng
quả, ta là bậc A-la-hán." Ðó là việc không được làm. Khi bậc Thánh chứng
quả, chân họ đi dép chẳng chạm đất. Bạn thấy họ dường như đi bộ trên mặt
đất, nhưng thật ra họ bước trong hư không, dép không hề chạm đất. Thậm chí
khi đạp trên bùn nhơ, dép họ sạch sẽ vô cùng. Ví như Hòa-thượng Pháp
Thuận, khi Ngài dẫm chân lên bùn lầy lội, giày dép Ngài chẳng lấm tí bùn
nào. Ðó là dấu hiệu của kẻ chứng thánh quả.
Bậc sơ quả A-la-hán thì
phải cắt đứt những mê muội của cái thấy (kiến hoặc). Bậc nhị quả thì cần
đoạn những mê hoặc của tâm tư (tư hoặc). Bậc tam quả thì phải đoạn những
mê muội vi tế như cát bụi (trần sa hoặc). Bậc tứ quả cũng phải đoạn trần
sa hoặc và vô minh. Hoặc đoạn trừ một chút vô minh quét sạch hoàn toàn thì
quý-vị sẽ thành Phật. Do đó các vị Bồ-tát và Duyên Giác vẫn còn một phần
vô minh rất vi tế gọi là sinh tướng vô minh (vô minh ở trạng thái nẩy
sinh) chưa đoạn trừ, do đó các Ngài chưa thành Phật được. Bậc tứ quả Thanh
Văn tu hành pháp môn gì? Các Ngài tu Tứ Diệu Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
Lúc ban sơ, Ðức Phật Thích
Ca tới vườn Lộc Uyển để độ năm vị Tỳ-kheo. Năm vị này đều là bà con của
Ngài. Họ theo Ngài tu đạo, song không chịu đựng nổi khổ nhọc. Lúc Ðức Phật
Thích Ca ở núi Tuyết Sơn, mỗi ngày Ngài ăn một hột mè, một hạt mạch, ốm
gầy như cây sậy. Ba vị đồng tu với Ngài, vì chịu không nổi khổ nên bỏ đi,
chỉ còn lại hai vị. Về sau, vào ngày tám tháng chạp, có vị thiên nữ đem
sữa lại dâng Ðức Phật Thích Ca; Ngài liền tiếp nhận, uống sữa ấy khiến hai
vị kia cũng bỏ Ngài đi. Họ nói rằng: "Tu hành cần phải tu khổ hạnh. Bây
giờ Ngài uống sữa, chẳng còn khả năng tu hành nữa. Ngài chẳng chịu đựng
khổ sở được nữa rồi." Do đó họ bỏ đi. Thế là cả năm vị đều bỏ đi, tới vườn
Lộc Uyển.
Ðức Phật Thích Ca sau khi
giác ngộ thành Phật, Ngài thuyết Kinh Hoa Nghiêm trước hết, song chẳng
người nào nghe đặng. Vì thế Ngài phải ẩn thật thị quyền (dấu cái chân
thật, thị hiện cái quyền biến), mới thuyết Kinh A Hàm. Song nói Kinh này
với ai đây? Phật quan sát rằng: "A! Thì là năm vị đồng tu với ta khi trước
chớ ai! Ta phải độ họ trước tiên."
Ðó là vì trong quá khứ xa
xưa Phật có phát nguyện: "Nếu ta thành Phật, trước hết ta sẽ độ cho tất cả
kẻ hủy báng ta, sát hại ta, đối với ta không tốt." Ai là kẻ cư xử không
tốt với Ngài xưa kia? Thì chính là vua Ca-Lợi mà Kinh Kim Cang đề cập tới.
Khi Ðức Phật Thích Ca ở
nơi nhân địa tu hành, làm một vị tiên nhân nhẫn nhục thì có Ca Lợi Vương
lại cắt xén thân thể Ngài. Vì sao y cắt xén thân Ngài?
Bởi vì Ngài ở núi tu đạo,
thân Ngài bụi bặm đóng dầy. Ngài lại không xuống núi, cứ ở mãi trên ấy
dụng công tu trì khổ hạnh. Bữa nọ, Ca Lợi Vương đem theo các cô cung tần
mỹ nữ săn bắn ở chốn núi sâu ấy. Các cô vốn ham vui nên không theo vua đi
săn mà lại leo núi chơi. Vua Ca Lợi đi săn về, tìm các cô thì chợt thấy
các cô đang tụm lại một chỗ nói chuyện với một nhân vật kỳ quái. Có cô thì
rờ tay, có cô sờ chân vị ấy, coi bộ chẳng giữ phép tắc gì cả. A ha! Vua
sinh lòng ghen tuông, mới bước tới nghe xem vị kia nói gì? Thì chỉ nghe vị
ấy nói toàn là việc tu hành, tu đạo! Vua nổi giận, mắng: "Nhà ngươi không
được lừa bịp các cung nữ của ta! Ngươi tu hành cái đạo gì hả?" Vị tiên
nhân đáp: "Tôi tu nhẫn nhục." "Thế nào là nhẫn nhục?" "Thì tức là ai chửi
rủa tôi, ai đánh đập tôi, tôi không sinh lòng sân hận." "Ngươi có thể nhẫn
nhục sao? Thật hả? Hay là giả?" "Ðương nhiên là thật rồi!" "Ðược, ta sẽ
thử nhà ngươi xem!" Nói rồi vua Ca Lợi liền tuốt kiếm xông tới, chém cụt
cánh tay của vị tiên nhân. Vua nói: "Ta đã chém đứt cánh tay của ngươi,
ngươi có nóng giận chăng?" Vị tiên nhân đáp: "Tôi chẳng sân hận đâu."
"A! Tốt lắm! Ngươi chẳng
sân hận, đúng là có chút bản lĩnh. Song ngươi chỉ nói dối, lòng ngươi hẳn
giận dữ lắm, mà miệng thì cứ chối không nổi nóng để lừa ta! Ta là kẻ sáng
suốt lắm, đời nào để ngươi lừa. Ðược. Ngươi nói ngươi có thể nhẫn nhục,
không nổi giận, vậy thì cánh tay kia, ta cắt cụt luôn! Nói xong, vua chém
nốt cánh tay kia, và hỏi rằng: "Ngươi có sân hận hay không hả?" Vị tiên
nhân đáp rằng: "Tôi vẫn không sân hận đâu." Lúc ấy vua Ca Lợi lại cầm kiếm
chém nốt hai chân Ngài, xong lại hỏi: "Ngươi có giận hay chăng?" Vị tiên
nhân vẫn trả lời: "Tôi vẫn không giận dữ đâu. Làm sao chứng minh cho lời
tôi đây? Nếu quả thật tôi giận dữ Ngài, chân tay tôi không phục hồi đặng.
Nếu tôi chẳng hề có chút lòng sân giận, chân tay tôi sẽ mọc ra như cũ. Ðó
là bằng chứng tôi không có lòng giận dữ." Khi vị tiên nhân, tức tiền thân
Ðức Phật Thích Ca, thốt ra lời ấy rồi, chân tay Ngài quả nhiên mọc ra như
cũ.
Bấy giờ thiên long bát bộ,
hộ Pháp thiện thần, khi thấy vua Ca Lợi tàn ác dám cắt tứ chi của kẻ tu
hành như vậy thì họ liền hiển oai thần, giáng mưa đá xuống người vua Ca
Lợi. Lúc ấy vua biết sự lợi hại, thấy được thần thông biến hóa của vị
tiên, nên vua liền chạy đến quỳ trước mặt vị tiên nhân, xin sám hối. Vị
tiên ấy mới phát nguyện rằng: "Nếu ta không thành Phật thì chẳng có gì
đáng nói. Nếu ngày nào đó ta thành Phật, ta sẽ độ cho ông thành Phật trước
hết. Nếu ông không khai ngộ, không thành Phật, ta cũng chẳng thành Phật."
Vì vậy sau khi Phật thành Phật rồi, Ngài liền đến vườn Lộc Uyển độ ông
Kiều Trần Như trước tiên. Vị tiên nhân chính là Ðức Phật Thích Ca, mà Kiều
Trần Như chính là vua Ca Lợi.
Khi nghe đến công án trên,
mình phải biết rằng: ai đối với mình không tốt, mình phải phát nguyện khi
thành Phật mình độ họ ngay. Chẳng nên nói: "Mày cư xử tệ hại với tao quá.
Chờ tới lúc thành Phật, tao sẽ làm mày rớt xuống địa ngục cho coi!" Chẳng
nên có nguyện vọng như thế.
Khi đến vườn Lộc Uyển,
Ngài ba lần giảng Pháp Tứ Ðế (gọi là tam chuyển Tứ Ðế Pháp Luân) cho năm
vị tỳ kheo:
Lần đầu chuyển Pháp Tứ Ðế
là:
Ðây là Khổ. Tánh của khổ
là bức bách.
Ðây là Tập (nguyên nhân
của khổ). Tánh của tập là chiêu cảm.
Ðây là Diệt (chấm dứt đau
khổ). Sự dứt khổ có thể chứng đắc.
Ðây là Ðạo (con đường dứt
khổ). Con đường dứt khổ có thể tu tập đặng.
Lần thứ hai chuyển Pháp Tứ
Ðế là:
Ðây là khổ, con phải biết.
Ðây là nguyên nhân của
khổ, con phải đoạn trừ.
Ðây là sự hết khổ, con
phải chứng đắc.
Ðây là con đường hết khổ,
con phải tu tập.
Lần thứ ba chuyển Pháp Tứ
Ðế là:
Ðây là khổ, ta đã biết,
không cần biết thêm nữa.
Ðây là nguyên nhân của
khổ, ta đã đoạn hết, không cần đoạn thêm nữa.
Ðây là sự hết khổ, ta đã
dứt sạch, không cần dứt thêm gì nữa.
Ðây là con đường hết khổ,
ta đã tu thành, không cần tu thêm nữa.
Khi Phật ba lần quay bánh
xe Pháp Tứ Ðế rồi, Ngài dạy rằng: "Này Kiều Trần Như, hiện giờ ông đang bị
khách-trần quấy nhiễu, khiến ông chẳng đặng giải thoát." Khi Kiều Trần Như
nghe tới hai chữ khách-trần thì Ngài liền khai ngộ. Sao gọi là khách? Tức
không phải ông chủ. Sao gọi là trần? Trần hay bụi bặm là thứ không sạch
sẽ. Tự tánh của ta vốn là ông chủ, tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Do đó
Ngài khai ngộ nó, được Phật đặt tên là "Giải Bổn Tế," nghĩa là thông đạt
lý giải chân lý sẵn có xưa nay.
Thanh Văn tăng chúng "Bất
luận nam nữ;" Người nữ cũng có thể chứng quả, người nam cũng chứng được
quả. Hễ chứng quả tức thành Thanh Văn, A-la-hán. Ví như mẹ của Ngài Cưu Ma
La Thập đã chứng đặng tam quả A-la-hán.
Tứ Ðế Quán Hành: Quán Hành
nghĩa là quán sát tu hành. Quán sát tu hành gì? Tức là Tứ Ðế: Khổ tập diệt
đạo. Phải biết khổ, đoạn trừ tập nhân, hướng về diệt, tu hành đạo Pháp. Ðó
là tu Pháp môn Tứ Ðế.
Ẩn
thật thị quyền: Các bậc Thanh Văn này, có Ngài vốn là bậc đại Bồ-tát quyền
biến hiện ra thành Thanh Văn. Do đó mới gọi là "ẩn thật," nghĩa là dấu đi
công đức thật có của các Ngài. "Thị quyền;" thị nghĩa là chỉ thị, cho
thấy; quyền nghĩa là quyền xảo, phương tiện. Quý-vị chớ cho họ là Thanh
Văn, là tiểu thừa rồi xem thường họ. Ðừng nên làm thế. Không phải ai trong
các Ngài Thanh Văn đều là Bồ-tát, song nhất định rằng trong các vị ấy có
vị là đại thừa Bồ-tát. Ngài hiện thành kẻ tiểu thừa để tiếp dẫn kẻ căn cơ
tiểu thừa, khiến họ bỏ tâm nhỏ hẹp, phát tâm rộng lớn. Do đó gọi là ẩn
thật thị quyền.
(V) Pháp-giới của
Chư Thiên
Lục dục Phạm thiên
Ngũ giới thập thiện
Chủng hữu lậu nhân
Luân hồi nan đoạn.
Nghĩa là:
Trời lục dục và Phạm thiên
Do tu Ngũ giới, thập
thiện.
Ðều là trồng nhân hữu lậu
Nên khó cắt đoạn luân hồi.
Lục Dục Phạm Thiên: Lục
Dục Thiên còn gọi là Dục Giới Thiên. Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên và Vô
Sắc Giới Thiên hợp lại gọi là Tam Giới. Chúng ta hiện tại đang ở trong
phạm vi của Tứ Thiên Vương Thiên, là một trong sáu cõi trời ở Dục-giới.
Bầu trời mà mình nhìn thấy đây chính là trời Tứ-vương, do bốn vị thiên
vương cai quản. Trời này nằm ở lưng chừng núi Tu Di.
Người Trung Hoa thuở xưa,
không biết Phật là ai, chỉ biết có thượng đế. Do đó khi vua Thang đời nhà
Thương, dùng bò đen để tế trời, Ngài nói rằng: "Tôi, tiểu tử tên Lữ, dám
xin dùng bò đen này, dám xin bạch với đấng Hoàng Hoàng Hậu Ðế.... Nếu tôi
có tội, tội ấy chẳng phải của vạn dân. Nếu vạn dân làm tội, tội ấy thuộc
về tôi." Ngài nói rằng: "Tôi tiểu tử tên Lữ." Vua Thang có tên là Lữ, ngài
tự xưng là tiểu tử, là Ngài lễ phép khiêm nhường cho mình là một đứa trẻ
vô dụng, "Dám xin dùng bò đen này." Tức là dám dâng đến thứ bò sắc đen
huyền. "Dám xin bạch với Hoàng Hoàng Hậu Ðế." Tức là tôi xin chí thành
khẩn thiết, bẩm trình với thượng đế. Rằng: "Nếu tôi có tội, tội ấy chẳng
phải của vạn dân." Tội của tôi xin đừng đổ lên đầu người dân. Vạn dân tức
là bách tánh, dân chúng. "Vạn dân làm tội, tội ấy thuộc về tôi." Tức rằng
nếu người dân có tội, xin đừng trách họ, bởi vì do tôi không dạy dỗ họ
đàng hoàng, do đó tội của họ, tôi cần phải gánh chịu.
Các vị thánh nhân xưa kia
chỉ tự trách mình, phạt mình; không như người đời nay: rõ ràng biết mình
có tội lỗi; thế mà cứ nói: "ồ, chuyện ấy đâu dính gì tôi; anh ta làm đấy
mà!" "Ðó là lỗi lầm của hắn! Tại sao lại trách tôi?" "Ông trời thật bất
công. Tại sao y giàu đến thế, mà tôi thì nghèo xơ? Tại sao hắn sang thế mà
tôi thì quá thấp hèn?" Cứ oán trời trách người. Chuyện gì cũng chẳng bao
giờ nhận rằng mình sai lầm, cứ chuyên đi kiếm lỗi kẻ khác. Thánh nhân xưa
kia ai cũng luôn thừa nhận lỗi lầm của mình cả.
Tầng trời thứ hai là Ðế
Thích Thiên. Trời này ở giữa, phía đông có tám trời, phía tây có tám trời,
bắc có tám trời, nam có tám trời. Tổng cộng là ba mươi hai trời. Ðó là
tầng trời thứ hai ở cõi Dục-giới.
Tầng trời thứ ba là Dạ Ma
Thiên. Trong tầng trời này, chư thiên vô cùng sung sướng. Cả ngày họ cứ ca
hát. Họ hát gì? Thì là "Tôi sung sướng lắm lắm!" Ngày đêm sáu thời họ đều
vui sướng, do đó Dạ-Ma dịch là thời phần, vì rằng mỗi thời khắc họ đều vô
cùng sung sướng.
Tầng trời thứ tư là Ðâu
Suất Thiên. Ðâu Suất dịch là Hỷ Túc, vì lúc nào họ cũng hoan hỉ, lúc nào
cũng đầy đủ mãn túc. Bởi vì họ biết tri túc nên lúc nào cũng an lạc. Từ
sáng đến tối họ không bao giờ ưu lự, sầu muộn, hay có phiền não bực dọc gì
cả. Trời ấy còn gọi là "Tai Túc Thiên" bởi vì họ biết tri túc và thường
vui vẻ, không phiền não ưu tư.
Tầng trời thứ năm là Hóa
Lạc Thiên. Các vị trời này đắc khoái lạc nhờ có năng lực biến hóa. Nghĩ
tới áo quần thì áo quần hiện ra; nghĩ tới ăn uống thì thực phẩm tới liền.
Vì họ biến hóa rất tự tại nên vô cùng sung sướng an lạc.
Tầng thứ sáu là Tha Hóa Tự
Tại Thiên. Tha Hóa có nghĩa là các vị trời trên ấy vốn không có sự sung
sướng an lạc, song các Ngài có năng lực tước lấy sự an lạc của các trời
khác đem làm an lạc của chính mình. Vì sao họ lại chiếm sự an lạc của kẻ
khác để làm của mình? Bởi vì họ không theo đạo lý; hệt như bọn giặc cướp,
đoạt tiền của và tài sản của kẻ khác để tự mình dùng, bất kể sự sống chết
của kẻ khác.
Ở tầng trời này có rất
nhiều thiên ma và quyến thuộc của chúng.
"Lục Dục Phạm Thiên" phía
trên đã nói về Lục Dục Thiên. Phạm Thiên tức là trời Ðại Phạm Thiên, Phạm
Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên. Các vị trời ấy do tu "Ngũ Giới Thập Thiện"
nên đắc phước báu ở tầng trời này. Song đây là những thiện căn hữu lậu
(hữu lậu nghĩa là có phiền não) nên nói rằng: "Chủng hữu lậu nhân, luân
hồi nan đoạn." Hễ trồng nhân hữu lậu thì khó đoạn luân hồi. Phải tu hành
cái nhân xuất thế thì mới thoát khỏi luân hồi.
(VI) Pháp-giới của
A Tu La
Tu-la tánh bạo,
Hữu phước vô quyền,
Háo dũng đấu lang,
Phù trầm nghiệp khiên.
Nghĩa là:
Tu-la tánh hung bạo.
Có phước, song không
quyền.
Rất thích đánh đấu nhau.
Chìm nổi theo nghiệp dắt.
A-tu-la là tiếng Phạn dịch
là vô đoan chính. Vô đoan chính nghĩa là xấu xí. Nam A-tu-la tướng mạo vô
cùng xấu xí, ưa thích đấu tranh với kẻ khác. Nữ A-tu-la tướng mạo hết sức
xinh đẹp, yêu thích đấu tranh bằng tình cảm, tức là dùng tánh đố kỵ ghen
tuông, chướng ngại, vô minh, phiền não.
Tuy chúng sinh này làm
thành một Pháp-giới, song bất luận ở đâu trong lục đạo, hễ có chúng sinh
nào thích đấu tranh, nóng nảy dữ tợn vô cùng, chỉ thích chỉ huy kẻ khác
chớ không chịu bị kẻ khác chỉ huy; chỉ thích cai quản kẻ khác mà không
thích bị ai cai quản, thì đó đều là biểu hiện của A-tu-la. A-tu-la ở trong
loài người thì phân ra loại ác loại thiện. Thiện A-tu-la chính là quân
đội, binh tướng trong quốc gia.?c A-tu-la tức là thứ giặc cướp, trộm cắp,
kẻ thích đánh, thích giết người khác.
A-tu-la ở trên cõi trời
thì ưa thích đánh nhau với thiên binh, thiên tướng. Suốt ngày chúng chỉ
nghĩ cách đánh trời Ðế Thích để cướp bảo tòa, đoạt ngôi để lên làm Ðế
Thích. Song le, tuy đánh nhau hoài nhưng bọn chúng luôn thua trận. Vì sao?
Bởi vì tuy bọn họ ở trên trời hưởng phước song không có quyền hành gì. Do
đó tuy đánh với thiên binh, thiên tướng mà rốt cuộc vẫn cứ thất bại.
Trong hàng súc sinh cũng
có A-tu-la. Chúng thích chèn ép kẻ đồng loại hay những súc sinh khác, thí
dụ như sài lang, cọp, sư tử... là những thứ thích ăn thịt súc sinh khác vì
chúng có tánh tình A-tu-la. Rắn hay chim ưng cũng là thứ A-tu-la.
A-tu-la trong loài quỷ thì
thích ăn hiếp loại quỷ khác. Quỷ cũng có loại thiện loại ác. Bọn ác quỷ
thì không đếm xỉa tới phải trái gì cả. Xưa nay quỷ không bao giờ biết phải
trái, nhưng bọn ác quỷ càng không biết đến phải trái hơn cả.
Tu-la tánh bạo: Tánh tình
của A-tu-la rất tàn bạo. Hữu phước vô quyền: Chúng có phước của chư thiên,
song không có quyền hành như chư thiên. Do đó chúng muốn tranh đoạt quyền
lợi, song không thể tranh thắng đặng.
Các bạn hãy nhìn thế giới
hiện nay: Một thế giới của A-tu-la. Ðâu đâu cũng toàn nói chuyện đấu
tranh, đấu tranh. Ðấu tranh vì thứ này, tranh đấu vì thứ kia. Bạn đánh tôi
ngã, tôi đẩy bạn rớt.
Phù trầm nghiệp khiên: Tùy
theo nghiệp lực dẫn dắt đi theo nẻo nào thì chúng đi theo nẻo đó. Do đó,
người tu hành phải tránh đấu tranh, tranh chấp với kẻ khác. Chớ nên háo
thắng, thích tranh chấp. Chớ nên có tánh tình hung bạo dữ tợn. Vậy thì
mình thoát ra bọn A-tu-la đấy.
Nói tóm lại, A-tu-la không
hề nói tới chuyện phải trái. Bất luận với ai, chúng cũng thường nổi nóng.
Nói cho rõ, thì trong chín Pháp-giới của chúng sinh, thì A-tu-la có mặt
trong năm Pháp-giới rồi. Trong loại súc sinh, thì loài chim hay thú cũng
có A-tu-la. Cá sấu là một loại A-tu-la ở trong nước. Loài ngựa cũng có
A-tu-la: thứ này mà ở trong bầy ngựa thì chúng quấy nhiễu lắm, do đó gọi
là "Hại quần chi mã," con ngựa phá bầy. Loài bò cũng có A-tu-la đó; bò này
tức là tánh A-tu-la. Còn chó thì đúng là bọn A-tu-la. Do đó người nuôi
chó, thường gần gũi với chó thì có thể tiêm nhiễm tính A-tu-la đó. Do đó
hãy cẩn thận. Chớ nên chạy theo bọn A-tu-la!
(VII) Pháp-giới
của Loài Người
Nhân đạo hòa hợp,
Công tội tương gian.
Ðức thăng nghiệt giáng,
Khải hữu tha yên!
Nghĩa là:
Hòa hợp là đạo người,
Công và tội xen lẫn
Ðức thì thăng, nghiệt đọa
Nào do ai khác làm!
Cõi người có kẻ thiện kẻ
ác. Bản tánh của con người thì vốn ôn hòa, có thể hòa hợp với kẻ khác, do
đó tôi nói là nhân đạo hòa hợp. Công tội tương gian: nghĩa là con người
không phải hoàn toàn thiện hay hoàn toàn ác. Nếu hoàn toàn tốt thì hẳn y
đã lên cõi trời rồi, còn nếu hoàn toàn ác thì chắc chắn y đã làm súc sinh,
ngạ quỷ hay đọa địa ngục rồi. Do đó, con người cứ làm một chút công, lại
phạm một chút tội. Ðôi khi công nhiều, tội ít; hoặc là tội nhiều, công ít.
Khi công nhiều tội ít thì mình sinh ra tại gia đình phú quý giàu sang. Nếu
công ít, tội nhiều thì mình sinh vào gia đình bần cùng khốn khổ. Giữa hai
thái cực này (công và tội) có ngàn vạn sự sai thù, tùy thuộc vào mức độ
nhiều ít của ác nghiệp do mình tạo ra. Con người không âm cũng không
dương. Vì thuần âm thì con người sẽ biến thành quỷ, mà thuần dương thì con
người sẽ thăng thiên hết, không còn gì là loài người nữa!
Ðức thăng nghiệt giáng:
Nếu làm chuyện thiện, hay công đức thì bạn sẽ thăng lên. Nếu tạo tội
nghiệt thì bạn đọa lạc. Khải hữu tha yên: không ai có thể bắt bạn đọa địa
ngục, hay làm ngạ quỷ, hay biến thành súc sinh được. Tất cả đều do bạn tự
mình tạo. Rằng: "Mình làm, mình chịu." Tự mình làm ra thì tự mình phải
lãnh hậu quả. Ðó là cõi người.
(VIII) Pháp-giới
Loài Súc Sinh
Súc sinh háo tham,
Ða nhi vô yểm,
Tương hắc tác bạch
Thị phi mạc biện.
Nghĩa là:
Súc sinh tham lam,
Nhiều mà chẳng ngán.
Lấy đen làm trắng
Không rõ đúng sai.
Bảy Pháp-giới nói trên đều
là Pháp-giới tốt, bạn có thể thử nó, tới đó mà đóng kịch. Chỉ có ba
Pháp-giới còn lại thì bạn không thể thử cho biết đặng. Bởi vì hễ bạn đọa
vào ba đường này thì e khó thoát ra được. Cho nên: "Nhất thất nhân thân,
vạn kiếp nan phục." (Thân người mất đi, vạn kiếp khó khôi phục). Do đó rất
nguy hiểm.
Trong cõi súc sinh hiện
giờ, không phải chỉ có một loại mà thôi. Súc sinh có trăm ngàn vạn ức thứ
khác nhau. Chỉ nói tới loài biết bay, cũng đã có tới trăm ngàn vạn chủng
loại. Loài biết chạy cũng không ít, nào là thứ nhỏ như chuột, lớn như voi,
hay các động vật lớn như hưu, gấu, ngựa, dê... những thứ ở trên mặt đất có
đến trăm ngàn loài. Những loài dưới nước, nào là hải cẩu, hải mã, v.v...
cũng cả trăm ngàn thứ. Dù là vật lý gia, hóa học gia, sinh vật học gia,
động vật học gia, nào tiến sĩ hay là chuyên gia cũng không thể nào biết
hết được những thứ chủng loại ấy.
Những thứ súc sinh ấy từ
đâu tới? Chỉ từ "tham" mà ra. "Súc sinh háo tham": bất luận là cái gì,
chúng ham nhiều, ít là không được. Bởi vì chúng "đa nhi vô yểm," có nhiều
mà không biết nhàm chán. Cho nên cái đen, chúng không nhận biết rằng nó
đen. Chúng cho là: "A! Cái này màu trắng!" Do đó: "Tương hắc tác bạch."
Nhận cái đen là cái trắng; cái xấu thì cho rằng tốt. Ðó chính là biểu thị
chúng chẳng có lý trí gì cả. Nên bất kỳ thứ gì chúng cũng tham nhiều, thậm
chí tham cả thứ dơ bẩn như phân chó nữa. Chúng càng ăn thứ ấy thì càng
thấy ngon, thấy thơm. "Thị phi mạc biện" nghĩa là chúng không biết cái gì
phải, cái gì trái; không biện biệt đúng sai, không rõ ràng mọi sự vì không
có lý trí nữa. Khi có lòng tham thì chúng trở nên mê muội. Thế là bị vô
minh trùm phủ, không biết gì cả.
Vì thế con người như chúng
ta nếu có lòng tham lam thì rất nguy hiểm; tham nhiều thì dễ dẫn tới chỗ
biến thành súc sinh. Bạn ơi! Người xuất gia nào không y chiếu theo giới
luật của Phật để tu hành thì sẽ đọa lạc mau một chút. Do đó người xưa có
câu: "Ðịa ngục môn tiền tăng đạo đa" (nghĩa là nơi cửa địa ngục, thầy tu
và đạo sĩ nhiều lắm). Họ đứng chờ ở cửa địa ngục. Những vị đạo sĩ hay các
vị thầy tu nghĩ rằng địa ngục là chỗ vui lắm, nhưng khi tới đó mới biết
rằng nơi ấy chẳng vui tí gì!
(IX) Pháp-giới của
ngạ quỷ
Quỷ loại hỷ sân
Muội quả mê nhân
Vô minh điên đảo,
Nhật tích nguyệt thâm.
Nghĩa là:
Loài quỷ thích giận,
Mê muội nhân quả
Vô minh điên đảo
Ngày tháng chồng chất.
Ða số ai cũng biết quỷ. Có
người tin có quỷ, song có kẻ nói quỷ chẳng có. Thậm chí nhiều Phật tử
không tin có quỷ. Quỷ là gì? Quỷ là một thứ âm khí, có bóng mà không có
hình hài, hoặc có hình thể mà không có bóng. Nhiều khi bạn thấy một bóng
đen, nhưng khi nhìn kỷ thì bóng biến mất. Hoặc nhiều khi thấy cái bóng
giống như người, nhưng chỉ trong chớp mắt nó biến mất. Thật khó mà xác
định rõ ràng sự thật về chuyện này.
Có bao nhiêu thứ quỷ?
Nhiều như số cát sông Hằng Hà vậy. Nếu bạn muốn biết rõ có bao loại quỷ,
bạn hãy tu Ðạo. Khi tu được Ngũ-nhãn, Lục-thông, bạn sẽ rõ biết hết thảy
có bao nhiêu loài quỷ.
Có người nói: "Chẳng có
quỷ đâu!" Tôi nói với y rằng, nếu không có quỷ thì cũng chẳng có Phật,
chẳng có người, chẳng có súc sinh. Bởi vì súc sinh, người, A-tu-la đều từ
quỷ biến ra cả. Thậm chí trời, A-la-hán, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật cũng đều
từ quỷ đạo mà tiến lên. Vì sao? Vì mười Pháp-giới không rời một niệm trong
tâm. Chính một niệm này tạo ra mười Pháp-giới. Bạn làm việc quỷ thì đọa
lạc vào đường quỷ. Làm việc người thì tới cõi người, làm việc a-tu-la thì
tới chỗ A-tu-la. Làm việc của bậc A-la-hán thì thành A-la-hán. Làm chuyện
đấng Duyên-giác thì sẽ tới đặng bậc Duyên-giác. Làm việc của Bồ-tát thì sẽ
thành quyến thuộc của chư Bồ-tát. Làm việc Phật thì thành Phật. Làm chuyện
của địa ngục thì đọa địa ngục. Do đó một tâm niệm trong hiện tại tạo thành
tất cả mọi chuyện.
"Quỷ loại hỉ sân" Phàm là
quỷ, chúng rất thích nổi nóng, nảy lòng sân hận. Ðối xử tốt với chúng,
chúng cũng sân hận; đối đãi không tốt với chúng, chúng càng sinh giận dữ.
Việc gì làm chúng thích thú nhất?
Tức là tạo rắc rối cho kẻ
khác. Bạn đối xử đàng hoàng với chúng, chúng cũng gây rắc rối cho bạn. Bạn
không đối xử đẹp, chúng cũng gây phiền hà. Do đó có câu: "Thắp hương là
mời quỷ tới." Mặc dù bạn thắp nhang là vì kính trọng chúng, song chúng tới
để gây rắc rối cho bạn, làm bạn sinh bịnh. Vì vậy Khổng Tử nói: "Kính quỷ
thần nhi viễn chi." Nghĩa là ta phải cung kính quỷ thần, song le không nên
gần gũi với chúng, nên xa cách một chút.
Muội quả mê nhân: Quả báo
thì bọn chúng không hiểu biết gì; mà cái nhân, chúng cũng không rõ. Do đó
chúng không biết tốt xấu. Xưa nay hễ trồng nhân tốt thì gặt quả tốt; trồng
nhân lành thì gặt quả lành, trồng nhân ác thì gặt quả ác. Trồng dưa, gặt
dưa; trồng đậu, được đậu. Song bọn quỷ không hiểu được đạo lý nhân quả
này. Do đó chúng trồng cà mà mong được ớt, trồng ớt mà mong gặt được dưa
leo; hoàn toàn mê muội lầm lẫn, nên nói là muội quả mê nhân.
Bọn chúng "Vô minh điên
đảo, nhật tích nguyệt thâm": mỗi ngày tích tập càng nhiều sự vô minh. Càng
tạo nghiệp thì tội càng nặng; tội càng nặng thì lại càng tạo nghiệp. Do đó
đọa lạc vào đường quỷ.
(X) Pháp-giới của
địa ngục
Ðịa ngục ưu khổ
Vô môn tự xuyên
Khởi hoặc tạo nghiệp
Thọ báo tuần hoàn.
Nghĩa là:
Ðịa ngục đầy ưu khổ
Không cửa nhưng cứ vào
Khởi hoặc rồi tạo nghiệp
Chịu quả báo tuần hoàn.
Ðịa ngục là chốn đau khổ
cùng cực. Các bạn nào muốn du lịch ở địa ngục, tôi bảo đảm bạn sẽ tức khắc
đến đó ngay. Làm sao? Có câu rằng:
"Hễ sầu muộn, là dạo chơi
cõi địa ngục.
Cười vui vẻ, thì già cả
thành trẻ trung.
Khóc lóc hoài, tạo phòng
tối chốn âm ti"
Âu sầu phiền muộn là nhân
của địa ngục. Nếu bạn cười vui vẻ, đó là nhân cõi trời. Rằng:
Tự cổ thần tiên vô biệt
pháp,
Chỉ sinh hoan hỉ bất sinh
ưu.
Nghĩa là:
Xưa nay thần tiên chẳng
phép lạ,
Chỉ sinh vui vẻ, không ưu
lo.
Nếu bạn thường thường cười
vui, thì dù lớn tuổi, bạn cũng trẻ trung. Khóc lóc là một việc rắc rối
lắm. Ðịa ngục ưu khổ: Nghĩa là địa ngục chẳng có gì vui vẻ an lạc, chỉ ưu
sầu khổ sở. "Vô môn tự xuyên"; nghĩa là địa ngục xưa nay không có cửa. Cửa
vào địa ngục chính là do mình đặt và mở ra. Mình cứ đâm đầu dấn thân vào,
(như cái dùi cứ khoan vào) vào không được cũng cứ cố chui vào. "Khởi hoặc
tạo nghiệp." Vì sao đọa địa ngục? Là vì ta vô minh mê hoặc, không hiểu
biết, do đó tạo ra ác nghiệp. Bạn tu nghiệp gì, thì thọ quả báo ấy, không
sai một mảy may. Ðây là sự tuần hoàn không ngừng nghỉ. Nên nói rằng: "Thọ
báo tuần hoàn."
Thập giới nhất tâm
Bất ly đương niệm
năng giác thử niệm
Lập đăng bỉ ngạn.
Nghĩa là:
Mười Pháp-giới, một tâm,
Không ngoài niệm hiện tại,
Giác ngộ tâm niệm này,
Tức khắc lên bờ kia.
Bốn Pháp-giới bậc Thánh là
Phật, Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên Giác và sáu Pháp-giới phàm là thiên, nhân,
A-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục, tổng cộng là mười Pháp-giới. Mười
Pháp-giới từ đâu ra? Từ một ý niệm trong tâm hiện tại của mình. Do đó:
"Thập giới nhất tâm, bất ly đương niệm.
Năng giác thử niệm: Nếu
bạn hiểu rõ về ý niệm hiện tại thì bạn sẽ lập tức đăng bỉ ngạn: tức khắc
tới bờ kia, tức là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Bờ kia là gì? Là sự giác ngộ,
không còn mê hoặc; phá sạch vô minh. Khi vô minh phá trừ thì pháp thân sẽ
xuất hiện.
Tham Hưởng Thọ Thì Cần Gì Xuất Gia
Ðừng cố tình nói
dối, đừng làm những chuyện như "bịt tai mà ăn cắp chuông."
Người xuất gia nhất định
phải có một nền tảng tu hành cho vững vàng. Nền tảng vững vàng là gì? Tức
là nghiêm thủ giới luật. Người xuất gia phải cần học thuộc lòng "Tứ Phân
Luận" tức là Luật Sa-di, Luật Tỳ-kheo, Luật Tỳ-kheo-ni, Kinh Phạm Võng,
v.v... rồi nghiên cứu tường tận, thì mới đủ tư cách làm người xuất gia.
Nếu nền tảng không vững
vàng, suốt ngày hết nghĩ đến tiền bạc lại nghĩ đến sắc dục thì "thân tuy
xuất gia, nhưng tâm không nhập đạo." Như thế thì xa cách đạo trăm ngàn
dặm. Những người xuất gia nầy ở trong Phật-giáo làm chuyện bại hoại, không
thể thừa nhận họ là người xuất gia đặng.
Người xuất gia không được
đi phan duyên cái nầy, đi phan duyên cái khác, cũng không được đơn độc đi
ở một ngôi chùa nhỏ, kêu cư sĩ lại hộ pháp. Ðơn độc tiếp thọ đồ cúng
dường, hành vi như vậy không hợp với qui luật của đức Phật chế định. Nếu
như mình có những hành vi nầy, thì phải mau mau sửa đổi, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ, trọng
nhược Tu Di Sơn.
Thực liễu bất tu Ðạo, bì
mao đãi giác hoàn.
Nghĩa là:
Hạt gạo thí chủ cho, nặng
bằng núi Tu Di.
Ăn xong chẳng tu Ðạo, đeo
sừng, đội lông trả.
Thuở xưa người chân chính
tu đạo, ở nhà tranh, tự mình cày ruộng, tự mình ăn; tuyệt đối không nhờ
vào ngoại duyên. Vì mục đích diệt lòng tham, nên họ ở nhà lá mà tu hành.
Hoặc giả họ bế quan, vì muốn làm cho học vấn và đạo đức mình được chắc
thật. Nếu như chân chính tu Ðạo, thì có thể ở một mình đơn độc, nhưng
không thể đơn độc tiếp thọ sự cúng dường của cư sĩ. Làm vậy là đem
Chính-pháp biến thành Mạt-pháp, cũng là phá hoại Phật-giáo.
Hiện tại người tu hành
thích đơn độc tu ở nơi tịnh xá. Tại sao vậy? Bởi vì nếu họ không giữ giới
luật thì chẳng có người nào thấy, phạm qui củ cũng không có ai biết được,
có thể tùy tâm sở dục, muốn làm gì, chẳng có ai quản thúc, được tự do tự
tại, có thể nói rằng không có ràng buộc gì cả. Hoặc giả có kẻ khác thì ở
trong tịnh xá của mình chiêu tập một số cư sĩ, lại nói là làm pháp này hội
nọ, nhưng thực tế chỉ là mượn áo nhà Phật, nhờ vào danh Phật để kiếm miếng
ăn mà thôi.
Có những người xuất gia,
không dùng tiền cúng dường của cư sĩ vào những việc Phật sự, ngược lại lợi
dụng tiền đó đi mua những vật xa xỉ, xe hơi, làm những điều ích lợi riêng
tư. Hoặc giả là mua T.V., rồi ngày ngày coi T.V., quên lãng cả việc tụng
kinh sớm tối. Hoặc giả là mua tủ lạnh để chứa những thức ngon vật lạ. Nói
tóm lại, họ đắm trước sự hưởng thụ, tham đồ vật, tham sung sướng. Phong
khí hiện tại chính thật là như vậy. Họ đem tính chất khổ hạnh của
Phật-giáo hoàn toàn biến cải, thật là cô phụ sự khổ tâm của Ðức Thích Ca
Mâu Ni Phật xưa kia vậy!
Có người nói: "Sinh ra
trong thời đại nầy, mình cần phải coi T.V., cần phải biết tin tức quốc tế,
nếu không thì là đui mù, câm điếc không biết gì cả." Bạn biết những chuyện
ngoài đời rồi thì sao? Biết được chuyện ngoài đời, đến lúc chết có tránh
được chăng?
Có người lại nói: "Người
tu hành có thể tránh được cái chết hay sao?" Bạn tu hành, tới khi chết
cũng phải chết, song trước khi chết tâm mình sáng suốt, tuyệt đối không
phiền não, không rối ren, an nhiên mà chết. Nếu mình không tu hành, tới
lúc chết thì cũng chết vậy; nhưng chết một cách hồ đồ, mơ màng, mê muội.
Không nhớ nam, cũng nhớ bắc, lòng không thanh tịnh, ôm hận mà chết. Ðó là
chỗ khác biệt, quý-vị có biết chăng?
Ðối với người tu hành chân
chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về
đâu; rõ ràng không có mơ hồ gì cả, không quên đi bản lai diện mục của
mình. Người không tu hành lúc tới thì mơ màng, khi đi thì lại càng hồ đồ,
cả một đời mê muội. Họ không biết gì lý do gì mình tới, rồi vì sao đi.
Cũng không biết từ đâu lại, rồi đi về đâu. Hoàn toàn mù mịt.
Mục đích xuất gia là liễu
sinh thoát tử, không phải vì hưởng thụ. Nên khi đã đi tu rồi cần gì tham
lam vật chất hưởng thụ? Có lòng tham hưởng thụ thì cần gì xuất gia? Tôi
chủ trương rằng bất luận ai muốn đơn độc trụ một ngôi chùa nhỏ để tìm cách
hưởng thụ, thì chi bằng hoàn tục cho rồi. Bởi vì sao? Bởi vì hoàn tục so
với đơn độc trụ một chùa nhỏ tốt hơn nhiều, không tạo nên những tội nghiệp
vừa kể. Ðiểm đó hy vọng quý-vị đại chúng chú ý.
Nói rằng người tu hành đơn
độc trụ nơi một chùa nhỏ mục đích không phải là để tu hành mà tại tham đồ
hưởng thụ cúng dường, câu nói đó nhất định có nhiều người không muốn nghe.
Tôi không cần biết quý-vị có muốn nghe hay không, tôi vẫn nói vì nghĩ đến
tiền đồ của Phật-giáo. Nên chi nói ra, khiến người khác khó chịu. Thêm một
lần nữa: "Phàm là người xuất gia thích hưởng thụ, không có sự tu trì, thì
bất quá chỉ đội lốt thầy tu thôi." Hy vọng các đạo hữu khuyến khích lẫn
nhau, nhắc nhở lẫn nhau, đừng cố tình nói dối, đừng làm chuyện như "Bịt
tai mà ăn cắp chuông." Lấy vải thưa che mắt thánh.
Giảng ngày 11 tháng 11 năm
1983
Người Xuất Gia Phải Tụng Ba Bộ Kinh
Nếu bạn lý hội
cảnh giới ba bộ kinh này thì mới không uổng làm tín đồ Phật-giáo.
Ba bộ kinh đó là gì? Ðó là
Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, và Kinh Pháp Hoa. Ba bộ kinh nầy là do
Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật kim khẩu nói ra, Ngài A-Nan Tôn Giả thuật lại,
sau đó viết lên lá bối hầu lưu truyền trong thế gian, trở thành bộ kinh
điển mà người Phật-giáo đồ phải học và tụng.
Người xuất gia và tại gia
ở Vạn Phật Thánh Thành đều phải học tụng thuộc ba bộ kinh nầy. Tối thiểu
là thuộc Kinh Lăng Nghiêm, hoặc là hai bộ hoặc là ba bộ, đó là điều lý
tưởng. Nếu như liễu giải kinh nghĩa, không thể chỉ ở trên mặt chữ thôi,
nếu như không cầu sự thâm giải thì không ích lợi gì. Nếu như bạn có thể lý
hội được cảnh giới của ba bộ kinh nầy thì mới không uổng làm một tín đồ
Phật-giáo.
Lúc Phật ba mươi tuổi thì
Ngài ngồi dưới cội bồ-đề đắc thành chánh giác. Suốt hai mươi mốt ngày nhập
định, Ngài vì Pháp Thân Ðại-sĩ mà thuyết bộ Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm; bộ kinh nầy bao quát tam tạng mười hai bộ, thuyết rõ cảnh giới
viên dung vô ngại của vạn sự vạn vật trên vũ trụ này, cũng có thể gọi là
"Cảnh giới của nhất chân Pháp-giới."
Lúc Phật sáu mươi hai
tuổi, Tôn-giả A-Nan do quá chú trọng đến học vấn, đa văn, xao lãng chuyện
tu trí nên Tôn-giả không may bị cô con gái của bà Ma Ðăng Già dùng chú của
trời Phạm Thiên làm khốn, thiếu chút nữa là phá giới thể. Phật phải dùng
thần Chú Lăng Nghiêm cứu Ngài A-Nan thoát khỏi nữ nạn, rồi thuyết Kinh Ðại
Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm cho Ngài A-Nan. Kinh nầy là kinh khai trí huệ,
hiển minh đạo lý. Nếu khai triển chân lý trong kinh, nhất định trí huệ của
ta sẽ bao la, rộng lớn như biển cả.
Lúc Phật bảy mươi hai tuổi
thì Ngài ở trên núi Linh Sơn trong Hội Pháp Hoa, vì các bậc đại A-La-Hán,
đại Bồ-tát, diễn thuyết đạo lý "Một Phật Thừa", cũng là đạo lý làm thế nào
thành Phật. Lúc bấy giờ do những người theo pháp Tiểu-thừa bỏ tâm hướng
nhỏ hẹp đổi ra chí hướng rộng rãi, được chư Phật thọ ký tương lai thành
Phật, nên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được xem là Kinh dạy thành Phật.
Nếu kẻ tu bắt chước học
sinh, hết lòng chăm chỉ đọc sách, thì Tam-tạng mười hai bộ kinh rất dễ học
thuộc. Song sau khi xuất gia có kẻ tưởng rằng mình đã đầy đủ rồi, rằng
niệm Phật, tham thiền, học Giáo, trì giới, trì chú là đủ rồi, do đó không
học hỏi kinh điển, bởi vì họ xem nhẹ tính chất trọng yếu của chuyện học
kinh. Nên kẻ đời sau thì không bằng người đời trước; tạo thành tập quán
biếng nhác. Ðó chính là điều bất hạnh của Phật-giáo. Nếu như mình không
cấp thời chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm đó, thì tiền đồ Phật-giáo không
biết sẽ đi về đâu.
Giảng ngày 12 tháng 11 năm
1983
Bốn Ðạo Tràng ở
Tây-Phương: Mỹ và Gia-Nã-Ðại
Bốn Ðại Bồ-Tát đến
Phương-tây để hoằng dương Phật-pháp, giúp đạo Phật phát triển rực rỡ.
Ở Trung Hoa có bốn đạo
tràng:
1. Núi Ngũ Ðài tại tỉnh
Sơn Tây là đạo tràng của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.
2. Núi Nga My tại tỉnh Tứ
Xuyên là đạo tràng của Ngài Phổ Hiền Bồ-tát.
3. Núi Cửu Hoa tại tỉnh An
Hội là đạo tràng của Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát.
4. Núi Phổ Ðà tại tỉnh
Triết Giang là đạo tràng của Ngài Quán Âm Bồ-tát.
Bây giờ ở Mỹ và Gia-Nã-Ðại
(Canada) là hai nước lớn cũng có bốn đạo tràng thuộc về Tổng-hội Phật-giáo
Pháp-giới, đây là căn cứ địa để hoằng Pháp.
1. Vạn Phật Thánh Thành là
đạo tràng của Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát, tôn Quán Thế Âm Bồ-tát làm chủ, Ðịa
Tạng Bồ-tát làm phụ.
2. Ở Los Angeles là đạo
tràng của đức Ðịa Tạng Bồ-tát, tôn Ngài Ðịa Tạng Vương Bồ-tát làm chủ,
Quán Thế Âm Bồ-tát làm phụ.
3. Tại Seatle là đạo tràng
của Phổ Hiền Bồ-tát, tôn Phổ Hiền Bồ-tát làm chủ, Văn Thù Bồ-tát làm phụ.
4. Tại Vancouver là đạo
tràng của Văn Thù Bồ-tát, tôn Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát làm chủ, Phổ Hiền
Bồ-tát làm phụ.
Bốn đại Bồ-tát đến phương
tây để hoằng dương Phật-pháp, giúp Phật-giáo phát triển rực rỡ. Mỗi người,
ai tin Phật-giáo thì có thể tiêu trừ tham, sân, si (tam độc). Không tham,
không sân, không si thì tâm địa sẽ sáng suốt, thế giới sẽ hòa bình, mãi
mãi không còn chiến tranh nữa.
Những ai muốn triều bái
Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát thì mời tới Vancouver. Nếu muốn triều bái Phổ Hiền
Bồ-tát thì mời tới Seatle. Nếu muốn triều bái Quán Thế Âm Bồ-tát thì mời
tới Vạn Phật Thánh Thành. Nếu muốn triều bái Ðịa Tạng Vương Bồ-tát thì mới
tới Los Angeles. Hy vọng các Phật-tử có tâm kiên thành cung kính triều bái
tứ đại Bồ-tát, và dụng công tu học Phật-pháp.
Xuất Gia là Chuyện của Bậc Ðại Trượng Phu
Ðại trượng phu là
kẻ có tinh thần kiên nhẫn không thối lui, khắc phục hết mọi gian khổ.
Ở đời, xuất gia là chuyện
hết sức hy hữu, cũng là chuyện con người khó thấu đáo. Vì sao xuất gia thì
nhất định phải chịu khổ? Bởi vì xuất gia thì không còn làm chuyện nam nữ
luyến ái, không được khiêu vũ, và cũng không được ăn uống chơi bời nhậu
nhẹt. Phàm nếu muốn trở thành bậc xuất chúng anh tài thì phải nhẫn chịu
những điều người khác không thể nhẫn chịu được, phải chấp nhận nổi khổ mà
người khác không thể nhận nổi. Chỉ có tu luyện như vậy mới thành thân kim
cang bất hoại. Cho nên nói:
Bất kinh nhất phiên hàn
triệt cốt,
Chẩm đắc mai hoa phổ tỷ
hương?
Nghĩa là:
Không qua một lần lạnh
thấu xương,
Sao đặng hoa mai nở ngát
hương?
Người xuất gia tâm cần
chuẩn bị: Xuất gia là vì muốn liễu sinh thoát tử; muốn vĩnh viễn không còn
thọ nổi khổ của sinh tử luân hồi. Dù đối diện với đủ thứ khổ ải vẫn không
lo sợ, càng khổ càng tốt. Khi đụng đến đau khổ chớ đầu hàng, cải biến ý
hướng ban đầu, tìm cách trở đầu thối chuyển. Mình cần phải có tinh thần
kiên nhẫn, bất thối, phải khắc phục mọi khổ sở gian nan, đó mới là bậc đại
trượng phu. Cho nên xuất gia không phải là chuyện mà mọi người ai cũng làm
được, dù là tướng tá chưa chắc đã làm đặng. Do đó nói rằng: "Xuất gia là
chuyện của thần thánh," không phải là chuyện của những thứ ruồi muỗi tép
riêu. Có câu rằng:
Thọ khổ tức liễu khổ,
hưởng phước thị tiêu phước.
Nghĩa là:
Chịu khổ mới hết khổ,
hưởng phước là tiêu phước.
Quý-vị coi các vị cao tăng
đại đức thời xưa đều do tu khổ hạnh mà giác ngộ. Không vị Tổ-sư nào do sự
hưởng thọ sung sướng mà khai ngộ cả. Quý-vị lùng khắp bộ Ðại Tạng Kinh
cũng không tìm được vị nào cả.
Chúng ta cần phải có tâm
nhẫn nại thì mới được lợi ích nơi pháp hỷ sung mãn. Phải có tâm khắc khổ
thì mới đắc trí huệ giác ngộ. Không thể đi ngược lại với Phật-đạo. Mình
phải luôn luôn nhiếp tâm chuyên ý dụng công, đem tâm niệm thu hồi trở lại,
không có vọng tưởng vẫn vơ, đó chính là quản thúc "tâm như ngựa, ý như
khỉ." Ðừng để tâm mình chạy theo ngoại cảnh.
Khi xuất gia tu Ðạo thì
trước hết phải trừ khử lòng tham, phá bỏ sân hận, diệt đi si mê. Tận trừ
sạch sẽ ba thứ độc đó thì trí huệ tự nhiên hiện tiền. Làm sao có thể quét
sạch những thứ đó một cách triệt để? Tức là dùng Giới, Ðịnh, Huệ (tam vô
lậu học) để làm công cụ. Giới thì trị được tham, Ðịnh thì trị sân, huệ thì
trị si. Cho nên người xuất gia gọi là "Sa-Môn." Sa-Môn dịch ra nghĩa là
"Cần Tức," tức là "Cần tu Giới, Ðịnh, Huệ, tức diệt tham, sân, si." Tức là
siêng năng giữ Giới, Ðịnh, Huệ, trừ diệt tham, sân, si. Nếu mọi người ai
cũng hết tham sân si, thì thế giới sẽ hòa bình.
Giảng ngày
18 tháng 11 năm 1983
Phật Tánh Là Bổn
Nguyên Của Tất Cả Chúng Sanh
Lúc ban sơ, vũ trụ mênh
mông, bắt đầu khai thiên lập địa, thời chẳng có người, chẳng có chúng
sinh, chẳng có thế giới, căn bản chẳng có gì cả. Nhưng từ từ đến cái kiếp
thành thì bắt đầu có chúng sinh. Thử hỏi chúng sinh từ đâu lại? Có người
nói từ nơi loài khỉ tiến hóa mà thành. Nhưng khỉ từ đâu tiến hóa ra? Nếu
như loài khỉ tiến hóa thành người, thì sao bây giờ không thấy các loài khỉ
tiếp tục biến thành người? Ðây chẳng qua là học thuyết của những kẻ không
có trí thức. Nếu như thế tại sao họ không nói rằng người có thể do chuột
biến thành, hoặc là những con vật đầy lông lá tiến hóa ra! Làm sao họ có
thể biết rằng con chuột không phải là loài người biến thành? Tất cả những
loại bay, nhẩy, lội dưới nước, động vật, thực vật; cho đến những loài có
cánh trên trời; dưới biển những loài cá, cua, tôm, ếch cùng loài người là
những có khí huyết; hoặc là loại thảo mộc. Tổ tiên các thứ phi, tiễn,
động, thực ở đâu mà ra? Tất cả đều lưu xuất từ nơi Phật tánh.
Ở trong trời đất thì thiên
địa có cái đặc tính là sinh sinh bất tức, hóa hóa vô cùng; không ngừng
sinh hóa. Bởi vì có Phật tánh, nếu không có Phật tánh mọi thứ đều bị hủy
diệt, chỉ có Phật tánh là trải qua trăm ngàn vạn năm mà không diệt, luôn
luôn trường tồn. Bởi vì do Phật tánh nên mới có biến hóa thành mười Pháp
giới. Mười Pháp giới này cũng không ngoài cái niệm tâm, cái niệm tâm này
tức là Pháp tánh, cũng là một cái tên khác của Phật tánh; cho nên con
người do Phật tánh mà biến hóa thành, súc sinh do con người đọa lạc mà
thành, trong mười pháp giới này mình có thể thấy một cách rõ ràng vậy. Kẻ
ngu si thì cho rằng tổ tiên người là loài khỉ, Hồi giáo nói rằng tổ tiên
là heo, Ấn Ðộ cho bò là thần; đó tức là biên kiến; chỉ biết chỉ biết một
chút mà không biết toàn thể một cách triệt để, làm thế giới trở thành mê
hoặc. Những người đó còn viết sách lập thuyết, có kẻ nói rằng khoa học, có
kẻ nói rằng triết học, phân chia môn loại. Kỳ thật đó chính là nhàn cư vi
bất thiện, ăn xong thiếu chuyện làm, nên mới nói những chuyện mê hoặc kẻ
khác. Cứu cánh, như vậy con người ở đâu mà có? Quý vị coi thử con gà ở đâu
mà ra? Con gà có trước hay trứng có trước? Nếu không có gà thì làm sao có
trứng, mà nếu như không có trứng thì cũng không thể có gà được! Ðó là
chuyện của con gà không ra cái lý tự nhiên của nó. Như con người thì đàn
ông có trước hay đàn bà có trước? Như đàn ông có trước thì đàn ông từ nơi
bụng mẹ mà ra, nếu như đàn bà có trước thì phải có đàn ông mới có thai
được. Bởi vì thời gian trải qua lâu dài, loài người chúng ta quên đi
chuyện này như thế nào, không ai tìm hiểu nữa.
Vạn sự vạn vật, căn bản
đều là do nơi Phật Tánh, tự 'có' mà hóa thành 'vô', từ nơi vô mà biến
thành 'có', sinh sinh bất tức, hóa hóa vô cùng; cho nên càng hóa thì càng
nhiều, giống như những thứ sâu bọ nẩy nở trong gạo vậy, càng ngày càng
nhiều. Ở nơi cái chỗ vô tình mà sinh ra hữu tình. Phật Tánh thì có thể từ
nơi không biến thành có, biến ra tất cả các loài chúng sinh, nhân loại
cũng là cái đạo lý như vậy. Nếu như khỉ biến thành người, cái lý thuyết
này hoàn toàn không lập luận được. Nếu mình coi trên thế giới mỗi quốc
gia, mỗi loại người, có người da đen, vàng, trắng, đỏ đủ thứ mầu da. Những
người đó thì do đâu mà biến ra? Nói đi nói lại thì cũng không tìm ra được
nguyên thủy của nó. Nếu mình quy vào Phật Tánh, từ nơi không biến thành
có, rồi nơi có biến thành không, hóa hóa vô cùng sinh sinh bất tức, thì lý
luận này có thể nói một cách thông suốt được mặc dù ít người có trình độ
để hiểu nó. Con người từ nơi chỗ không mà biến thành có, và chúng sinh
cũng vậy. Bây giờ những kẻ tu Ðạo thì phải ra sao? Tức là từ có mà biến
thành không, gọi là phản bổn hoàn nguyên, quay về cái chỗ bản hữu Phật
Tánh. Có người hỏi như vậy thì công dụng gì? Thử hỏi, ngược lại làm người
thì có công dụng gì? Mình quay về với Phật Tánh, đó tức là thành Phật Ðạo.
Phật Tánh thì trường tồn, nếu khi chúng sinh đều chết hết cả rồi, thì Phật
Tánh mãi mãi vẫn còn mà không bị mai một. Quí vị hỏi tại sao tôi nói như
vậy? Bởi vì hôm nay là ngày vía đức Ðịa Tạng. Ngài là người có sức nguyện
lực, khiến cho tôi nói điều đạo lý chân thật, căn bản làm người cho quý vị
nghe, đó tức là 'Tự vô hóa hữu, tự hữu hóa vô', nếu các vị không thì thử
hỏi tại sao trong gạo mà sinh ra các loại sâu bọ được? Con người ở trên
đời cũng giống như loài sâu bọ vậy, bất quá con người có tri giác, có linh
tánh đặc biệt hơn sâu bọ mà thôi; tuy nhiên, nếu đem so sánh với Phật thì
chúng ta khác với Ngài xa lắc. Nếu đem so sánh chúng sinh với Phật thì
cũng như so sánh sâu bọ với loài người vậy.
Nếu chúng ta hiểu được như
thế, thì phải tu hành. Tu thì phải giữ tâm quân bình, giống như cái cân
vậy, lúc nào cũng bình bình, tĩnh tĩnh; ở trong tự tánh, không một gợn
sóng. Nếu như các vị thật sự hiểu Phật Pháp, thì tôi có thể cùng với các
vị đàm luận Phật Pháp, nghiên cứu làm thế nào để tu Ðạo, nếu các vị không
thật sự hiểu, chạy theo chuyện ham danh háo lợi, không chịu buông bỏ tiền
tài, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống và ngủ nghỉ, không chịu buông bỏ những thứ
đó thì làm sao tôi có thể cùng với các vị đàm luận Phật Pháp được. Các vị
phải cảnh tỉnh, cảnh tỉnh!
Giảng
ngày 13 tháng 9 năm 1982
Số Không Là Bí
Quyết Ðể Phản Tỉnh Hoàn Nguyên
Ở thiền đường, những kẻ đủ tư cách
tham thiền, biết được chút ít mùi vị thiền thì không cần nói gì với họ
nữa.
'Phàm hữu ngôn thuyết đô vô thật
nghĩa'
nghĩa rằng:
'Nếu còn ngôn ngữ đều là không thật
nghĩa'
Tuy nhiên, đói với những kẻ sơ cơ
không thể hoàn toàn không nói, nếu không nói mình sẽ đi vào chỗ cực đoan.
Cho nên nói để làm chỗ cho quý vị dựa vào rồi tham thiền, đặng mở khai tâm
địa. Tham thiền bí quyết là phải khiến tâm chuyên nhất. Vì vậy nói rằng:
'Thiên đắc nhất dĩ thanh,
Ðịa đắc nhất dĩ ninh.
Nhân đắc nhất dĩ thánh.
Vạn vật đắc nhất các chính tính
mạng'
nghĩa là:
'Trời được Một nên thanh.
Ðất được Một nên yên.
Người được Một thành Thánh.
Mọi sự được Một mới chính là nó'
Nhất, số một, là nguyên thủy của
vạn vật, tuy nhiên nó chưa phải là pháp cứu cánh. Tuy nói rằng:
'Ðắc nhất vạn sự tất.'
Nghĩa là:
'Khi được con số một, vạn sự đều
xong.'
Nhưng nếu chấp trước vào cái này
thì mình sẽ tự nhiên sinh ra hai, ba, bốn,... đó không phải là cảnh giới
chân không. Thế nào là chân không? Có nghĩa là số không. Cái số không này
giống như vòng tròn vậy, không lớn không nhỏ, không có trong, không có
ngoài, không có trước cũng chẳng có sau; không rơi vào mà cũng chẳng rớt
ra. Tuy nhiên, tất cả số mục không ly khai số không này.
Người tu hành chính là tự nơi số
một mà quay về số không, ở nơi số không mình có thể phát sinh vô lượng vô
biên tác dụng. Tuy nói rằng 'Ðắc nhất vạn sự nhất', nhưng khi tới được số
không này rồi thì số một cũng không còn nữa. Ðó chính là:
'Nhất Pháp bất lập, vạn lự giai
không.'
nghĩa là:
'Chẵng lập Pháp gì, mọi tư tưởng
đều không'
Ðó là cứu cánh giải thoát vậy.
Nếu muốn tới số không, thì trước
hết phải chuyên nhất cái tâm của mình, đừng khởi vọng niệm, tâm thể chuyên
nhất thì mới có cảm ứng. Cho nên chúng ta thường nghe nói: 'Cảm ứng đạo
giao nan tư nghị' là vậy.
Chuyên nhất thì mới đến được chỗ
không. Muốn chuyên nhất là chuyện không phải dễ. Muốn trở về số không lại
càng khó khăn hơn nữa. Tuy gặp khó khăn chẳng lẽ mình không tham thiền
sao? Nếu không tham thiền thì vĩnh viễn mình không thành đạo. Cái số không
là mẹ của vạn Phật, nó là bổn nguyên của chư Phật vậy. Cho nên các vị học
tọa thiền, đầu tiên phải học thế ngồi kiết già. Nếu như chân đau tê cứng,
không chịu được, thì mình có thể phương tiện ngồi bỏ hai chân xuống, sau
đó một thời gian thì phải tập ngồi bán già, ngồi bán già nếu chân không
còn đau như trước thì phải tập ngồi kiết già. Khi ngồi kiết già vững rồi,
chân không đau thì lúc đó mình mới bắt đầu tham thiền để phá bỏ vô minh.
Người tu đạo, ăn mo mặc ấm đã đầy đủ, hết chuyện làm, nên tham thiền, đó
gọi là du hí nhân gian. Tham thiền thì phải tham thoại đầu. Tham thiền tức
là tham cứu niệm trước khi nó sinh ra, không phải là thoại vĩ. Thoại vĩ
tức là niệm đã sinh ra rồi. Cho nên cái niệm chưa sinh thì gọi là thoại
đàu. Thoại đàu phổ biến nhất là câu 'Niệm Phật là ai?' Chữ 'ai' này chính
là cái mà mình phải tham. Tưởng tượng như mình có cái khoan, bây giờ mình
lấy nó ra mà khoan, mà đục, dùi mài nó cho tới lúc đâm thủng được núi đá.
Tìm coi 'ai' là người niệm Phật cũng vậy. Tham lui tham tới mãi cho đến
khi đâm thủng được núi vô minh. Thì lúc đó mình sẽ khai ngộ. Nhưng không
phải dụng tâm ý thức mà tham thiền, không phải dụng tư tưởng mà suy nghĩ,
phải dụng cái tâm chưa hề dùng tới, chưa hề biết qua bao giờ. Khi phá
thủng được cái bổn tham của mình, thì sẽ khai ngộ, hư không sẽ nát vụn,
ngũ ấm đều là không. Nhưng trong Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh có nói
rằng:
'Quán tự tại Bồ Tát,
hành thâm Bát Nhã,
Ba La Mật Ða thời
Chiếu kiến ngũ uẩn
Giai không độ nhất,
Thiết khổ ách, Xá Lợi Tử!
Sắc bất dị không,
Không bất dị sắc,
Sắc tức thị không,
Không tức thị sắc,
Thọ tưởng hành thức diệc
Phục như thị...'
Khi tham thiền đến chỗ như vậy thì
ngũ ấm đều thành không, lục trần không còn nhiễm được nơi mình. Ðó chính
là bước đầu tiên để thành Phật; nhưng mình phải khổ công mới được. Phải
biết rằng tham thiền không như niệm Phật. Miệng niệm 'Ai là người niệm
Phật? Ai là người niệm Phật? Ai là người niệm Phật?....' thể như là cầu
cứu vậy, là sai lầm. Tham thoại đầu thì cần phải từ từ dùi mài nó hết sức
tế tâm, miên mật, ở nơi tự tánh mình mà dụng công. Cho nên gọi là Tham
Ngộ. Tham ngộ nghĩa là tham tức là ngộ; muốn ngộ cần phải tham. Thực ra
'Niệm Phật là ai?' chỉ là một vọng tưởng. Tuy nhiên mình muốn dụng phương
pháp dĩ độc công độc. Dùng một vọng tưởng chế phục tất cả vọng tưởng khác.
Dùng một niệm mà dẹp trừ tất cả vọng niệm khác.
Vừa rồi tôi nói đến số không, số
không này là con đường để thành Phật. Ðối với phàm phu thì đó là không.
Sau khi thành Phật rồi thì nó trở thành:
'Ðại quang minh tạng, đại viên
kính trí.'
Số không này có thể sinh ra các
Pháp, nhưng cũng có thể quét trừ các Pháp. Nó là gốc để mình phản bổn hoàn
nguyên. Cho nên cần ở số không này mà dụng công phu. Có nghĩa rằng dụng
công ở chỗ cái gì cũng không có. Tất cả các pháp đều do số không mà sinh,
tất cả các pháp đều trở về số không. Cho nên:
'Nhất bổn tán vạn thù,
vạn thù nãi qui nhất bổn.'
nghĩa là:
'Một gốc mà phân ra trăm vạn
hình thù,
trăm vạn hình thù rốt cuộc qui
về một gốc.'
Ngày hôm nay tôi nói điều này cho
quí vị nghe không phải là một nhân duyên nhỏ, mà đây là tiết lộ thiên cơ,
tiết lộ cái bí mật của trời đất. Nói đến cái bổn nguyên của chư Phật. Ðó
là điều kinh thiên động địa, khiếp vía quỷ thần. Con người làm sao thành
Phật? Là khi hiểu số không này. Con người tại sao đọa địa ngục, bởi vì
không hiểu số không này. Do đó tất cả thiên ma ngoại đạo, sơn yêu thủy
quái, hồ ly tinh, hoàng thù lang, đủ thứ yêu quái, vỉ không hiểu số không
này mới đi ngược lại với Ðạo, rồi đọa lạc.
Số không này tự nó mà sinh ra
các thứ khác, tự nó mới sản sinh ra đủ thứ biến hóa dị đoan. Tuy rằng hình
tướng bất đồng nhưng gốc lại là một. Phàm phu bởi vì không hiểu nó nên bỏ
gốc theo ngọn, xa rời cái số không này. Dẫu sao tất cả chúng sanh có Phật
Tánh, đều có thể thành Phật. Tạm thời mình không hiểu, nếu hiểu thì có thể
lập tức thành Phật.
Giảng ngày
11 tháng 11 năm 1982 nhân ngày Ðả
Thiền Thất
********
Tiểu Truyện Hòa Thượng Tuyên
Hóa
Hòa Thượng, pháp danh An
Từ, tự Ðộ Luân, là vị Tổ thứ chín của dòng Thiền Quy Ngưỡng, đắc pháp từ
Ðại Lão Hòa Thượng Hư Vân. Ngoài pháp hiệu Tuyên Hóa, Ngài còn lấy hiệu là
"Mộ trung Tăng" (Nhà sư trong phần mộ). Hòa Thượng nguyên quán ở huyện
Song Thành, tỉnh Kiết Lâm, Mãn Châu. Ngài sinh vào ngày 16 tháng 3 năm Mậu
Ngọ (1918), vào cuối đời nhà Thanh. Gia đình Ngài họ Bạch, cha tên Phú
Hải, mẹ họ Hồ. Thân mẫu Ngài suốt đời trường trai, niệm Phật. Khi mang
thai, bà thường cầu nguyện chư Phật Bồ Tát, nên đến đêm trước khi lâm sản,
bà mộng thấy Ðức Phật A Di Ðà phóng đại quang minh, rồi liền sanh ra Ngài.
Từ thuở ấu thời, Ngài đã
theo mẹ ăn chay niệm Phật. Ðến năm 11 tuổi, vì thấy được việc lớn sanh tử,
đời người quá chóng vánh, nên Ngài phát đại chí quyết xuất gia tu hành.
Năm lên mười năm tuổi, Ngài lạy Hòa Thượng Thường Trí làm thầy. Ðến năm
mười chín tuổi, mẹ Ngài tạ thế, nhân đó Ngài lên Chùa Tam Duyên xin Hòa
Thượng Thường Trí thế độ xuất gia. Rồi sau đó khoác y, dựng lều bên cạnh
mộ mẹ để báo hiếu. Suốt thời gian ấy, Ngài lạy Kinh Hoa Nghiêm, lễ sám
hối, tu thiền định, tập giáo quán, nghiêm thủ công hạnh ăn ngày một bữa.
Khi công phu thuần thục, Ngài đã cảm động không biết bao nhiêu dân làng
quanh đấy lại lễ bái, cung kính. Sự tu hành trong sạch với lòng kiền thành
khẩn thiết của Ngài cũng cảm động đến chư Phật, Bồ-tát, Hộ-pháp Long Thiên
khiến không biết bao nhiêu chuyện linh ứng bất khả tư nghì xảy ra. Vì
những chuyện thần dị ấy lưu truyền khắp nơi, nên Ngài được gọi là "dị
tăng."
Năm 1946, Ngài đến tham lễ
Hòa Thượng Hư Vân, một vị cao tăng mà Ngài vô cùng hâm mộ như vì sao Bắc
Ðẩu của tông môn đạo Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân biết Ngài là một vị long
tượng trong cửa Pháp nên liền truyền thọ pháp mạch, khiến Ngài trở thành
người thừa kế, làm vị Tổ đời thứ chín của dòng Quy Ngưỡng. Tính từ Sơ tổ
Ma-ha Ca-Diếp thì Ngài là truyền nhân thứ bốn mươi sáu vậy.
Năm 1948, Ngài từ biệt Lão
Hòa Thượng Hư Vân, lên đường sang Hương Cảng hoằng pháp, với ý định xiển
dương cả năm phái: Thiền, Giáo, Mật, Luật, Tịnh để phá trừ sự phân phái
chia rẽ. Trong thời gian này, Ngài đã trùng tu nhiều chùa cổ, in kinh
điển, tạo tượng Phật, xây Chùa An Lạc Viên, Phật Giáo Giảng Ðường, và Chùa
Từ Hưng. Ðồng thời Ngài cũng giảng kinh thuyết pháp khiến Phật-giáo thịnh
hành tại Hương Cảng.
Ðến năm 1959, Ngài quán
sát biết rằng Phật-giáo Phương Tây đã thành thục, có thể đem đạo lý chân
thật của đạo pháp truyền bá mọi nơi, nên Ngài khiến đệ tử thành lập ở Mỹ
hội "Tổng Hội Phật Giáo Trung Mỹ" (mà sau này đã trở thành Tổng Hội Phật
Giáo Pháp Giới). Ðến năm 1962, đáp lời thỉnh nguyện của tín đồ ở Mỹ, Ngài
đơn thân tới Mỹ, dựng pháp tràng "Phật Giáo Giảng Ðường" tại Cựu Kim Sơn.
Năm 1968, Ngài mở khóa hè
dạy tu và nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm. Có hàng chục sinh viên từ Ðại-học
Washington ở Seattle xuống tham gia, học hỏi Phật-pháp. Khi mãn khóa có
năm vị người Mỹ khẩn cầu Ngài thế độ xuất gia, đánh dấu sự khai mở của
Tăng đoàn Phật-giáo Mỹ Quốc. Từ đó về sau những người Mỹ xuất gia với Ngài
càng đông, đem lại ảnh hưởng vô cùng sâu đậm đối với việc hoằng dương
Phật-giáo tại Tây Phương, cũng như việc phiên dịch kinh điển vậy.
Mỗi lần giảng kinh thuyết
pháp, Ngài đều giảng thâm sâu song rất dễ hiểu. Mấy chục năm qua Ngài đều
thăng tòa thuyết pháp hơn vạn lần, hàng trăm tập kinh do Ngài giảng đã
được dịch ra Anh ngữ; có thể nói Ngài là người đã khiến cho kinh sách dịch
ra Anh ngữ nhiều nhất.
Năm 1973, Ngài thành lập
Quốc Tế Dịch Kinh Học Viện với ý định đem "Ðại Tạng Kinh" dịch ra nhiều
ngôn ngữ khác nhau, khiến Phật-pháp được truyền bá khắp nơi.
Năm 1974, Ngài sáng lập
Vạn Phật Thánh Thành, lập ra Ðại Học Pháp Giới, Tăng Già Cư-sĩ Huấn Luyện
Bang để tài bồi nhân tài về đạo pháp với trình độ và tiêu chuẩn quốc tế.
Ngài lại sáng lập ra trường Tiểu-học Dục Lương, trường Trung-học Bồi Ðức,
với chủ trương dùng giáo dục để vãn cứu và sửa đổi nhân tâm. Những năm kế
tiếp Ngài liên tiếp lập ra Chùa Kim Sơn, Chùa Kim Luân, Chùa Kim Phong,
Chùa Kim Phật, Chùa Hoa Nghiêm, Chùa Pháp Giới, Chùa Di Ðà, Chùa Long
Beach, Pháp Giới Thánh Thành, Học Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo Pháp Giới, Chùa
Kim Thánh và nhiều đạo tràng khác. Ngài đã xả mình, không từ lao khổ gian
nan, tự mình làm gương, dạy học thuyết pháp với mục đích làm gương để đào
tạo thế hệ tương lai. Ngài đã hiến dâng Vạn Phật Thánh Thành để làm "Chỗ
Quy-Y Nương-tựa của Tín Ðồ Phật Giáo Toàn Cầu." Gia phong Vạn Phật Thánh
Thành rất nghiêm túc, tuân giữ sáu tông chỉ mà Ngài đã thực hành tự lúc
xuất gia, đó là: không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không
ích kỷ, không dối trá. Do sự tu hành cũng như đạo hạnh của Ngài chiêu cảm,
nên Vạn Phật Thánh Thành đã trở thành một đạo tràng trọng yếu của Phật
Giáo Mỹ Quốc.
Chí hướng hay phương châm
của Ngài nằm trong bài thơ sau:
Dù lạnh rét, không
phan duyên.
Dù đói chết, không xin
xỏ.
Dù nghèo kiệt, không
cầu cạnh.
Tùy thuận ngoại duyên,
song không thay đổi chí-hạnh.
Không đổi chí-hướng,
nhưng vẫn tùy thuận ngoại duyên.
Thế mới giữ vững ba
đại tông chỉ:
Xả mình vì Phật sự,
Cứu người là bổn phận,
Sửa mình làm việc
Tăng.
Hễ gặp việc gì, thấu
lý việc ấy.
Hiểu đạo lý gì, thực
hiện lý ấy.
Vậy mới truyền thừa
mạch huyết Tổ-sư.
Sự thiền định và trí tuệ
thâm sâu của Hòa Thượng Tuyên Hóa, đã thật sự khai mở cho chúng sanh đời
mạt pháp một con đường vĩ đại đưa đến chỗ giác ngộ. Cuộc đời của Hòa
Thượng đã khiến cho chúng ta cảm động, tán thán; ví như trong đêm tối gặp
được ánh đèn Bát-nhã, hay nơi chỗ mù tịt ngửi đặng mùi hương Phật-pháp,
hoặc trong bùn lầy dơ bẩn khai nở bông sen trong sạch. Chúng ta mới biết
được cảnh giới của bậc đại hành giả thật khó nghĩ bàn.
(Vạn Phật Thánh Thành)