KHAI THỊ
QUYỂN 1
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Phần 3
Tình Ái và
Dục Vọng là Tảng Ðá Buộc Chân Người Tu Ðạo
Cho
đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người,
nhưng
đừng để tình ái xen vào.
Trong nghiệp sinh
tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo. Là người tu Ðạo, bất luận đối
với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì sẽ chướng ngại sự tu
hành, làm mình không phát triển được. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là
sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh tử. Nếu
không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi biển
lớn sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ cần "đoạn dục khử
ái," nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.
Người tu Ðạo đừng
nên suy nghĩ về tình ái dâm dục, càng không nên có hành vi yêu đương. Ðối
với bất cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương; hễ có lòng yêu đương
thì gốc khổ không thể tránh được; vì có lòng yêu đương thì khó thoát vòng
sinh tử.
Có người nói: "Con
người là động vật có tình cảm, chuyện ăn uống và dâm dục là việc tự
nhiên." Chính bởi vì nhân duyên đó, nên cần phải tu Ðạo. Trong Kinh
Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:
Mình xem những người
già như mẹ mình, những người lớn tuổi như chị, những cô trẻ là em và những
đứa nhỏ là con. Hãy Sinh ra lòng độ thoát họ và diệt trừ những niệm ác.
Là kẻ tu đạo mình
phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nếu quả không có ái, phải chăng khi gặp
người khác mình cứ ngậm miệng chẳng để ý đến họ? Không đúng! Mình không
chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đương, nhưng không sinh ra
lòng ruồng ghét kẻ khác, cũng không thể nói rằng: "Bởi vì tôi không thương
người ta nên tôi phải ghét họ." Ðó là điều sai lầm. Như vậy thì thế nào là
đúng? Tức là không thương mà cũng chẳng ghét ai. Không thương, không ghét
chính là Trung-đạo.
Tu hành là tu cái
gì? Chính là tu pháp Trung-đạo. Ðối đãi với người mình luôn luôn bình
đẳng, dùng tâm từ bi; nhưng phải luôn cẩn thận, chớ để rớt vào cạm bẫy ái
tình.
Quý-vị nên chú ý!
Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nếu có người gởi cho quý-vị phong thơ
tình, quý-vị cảm thấy lòng mình vui mừng, giống như có con thỏ nhảy nhót,
con tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là chuyện tốt. Sự
thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đọa lạc mà thôi.
Quý-vị
thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công phu, phải thật sự hiểu
rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô cùng." Từ vô lượng kiếp tới nay, sở dĩ
sanh tử không thể chấm dứt được là vì sao? Chính là bị hai chữ "ái tình"
làm hại. Nếu như mình có thể "đoạn dục khử ái" thì mới có thể siêu thoát
Tam-giới, không còn sanh tử nữa.
Thứ mình thích thì
mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi thích, tức là mình đã sinh lòng
yêu thương. Hễ khi ghét lòng mình sinh ra sự ghét hận. Cả hai thứ, yêu,
ghét đều là do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc không dựa vào
tình cảm. Tuy nhiên cũng không thể giống như ông Quan Công, ngồi chễm chệ
trên bàn xử lý, người ta đảnh lễ, ông cũng không thèm nhìn tới. Ðối với
người, mình phải có sự hòa nhã, lễ độ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi
thường kẻ khác.
Tóm lại, đối với
người khác mình phải có lòng từ bi, tìm phương tiện giúp đỡ họ. Lúc nào
cũng nên nghĩ đến người khác và khiến họ sinh lòng hoan hỉ. Cho đến hơi
thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái
xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô cùng trọng yếu.
Hãy Nỗ Lực vì Hòa Bình Thế Giới
Nếu
trong vũ trụ đầy chính khí an lành,
trái
đất sẽ không bùng vỡ.
Thế giới hiện tại là
do nhiều quốc gia hợp thành. Mỗi một quốc gia gồm nhiều gia đình làm nên.
Mỗi gia đình gồm nhiều người tạo thành. Vì vậy mỗi cá nhân có quan hệ liên
đới rất lớn đối với toàn thể thế giới.
Nếu lòng người trên
thế gian thanh tịnh, không có tư tưởng nhiễm ô thì thế giới nhất định sẽ
hòa bình không có chiến tranh. Ngược lại, lòng người ô nhiễm thì thế giới
sẽ trở thành xấu xa. Ðạo lý này con người ai cũng hiểu nhưng họ không thực
hành. Biết mà cố phạm lỗi, đó thực là đáng thương xót vậy.
Sở vị hảo, yếu tòng
tâm tác khởi.
Sở vị hoại, dã tòng
tâm tác khởi,
Nghĩa là:
Ðiều tốt là do
tâm tạo ra.
Ðiều xấu cũng từ
tâm làm nên.
Thế giới hiện tại
đang tới chỗ sống buổi sáng nhưng không chắc sẽ có buổi chiều. Bởi vì sao?
Bởi vì địa cầu sắp đi đến chỗ bùng nổ, đã đến lúc vô cùng nguy hiểm. Tại
sao địa cầu đi đến chỗ bùng vỡ? Ðó là vì "tham, sân, si," ba thứ ác khí
trùm tỏa khắp mọi nơi. Nếu trái đất bị hủy diệt thì con người chẳng còn
tồn tại được nữa.
Tuy vậy, con người
không để tâm nghiên cứu vấn đề này, suốt ngày cứ sống trong sự mê muội,
chết đi trong mộng mơ. Ðể thời gian trôi đi một cách hồ đồ, không biết
rằng sự nguy hiểm trùng trùng. Có người chỉ quan tâm đến sự nguy hiểm
trước mắt, nhưng không biết nghĩ đến cứu cánh của tương lai. Họ chỉ lo
rằng loài người càng ngày càng đông thêm, sợ rằng không có thực phẩm ăn,
không có áo quần mặc, không có nhà cửa ở, không có tài nguyên, nhiên liệu.
Họ cho những vấn đề này là vấn đề trọng yếu. Kỳ thật những vấn đề đó còn
nhỏ, vì tới lúc ấy, mọi sự tự nhiên sẽ được giải quyết.
Thật ra vấn đề "sanh
tử" của mọi người mới là vấn đề trọng đại. Giây phút này mình còn, nhưng
phút sau không còn nữa, trong chớp mắt mình sẽ ra đi. Cái chết sẽ tới ngay
trên đầu mà mình không hay. Thương thay con người đối với vấn đề nghiêm
trọng như vậy mà rất lãnh đạm, coi như chuyện chiêm bao vậy. "Từ đâu mình
sanh ra, chết đi về đâu?" Không ai biết cả. Cho dù có biết, mình sẽ làm
sao đây? Biện pháp duy nhất là "cải ác hướng thiện" (sửa bỏ điều ác, chỉ
làm điều thiện). Sửa đổi con người chính mình, đừng sinh lòng ích kỷ, tư
lợi, mà phải có lòng từ bi; vì lợi ích tất cả chúng sinh và phải học tập
tinh thần của Bồ-tát.
Hành vi của mọi
người là do tâm chi phối. Bởi vì tâm nên mình biến thành các loài trong
mười Pháp-giới. Một niềm thiện thì sinh lên trời; một niệm ác thì bị đọa
địa ngục. Rằng:
Nhất niệm giác tựu
thị Phật,
Nhất niệm mê tức
chúng sinh.
Nghĩa là:
Một niệm giác ngộ
thì là Phật,
Một niệm hồ đồ
thì là chúng sinh.
Nói một cách giản dị
là khi có tư tưởng lợi ích cho kẻ khác, đó là Bồ-tát; một tư tưởng làm lợi
ích cho chính mình, thì đó là chúng sinh. Một ý niệm hồi quang phản chiếu,
tìm giải đáp nơi chính mình, thì đó là A-la-hán và Bích-chi Phật. Một ý
niệm tách rời sự giác ngộ, lăn theo bụi đời đó là phàm phu; một ý niệm xa
lìa bụi đời để trở về với giác ngộ tức là thánh nhân. Cho nên cả hai mặt
xoay qua đổi lại thật dễ như trở bàn tay vậy.
Thế giới tốt hay xấu
đều do một niệm trong tâm mình tạo thành. "Con người ai cũng có lòng lành
thì thế giới sẽ yên trụ mãi mãi; con người có lòng ác thì thế giới sẽ hủy
diệt." Ðó là đạo lý rất hiển nhiên. Ðạo Phật dạy người ta làm điều thiện,
biết rõ nhân quả. Làm điều thiện nhiều, làm công đức nhiều, cũng có nghĩa
rằng đừng có tranh, đừng có tham, không mong cầu gì cả, chẳng ích kỷ, cũng
chẳng tự lợi và không nói láo. Nếu được như vậy thì thế giới sẽ từ chỗ
nguy hiểm mà trở nên an ninh. Cho nên nói: "Nhất thiết duy tâm tạo." Tức
là tất cả mọi thứ đều do tâm mà ra. Tâm tạo ra thế giới, tâm cũng có thể
hủy diệt thế giới. Tâm tạo ra thiên đường, tâm cũng có thể tạo ra địa
ngục.
Gia đình là do mọi
người làm thành, con người là do vọng tưởng mà thành hình. Nếu đem vọng
tưởng xấu sửa đổi thành vọng tưởng tốt lành thì đó là người tốt. Nếu đem ý
niệm thiện mà biến thành ý niệm xấu thì đó là người ác. Ðó là sự khác biệt
giữa người ác và người lành.
Chúng ta là những
người tu hành thì phải "Siêng tu Giới, Ðịnh, Huệ. Trừ bỏ tham, sân, si."
Ðó là điều kiện căn bản của sự tu hành. Là người học Phật-pháp, trước hết
mình phải "không làm điều ác và làm tất cả những điều thiện." Ðó cũng
chính là điều căn bản. Nếu ai cũng làm theo điều này thì thế giới sẽ trở
nên tốt lành; khí lành sẽ gia tăng và ác khí sẽ giảm thiểu. Nếu trong vũ
trụ đầy dẫy những chính khí an lành, thì trái đất sẽ không bùng vỡ.
Làm sao cho thế giới
yên ổn, an lành? Chỉ còn biện pháp duy nhất là mình tới học Phật-pháp nơi
đạo tràng có chính pháp, rồi sửa đổi lỗi lầm của mình để trở thành người
mới. Mọi người ai cũng bỏ điều ác, làm điều lành thì thế giới sẽ không có
ba thứ tai nạn, tám thứ khốn khổ. Con người ai cũng sống trong hòa bình
thương yêu lẫn nhau, không còn tranh, không còn tham nữa. Ðó là thế giới
đại đồng.
Hy vọng rằng lúc đó
những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng sẽ vì gia đình, vì tổ quốc,
vì thế giới bỏ đi những tánh tham lam, làm những việc lợi ích cho xã hội.
Mình cũng nên biết rằng "tài sản là những vật ngoài thân." Sanh ra, mình
không đem chúng tới, chết đi, cũng chẳng mang chúng theo.
Khi sự hắc ám của
người ác được hào quang của người thiện chiếu soi làm tan mất, thì lúc đó
thế giới không còn bị ác khí bao trùm, địa cầu mới không bị hủy diệt. Ðạo
lý này tuy rất giản dị nhưng mình phải biết dụng công thâm hậu thì mới có
hiệu quả được. Quý-vị nên từ nơi "tâm" mà hạ thủ việc tu, cải tạo thế
giới, khiến cho thế giới được bình an.
Vị lãnh tụ của mình,
chính là cái "tâm." Nếu tâm xấu thì thân thể đầy đủ tật bệnh, gặp đủ thứ
tai nạn bất ngờ. Chúng ta cần phải phản tỉnh, kiểm thảo, nếu có tội lỗi
phải mau mau sám hối. Bởi vì:
Di thiên đại tội,
Nhất sám tiện diệt.
Nghĩa là:
Tội lỗi đầy trời,
Một niệm sám hối,
hết thảy sạch tiêu.
Tất nhiên, mình phải
thành tâm sám hối thì mới tiêu tai. Ðừng nên coi là chuyện đùa, ban ngày
làm chuyện ác, ban đêm sám hối, tin rằng có thể tiêu trừ. Nếu như có tư
tưởng như vậy, thì chẳng những tội chẳng tiêu mà còn nặng thêm nữa. Bởi vì
sao? Mình đã biết tội, mà cố phạm nữa thì không thể nào tha thứ được.
Ðả Thiền Thất Phải Khắc Kỳ
Thủ Chứng
Cần
chân thật dụng công tham thiền.
Có bản
lĩnh thật sự thì mới đáng kể.
Hôm nay là ngày đầu
thiền thất. Hy vọng quý-vị nổ lực tham thiền. Chớ lãng phí cơ hội khai
ngộ.
Ðả thất thì phải
khắc kỳ thủ chứng. Không thể ngồi trên thiền sàng mà khởi lên vọng tưởng.
Như vậy thì chỉ cô phụ công việc tham thiền của mình mà thôi. Quý-vị vọng
tưởng điều gì? Vọng tưởng có nhiều thứ không giống nhau, nhưng tóm lại đều
là những thứ vọng tưởng không có biên tế. Có người có vọng tưởng như vầy:
"Kỳ này tới tham thiền thất hy vọng sẽ khai ngộ, sẽ đắc đại trí huệ. Sau
khi khai ngộ, nhất định tôi sẽ tuyên bố trước thế giới tin tức đặc biệt
này, khiến toàn thế giới đều biết rằng tôi là người đã khai ngộ và để cho
mọi người phải cung kính tôi."
Quý-vị hãy nghĩ xem,
người có tư tưởng như vậy phải chăng là đã khai ngộ? Tôi dám chắc rằng,
tuyệt đối y chưa khai ngộ! Tại sao vậy? Bởi vì mới ngồi lên thiền sàng mà
vọng tưởng đã đầy dẫy như thế, nếu không vì cầu danh thì cũng là cầu lợi.
Vì danh lợi mà dụng công thì làm sao khai ngộ được.
Có người lại có vọng
tưởng như sau: "Kỳ thiền thất này ta nhất định sẽ khai ngộ! Ta sẽ là người
khai ngộ đầu tiên trong khóa thiền này. Kẻ khác không khai ngộ, chỉ có
mình ta là độc nhất khai ngộ, đó thật là một chuyện hết sức vinh quang
vậy!" Thậm chí có những kẻ không hiểu biết gì về khai ngộ, tự mình mạo
xưng là khai ngộ. Ði đâu cũng tuyên bố là mình đã khai ngộ rồi, lừa bịp
đại chúng khiến họ phải cung kính. Ðó là thứ "ngư mục hỗn châu," (trợn mắt
cá để người khác tưởng lầm là hạt ngọc). Những tư tưởng ấu trĩ như vậy
thật là đáng buồn cười. Hy vọng quý-vị đừng có những vọng tưởng đó. Phải
"cước đạp thật địa" nghĩa là chân phải đứng vững trên mặt đất, dụng công
tham thiền để có bản lãnh chân thật thì đó mới là đáng kể.
Có người thì có vọng
tưởng như vậy: "Mình phải nhất định khai ngộ; khai ngộ rồi thì người ta
mới đến cúng dường; có cúng dường thì lúc đó mới xây chùa lớn, làm một vị
pháp chủ, tín đồ mới lại thân cận cúng dường và mình sẽ trở thành một vị
đại pháp sư vang danh thiên hạ; ai cũng biết mình là danh tiếng cao ngất."
Quý-vị phải biết những kẻ không học, không tài, không thuật, mà thọ sự
cúng dường thì lương tâm làm sao an ổn được.
Bây giờ nói về tư
thế tọa thiền, mình cần phải ngồi cho đúng mới có ích lợi cho thân tâm.
Nếu không, tọa thiền không có giá trị gì. Trong khi tọa thiền, trước hết
phải để thân tâm mình tự nhiên nhẹ nhàng, không nên gấp rút khẩn trương.
Tốt nhất là ngồi thế kiết già, đó là thế căn bản của pháp ngồi thiền.
Thế kiết già phu tọa
(hoặc là thế kiết già) là gì? Tức là lấy chân trái để lên chân mặt, sau đó
để chân mặt lên đùi trái. Ðó là thế Kim-cang tọa, nghĩa là thế kiên cố bất
động. Trong quá khứ chư Phật đã ngồi thế Kim-cang tọa mà thành Phật; tư
thế này có thể hàng phục thiên ma và chế chỉ ngoại đạo. Khi chúng thấy
mình ngồi trong tư thế này thì chúng liền thối lui, không dám lại quấy
phá.
Sau khi đã ngồi kiết
già rồi, mắt phải nhìn vào chóp mũi, không được nhìn phía đông cũng không
được nhìn phía tây. Ðó gọi là:
Nhãn quán tỷ, tỷ
quán khẩu, khẩu quán tâm.
Nghĩa là:
Mắt nhìn mũi, mũi
hướng về miệng, miệng hướng về tâm.
Như vậy thì mình mới
có thể nhiếp trì được thân tâm; đem tâm đang chạy loạn xạ đó mà định trụ
lại, không cho nó chạy ra bên ngoài nữa. Khi được như vậy thì gọi là:
Chuyên nhất tất
linh,
Phân chi tất tệ.
Nghĩa là:
Tâm chuyên nhất,
mới linh cảm.
Tâm phân tán, thì
bế tắc.
Mình cần phải đoan
nghiêm chính tọa, xương sống phải thẳng, đầu phải ngay, không cúi về trước
cũng chẳng ngã ra sau; không nghiên bên trái hoặc ngã bên phải. Mình phải
ngồi như cái chuông lớn, vững vàng không động đậy. Ðừng ngồi giống như cái
chuông treo, lắc qua bên đông lắc qua bên tây. Ngồi kiết già là tư thế
thích hợp nhất để tham thiền.
Người sơ học sẽ cảm
thấy không quen, nào là đau chân, mỏi lưng, không nên coi đó là quan
trọng. Mình cần phải cắn răng chịu đựng, nhẫn nại một thời gian lâu dài
thì tự nhiên hiện tượng đó không còn nữa. Ðó gọi là "cửu tọa hữu thiền"
nghĩa là ngồi lâu tự nhiên sẽ có thiền, tự nhiên sẽ đắc được thiền vị.
Thế nào gọi là thiền
vị? Thiền vị tức là đắc được sự an lạc của thiền định, nếm được mùi vị
khinh an nhẹ nhàng. Mùi vị đó thật là ảo diệu vô cùng, không thể dùng tâm
tư cũng không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được. Cũng giống như người uống
nước, tự y mới biết nóng hay lạnh; mình cũng không thể dùng ý dùng tâm mà
hội được, không thể dùng ngôn ngữ mà truyền đạt. Quý-vị muốn biết thiền vị
đó là ngọt hay đắng thì phải nổ lực tham thiền, tới được cảnh giới tương
ưng thì tự nhiên sẽ hiểu được mùi vị đó. Cho nên quý-vị phải tham thiền.
Tham tới lúc "thủy lạc thạch xuất" nghĩa là nước cạn thì đá sẽ lộ ra, lúc
đó mình mới nếm được thiền vị.
Thiền thì không thể
nói được, cần phải tham. Nên thiền tông thì không lập văn tự, không lập
chữ nghĩa, là truyền thừa ở ngoài giáo điển. Trực chỉ tâm của con người để
mình thấy tánh, lập tức thành Phật.
Người tham thiền,
khi tham đến chỗ hỏa hầu của mình đã đủ thì tuyệt đối không còn nổi giận
nữa, không còn tranh luận với người khác, tới chỗ gọi là vô-tranh
tam-muội. Lại cũng không cầu danh, cầu lợi; coi phú quý như giọt sương
trên lá, công danh như bọt nước trên ngói. Trong khoảnh khắc giọt sương,
hơi nước sẽ tan mất đi. Người chân chánh tu hành thì xa lánh danh lợi;
không vì danh lợi mà giao động tâm mình.
Quý vị muốn trắc
nghiệm kẻ đó có chân chính tu hành hay không, thì coi tâm hắn có bị danh
lợi làm giao động chăng? Nếu y cầu danh không được thì nổi nóng, cầu lợi
không xong thì tức giận, nổi phừng ngọn lửa vô minh, tánh dữ như cọp, hung
tợn hơn ai hết, không cần hỏi mình cũng biết nhất định y là kẻ cầu danh
lợi rồi.
Ðời nhà Thanh, hoàng
đế Càn Long có lần đi tới Kim Sơn Thiền Tự ở tỉnh Trấn Giang để thưởng
ngoạn phong cảnh. Nơi sông Trường Giang hoàng đế hỏi Pháp Thanh Thiền-sư
rằng: "Trên giòng sông này một ngày có bao nhiêu con thuyền qua lại?"
Thiền-sư đáp rằng: "Chỉ có hai lần thuyền qua lại." Vua Càn Long không
hiểu hỏi: "Ông làm sao mà biết được chỉ có hai lần thuyền qua lại?"
Thiền-sư trả lời: "Một con thuyền gọi là danh, một con thuyền gọi là lợi."
Do chuyện này mình
biết rằng những kẻ độ thuyền qua sông, nếu không vì danh cũng vì lợi.
Nhưng họ không biết rằng kẻ cầu danh thì chết vì danh, kẻ cầu lợi chết vì
lợi. Cuối cùng chỉ tay trắng tới gặp ông Diêm Vương.
Cho nên:
Vạn bang đãi bất
khứ.
Chỉ hữu nghiệp tùy
thân.
Nghĩa là:
Mọi thứ nào đem
đặng.
Chỉ nghiệp là
theo hoài.
Người tu đạo nếu
không có lòng nóng giận, có thể nhẫn nhục, nại khổ thì dễ thành pháp khí,
có thể ở trong Phật-giáo là bậc đống lương, là bậc rường cột, có thể đem
Phật-giáo truyền bá sâu rộng. Người tu mà thường hay nổi nóng là người phá
hoại Phật-giáo, là kẻ làm hại tập thể.
Phật-giáo mới tới
Tây-phương (tức là nước Mỹ) trồng xuống khoảng đất thanh tịnh hạt nhân bồ
đề, hiện tại bắt đầu manh nha sinh xuất ra mạ. Hy vọng quý-vị là những
người làm vườn tốt, siêng năng tưới nước bón phân khiến được tươi tốt, rồi
tương lai cây cao lớn khai hoa và kết quả bồ đề.
Những người ở trong
Vạn Phật Thánh Thành đối với chuyện nói năng cần phải chú ý, không được
nói bừa bãi, không được tùy ý nói chuyện thị phi. Vạn Phật Thành Thành là
nơi thánh địa thanh tịnh để tu Ðạo, không thể có những ngôn ngữ của bàng
môn tả đạo. Các vị cần biết rằng đối diện với vạn Phật thì làm sao mình có
thể ăn nói loạn xạ được? Quý-vị phải nhớ lấy!
Bịnh tùng khẩu nhập,
họa tùng khẩu sinh.
Nghĩa là:
Bịnh do miệng mà
vào, họa cũng do miệng mà ra.
Ðây là câu danh ngôn
rất chí lý; quý-vị nói gì cũng phải suy nghĩ ba lần rồi mới nói, để tránh
nói những điều sai với nhân quả. Lời nói ra rồi thì không những mình phải
chịu trách nhiệm đối với pháp luật, mà còn chịu báo ứng đối với luật nhân
quả nữa.
Phật-giáo là tôn
giáo đề xướng tinh thần "vô ngã" cho nên không chấp nhận chuyện bói toán,
coi tử vi, phong thủy, hay coi tướng số. Những chuyện đó đều đi ngược lại
với Phật-pháp, cho nên mình phải cấm chỉ chuyện phổ biến nó. Nếu như
quý-vị tin vào những thứ tà pháp đó thì tự nhiên chấp nhận cái "ngã" của
mình tồn tại, tất cả là vì mình. Hễ có cái của mình, thì mình luôn luôn
tìm cách vì mình mà tính toán, vì mình mà chẳng vì người khác; như vậy thì
không còn gì là Phật-pháp nữa.
Phật-pháp thì dạy
con người không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi,
không vọng ngữ. Còn phong thủy thì dạy người ta tranh, dạy người ta cầu,
ích kỷ, dạy họ tự lợi, dạy họ nói láo. Thậm chí còn nói láo rằng trong một
trăm ngày thì có thể đại phát tài, có thể làm quan. Người có lòng tham thì
liền tin lời của y. Thật ra đại tài chưa phát mà tiểu tài đã hao đi, vì
phải đem tiền đi trả lễ cho ông thầy bói rồi. Bói như vậy chẳng khác nào
bảo người đó đi cướp tiền ngân hàng để lập tức được phát tài, không cần
một trăm ngày cũng đã phát rồi.
Lại nữa, nếu ông
thầy bói biết chỗ nào có phong thủy tốt có thể phát tài, có thể thăng quan
tiến chức thì tại sao bản thân y không dùng mà nói cho người khác biết?
Thật là vô lý! Hy vọng những người thông minh như quý-vị đừng nên mê tín
bị những kẻ đó lừa bịp.
Y học, bói toán,
tinh văn, tướng số, y bốc tinh tướng ở trong Phật-giáo là một trong năm
nghề người tu đạo không nên làm. Y tức là bác sĩ trị bệnh cho người khác
(người tại gia làm bác sĩ được, song kẻ xuất gia không làm). Bói toán biết
chuyện tốt xấu kiết hung. Tinh tức là tinh văn coi tinh tú biết được
chuyện tốt xấu kiết hung. Tướng tức là tướng mạo, coi biết được mệnh vận
thuận hay nghịch. Ðó là những điều mê tín. Mình phải biết rằng đạo lý
"nhân định thắng thiên" con người có thể thắng được trời.
Người xuất gia tu
đạo, sinh tử là chuyện không sợ, hà huống là những chuyện nhỏ nhặt này?
Những thứ đó có gì mà phải lấy làm lạ. Người xuất gia là người siêu xuất
ra số mạng.
Siêu xuất tam giới
ngoại,
Bất tại ngũ hành
trung.
Nghĩa là:
Vượt ra khỏi tam
giới,
Không ở trong ngũ
hành.
Nếu tính tướng mạng,
phong thủy, đó là những thứ mà những kẻ thế tục mới tin. Mình phải hiểu
rằng vận mệnh con người đều do nghiệp lực chiêu cảm mà sinh ra. Mình đừng
để tập khí dắt dẫn, đừng để vật dục làm mê mờ; cần phải tự sáng tạo vận
mạng cho chính mình, phải làm chủ tể vận mạng. Cứ làm nhiều công đức thì
sẽ cải tạo vận mạng của mình. Khi gặp nạn tự nhiên sẽ hóa thành kiết
tường. Rằng:
Ðản hành hảo sự
Mạc vấn tiền trình.
Nghĩa là:
Cứ làm việc tốt,
Ðừng hỏi chuyện
tương lai.
Bây giờ đả thiền
thất thì mình phải sáng tạo một sinh mạng mới. Chớ mê tín, phải có chánh
tín, chớ nên theo người ta nói ừ thì mình ừ, rồi cứ việc đi theo người
khác, họ đi trước mình theo sau, điều đó hết sức sai lầm. Mình phải có
Trạch-pháp-nhãn (con mắt biết nhận ra chân lý), biết cái nào đúng cái nào
sai, biết phân biệt thiện với ác, trắng với đen; phân minh rõ rệt thì mới
không bị điên đảo mê hoặc.
Người tu thiền có
thể làm chủ chuyện sinh tử của chính mình, sống chết rất tự do, không còn
hạn chế nữa. Nên nói:
Tánh mệnh do ngã bất
do thiên.
Nghĩa là:
Tánh mệnh của
mình là do mình tạo, không phải do trời.
Chính ông
Diêm-la-vương cũng không thể nào khống chế, không làm gì mình được. Tại
sao vậy? Bởi vì mình đã ra ngoài cõi Tam-giới rồi.
Thế nào là đến đi
một cách tự do? Có nghĩa là đối với chuyện sinh tử mình hết sức tự do, nếu
muốn sống thì sống, muốn chết thì chết, tùy tâm mong muốn. Tuy nhiên
quý-vị phải chú ý, sự chết này không phải do tự sát, tự uống thuốc độc.
Thân thể của mình
cũng giống như căn phòng vậy. Muốn du hành ra ngoài, muốn đến chỗ nào thì
tự do mà làm. Muốn hóa thân thành trăm ngàn vạn ức tới tận hư không biến
Pháp-giới để giáo hóa chúng sinh thì tùy ý nhậm vận. Nếu không muốn đi du
hành thì mình vẫn ở trong căn phòng, không ai có thể tới làm phiền mình
cả. Nên hiểu rằng tận hư không biến Pháp-giới, tất cả mọi thứ đều ở trong
pháp thân, không có gì chạy ra khỏi pháp thân này.
Quý-vị hết sức siêng
năng cần khổ lại tham thiền, ngày đêm không ngừng dụng công, là chỉ vì
muốn được tự do trong sinh tử, khống chế được sinh mạng của chính mình,
làm chủ chuyện sinh tử. Khi đã làm chủ được thì đó là mình đã tới được
cảnh giới sinh tử tự do.
Người tham thiền
tham đến chỗ trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa cũng
không thấy có người, cùng với hư không hợp thành một. Tới cảnh giới như
vậy sẽ có cơ hội khai ngộ. Lúc ngồi lúc đi đều là cơ duyên để khai trí
huệ.
Mình tham câu: "Niệm
Phật là Ai?" Niệm Phật là người nào? Người nào đang niệm Phật? Ai là người
đang ngồi đây? Người ngồi đây là Ai? Lúc ăn cơm, Ai là người ăn cơm? Lúc
ngủ, Ai là người đang ngủ? Phải tìm ra kẻ đó. Tìm tất cả là Tham; tham đến
lúc thủy cùng sơn tận thì với một sự chuyển thân mình sẽ khai ngộ. Rằng:
Sơn cùng thủy tận
nghi vô lộ,
Liễu ấm hoa minh hựu
nhất thôn.
Nghĩa là:
Núi cùng, sông
bặt, tưởng hết đường,
Tàng liễu, hoa
giăng, hiện thôn trang.
Núi đã hết, sông đã
tận cùng, nghĩ rằng không còn đường đi nữa. Nhưng sau tàng cây liễu, sau
đám hoa tươi kia lại xuất hiện một thôn làng.
Lại nói:
Bách xích can đầu
trùng tấn bộ,
Thập phương thế giới
hiện toàn thân.
Nghĩa là:
Ðầu sào trăm
trượng, dấn bước thêm bước,
Mười phương thế
giới sẽ hiện thân.
Nếu như không ngồi
tịnh tọa, không tham thiền, thử hỏi các vị có biết mình từ đâu sinh ra và
chết rồi về đâu không? Các vị nói không biết. Không biết tức là hồ đồ sinh
ra, rồi lại hồ đồ chết đi. Cả một đời như thế thì thật đáng thương!
Người dụng công tham
thiền khi khai ngộ rồi, nhận thức được bản lai diện mục của mình trước khi
được cha mẹ sinh ra. Thoát nhiên hiểu suốt; tất cả những thứ tinh thô đẹp
xấu mà người ta khó biết thì tâm mình không có chỗ nào chẳng thấu suốt.
Khi tới được cảnh giới đại tạo hóa, thì tương lai sẽ thành Phật đạt tới
quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lão Tử từng nói hai
câu như sau:
Thiên hại gia tri mỹ
chi vị mỹ, tư ác dĩ.
Giai tri thiện chi
vi thiện, tư bất thiện dĩ.
Nghĩa là:
Thiên hạ biết đẹp
là đẹp, ắt đã có cái xấu rồi.
Biết việc lành là
lành, hẳn đã có cái không lành rồi.
Người trên thế giới
đều biết làm chuyện tốt là tốt, nhưng đến lúc làm thì chẳng tốt đẹp gì.
Người ta biết làm chuyện thiện là đúng, đến lúc thử thách tới thì không
vượt qua được. Lại bị cảnh giới làm mê hoặc, không làm được việc thiện mà
chỉ chạy đi làm chuyện ác.
Người học Phật biết
rằng "từ, bi, hỷ, xả," tứ vô lượng tâm là căn bản của pháp hành đạo Bồ-tát
nhưng lại không chịu làm. Biết rõ đạo lý thì phải biết công dụng như thế
nào? Ngày nào cũng học Pháp "Lục độ," đến lúc gặp thử thách thì bố thí
mình không chịu bố thí, trì giới thì chẳng trì giới, nhẫn nhục cũng hết
nhẫn nhục, tinh tấn liền mất tinh tấn, thiền định cũng không thiền định,
trí huệ thì cũng chẳng có trí huệ. Quý-vị hỏi mình học như vậy thì có ích
gì?
Sau đây là ý nghĩa
của Lục-độ:
1. Bố-thí: Tức là
dùng tài sản vật chất hoặc Phật-pháp để bố thí kẻ khác. Có người lúc cần
bố thí thì không chịu bố thí. Ngược lại, y kêu người khác bố thí cho mình,
càng nhiều càng tốt. Nói rằng bây giờ tôi không muốn cho anh, anh cần phải
bố thí cho tôi! Y luôn tìm cách chiếm tiện nghi, không chịu thua thiệt.
Hạng người này lúc nào cũng cho mình là đúng.
2. Trì-giới: Thiên
hạ người nào cũng biết trì giới là trì giới, nhưng đến lúc gặp thử thách
không những không giữ giới mà lại phá giới nữa. Thọ giới tức là không động
tâm. Bất luận cảnh giới nào đến mình cũng không động. Rằng:
Thái Sơn băng tiền
tâm bất kinh.
Mỹ sắc đang tiền tâm
bất động.
Nghĩa là:
Nếu núi Thái có
sập trước mặt, lòng ta chẳng kinh hãi.
Mỹ sắc trước mắt,
lòng ta không xao xuyến.
Ðó là định lực có
thể chuyển được cảnh giới. Bất kể là cảnh ác hay thiện, thuận hay nghịch,
mình đều thản nhiên; không sinh tâm phân biệt thì tự nhiên gió yên sóng
lặng.
3. Nhẫn-nhục: Nghĩa
là nhẫn thọ những gì không như ý. Nếu có thể nhẫn thọ tất cả những chuyện
không đúng với ý mình, thì đó tức là mình chịu khảo nghiệm và chịu thử
thách. Nếu mình có thể chịu được thử thách thì có thể qua được "quan"
(cửa). Nếu không chịu được thì mình không qua được cửa. Ai cũng biết nhẫn
nhục thì sẽ đến được bờ bên kia; nhưng khi cảnh giới tới thì chẳng nhẫn
được. Lửa vô minh cao ba thước nổi lên; bao nhiêu công đức kết tụ trong
một khoảnh khắc tiêu sạch hết.
4. Tinh-tấn: Khi
mình đả thiền thất tức là tinh tấn. Ai ai cũng muốn tinh tấn, nhưng đến
lúc tinh tấn thì không chịu tinh tấn, chỉ muốn lười biếng an phận thụt
lui, hoặc chạy đi pha trà hoặc cố ý đi nhà vệ sinh, hoặc cố ý xuống bếp để
uống trà; tất cả đều là cái cớ để cho qua thời giờ. Khi chưa đả thiền thất
thì nói nghe rất là hăng hái, rằng tôi sẽ tham gia thiền thất thật giỏi.
Ðến khi thiền thất bắt đầu thì không còn nhớ điều mình thề nguyền lúc
trước nữa. Tại sao vậy? Ðây chính là biết rõ mà cố ý phạm lỗi. Tuy biết
tham thiền là chuyện tốt mà vẫn cứ lười biếng. Quý-vị nghĩ xem tâm lý mâu
thuẩn như vậy làm sao giải quyết đây? Qui củ của thiền đường là nếu người
nào không giữ luật lệ sẽ bị đánh; đánh đến lúc nào khai ngộ thì thôi.
5. Thiền-định: Hiện
tại tham thiền tức là thời gian dụng công tốt nhất. Tại sao cần phải đả
thiền thất? Vì muốn tinh thần được tập trung, tâm không vọng tưởng, khiến
trí huệ mình hiện tiền. Cho nên có câu: "Trí huệ giải thoát" tức thiền
định là phương pháp khắc kỳ thủ chứng (nghĩa là định kỳ hạn để tu chứng).
6. Trí-huệ: Là thứ
đưa mình tới bờ bên kia, liễu sinh thoát tử. Nếu như muốn khai trí huệ mà
lười biếng thì sẽ mất đi cơ hội khai ngộ. Nên tham thiền cần phải chăm chú
không để thời gian qua uổng vì không biết mình sẽ khai ngộ trong giây phút
nào. Có người có vọng tưởng như vầy: "Tôi không muốn có trí huệ vì sự ngu
si của tôi cũng tốt lắm mà! Tôi không hiểu mọi chuyện thì cũng chẳng sao."
Ðó là thứ gọi là: "Yếm nhĩ đạo linh." Nghĩa là vừa đánh chuông vừa bịt tai
(tưởng không ai nghe), mình chỉ tự lừa mình. Ðến lúc chết rồi mới hiểu
rằng mình đến thế gian này một cách luống uổng. Lúc đó có hối hận cũng đã
muộn rồi.
Phật-giáo ở Mỹ là
lúc mới bắt đầu, nên phải có người tu hành chân thật, phải "cung hành thực
tiễn" tức là thực sự tu hành. Cần chuyên nhất tu hành, tự mình cải bỏ lỗi
lầm để tu hành, sửa đổi tập khí mà tu hành, phải làm gương cho kẻ khác thì
tiền đồ Phật-giáo mới sáng lạng được. Nếu như mới bắt đầu mà không có
người chơn chánh tu hành làm mô phạm, không có ai phát tâm bồ đề, thì
Phật-giáo ở Tây-phương không thể hưng thịnh được. Do đó sự hưng thạnh của
Phật-giáo phải do các vị thanh niên đảm nhận.
Hiện tại hai vị "Tam
bộ nhất bái" là những vị tu hành rất thành tâm, có thể nói là tiên phong
mở đường cho Phật-giáo vậy. Các vị đó trên đường lộ, đi ba bước lạy một
lạy, không phải vì cầu phước báo cho mình, mà vì muốn cầu hòa bình toàn
thế giới. Hơn hai năm qua, hai vị đó nhịn đói nhịn khát, nhẫn lạnh nhẫn
nóng, chịu gió chịu mưa hết sức cực khổ. Tu hành như vậy không phải là
chuyện người thường có thể làm đặng. Các vị đó nhẫn chịu những thứ mà
người khác không nhẫn chịu được, nhường nhịn những cái mà người khác không
thể nhường nhịn được, ăn những đồ ăn mà người khác không muốn ăn, mặc
những quần áo mà người khác chê không thèm mặc. Bất kể là gió thổi hay mưa
rơi vẫn cứ lạy Phật không ngừng, cũng không cần biết là trời nóng hay
lạnh, đói hay khát, không ngừng nghỉ, cũng không giải đãi, không lười
biếng, ngày ngày đều tụng kinh sáng chiều hai thời, mỗi giờ mỗi phút không
bao giờ lười biếng an phận. Hai vị đó tinh tấn nổ lực tu hành là vì muốn
Phật-giáo có thể phát triển khắp nơi trên toàn thế giới. Hai vị tu hành
cực khổ như vậy, không phải vì danh cũng chẳng phải vì lợi, mà vì muốn lấy
trách nhiệm của Phật-giáo làm trách nhiệm của chính mình. Tinh thần đó
thật là đáng khen ngợi.
Quý-vị phải học cho
bằng công hạnh của hai vị Tam-bộ Nhất-bái. Lấy họ làm gương soi để mình
phản tỉnh. Xem đối với Phật-giáo mình đã cống hiến được những gì, chuyện
mình làm là vì mình hay vì Phật-giáo? Nếu như vì mình, thì hãy sinh tâm
hết sức hổ thẹn, lập tức sửa đổi hành vi không chánh đáng đó. Nếu vì
Phật-giáo thì mình cần phải nổ lực hơn nữa, cần phải cổ võ khiến Phật-giáo
phát triển, bảo vệ Phật-giáo, cần phát bồ đề tâm, hành Bồ-tát đạo, lúc nào
cũng muốn kẻ khác được an lạc, không tính toán riêng tư cá nhân, đó mới là
tinh thần của Bồ-tát đạo.
Quý-vị ở trong thiền
đường, lúc đi lúc ngồi cho là khổ sở nhưng nếu so với hai vị Tam-bộ
Nhất-bái thì sự khổ sở ấy thật là hết sức sung sướng vậy. Quý-vị cần thể
nghiệm điều này một cách sâu xa, đừng để mất cơ hội. Hai vị hành giả đó
nếu không phát tâm bồ đề, không hành Bồ-tát đạo thì đương nhiên là chẳng
thể hoàn tất cuộc hành trình của họ được.
Ở thiền đường quý-vị
đừng nên sinh tâm vọng tưởng; thân ở trong thiền đường mà tâm thì đến thế
giới khác du ngoạn, đó tức là đầy dẫy vọng tưởng, có thể ảnh hưởng đến tâm
tu đạo của mình; quý-vị phải nhớ lấy! Không được để cho thời gian trôi qua
một cách lãng phí mà mình phải nắm lấy thời cơ, chụp lấy cơ hội khai ngộ.
Nếu mình chuẩn bị như vậy thì không hổ thẹn với chính mình, còn ngược lại
thì chỉ là nói suông mà thôi.
Giảng ngày 20
tháng 8 năm 1979 tại Vạn Phật Thánh Thành
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo
Gấp
thì đứt, chậm thì lỏng.
Không
chậm, không gấp mới thành công.
Pháp môn tham thiền,
cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không
được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:
Khẩn liễu băng, mạn
liễu tông
Bất khẩn bất mạn tài
thành công.
Nghĩa là:
Gấp thì đứt, chậm
thì lỏng
Không chậm, không
gấp mới thành công.
Không gấp không chậm
là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái
nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu
nghĩa.
Tham thiền không
được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố
hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng
không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên
nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng
chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân
không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không
thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không
xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.
Người dụng công cần
phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán
triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc
thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp
chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như
vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:
Tu Ðạo bất phạ mạn,
chỉ phạ trạm.
Nghĩa là:
Người tu đạo
không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.
Lúc thường dụng công
tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là
trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có
trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình
thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng
(thập nhị nhân duyên).
Người dụng công tu
đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng
cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả
thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại.
Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp
đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải
xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản,
tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:
Tâm thanh, thủy hiện
nguyệt,
Ý định, thiên vô
vân.
Nghĩa là:
Lòng trong suốt,
trăng hiện bóng nước.
Ý an định, trời
xanh không mây.
Khi lòng thơi thản,
trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:
Tâm chỉ niệm tuyệt
chân phú quý.
Tư dục đoạn tận chân
phước điền.
Nghĩa là:
Tâm ngừng, niệm
dứt là giàu sang thật.
Lòng tư dục cạn,
ruộng phước mới chân.
Tham thiền tức là
dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như
sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn.
Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng
nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh
tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền,
nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra
là vậy."
Khi tham thiền thì
mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?"
Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham.
Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết
quả tốt.
Khi ngồi trong thế
kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái.
Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi
thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới,
đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức
là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ
chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất
định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một
phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là
một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị
phải tuân theo như vậy.
Nói tóm lại, kiết
già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong
lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập
định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy
sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một
niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất
định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền.
Phật Pháp rất Bình Ðẳng
Trong
Phật-giáo một phần công,
một
phần tội đều chẳng bao giờ sai lạc.
Phật-pháp rất thâm
áo. Khi ở trong Phật-pháp mình không cảm thấy chỗ nào tốt, khi ở ngoài
Phật-pháp mình cũng chẳng thấy chỗ nào xấu. Song, trong Phật-giáo một phần
công, một phần tội đều chẳng bao giờ sai lạc. Ðạo Phật hết sức tự do, bình
đẳng, chẳng có chuyên chế, cũng chẳng đi vào chỗ cực đoan.
Tại sao nói là hết
sức bình đẳng? Bởi vì tất cả chúng sinh, bất luận là ngạ quỷ địa ngục,
hung thần ác thú, kẻ dữ người xấu, nếu phát tâm tu hành, quay đầu về bến,
đều có thể thành Phật. Không giống như thuyết ngoại đạo rằng: "Kẻ ác người
xấu thì vĩnh viễn là xấu ác, không có cách gì có thể độ được. Hoặc rằng
mãnh hổ ác thú vì tánh tình vô cùng tàn bạo, sẽ không được cứu vớt."
Ðời nhà Minh bên
Trung Quốc có vị Ðại-sư tên là Liên Trì. Ngài có một đệ tử là con cọp,
thường hay ở bên cạnh để hộ vệ Ngài. Nhưng vì cọp là loài ác thú, nên mọi
người thấy đều sợ hãi. Do đó, Ðại-sư mới dạy con cọp nầy, rằng mỗi lần đi
ra đi vô thì không được đi thẳng; con cọp liền nghe lời Ngài, khi ra vô
đều đi lui. Nên mọi người không còn sợ, vì biết là cọp thiện. Con cọp nầy
cũng biết đi khắp nơi để hóa duyên cho Liên Trì Ðại-sư. Khi người ta thấy
con cọp thiện này tới, ai nấy đều tranh nhau bố thí cúng dường. Thành ra
cọp cũng có thể quy y Tam-bảo, hộ trì Phật-pháp, và có thể thành Phật vậy.
Phật-giáo hết sức là
tự do, bởi vì giáo lý trong Kinh Phật chỉ khuyên dạy người ta làm thiện
tránh ác. Làm ác thì tự mình thọ quả báo. Nhưng Phật-giáo cũng không bắt
ép người ta làm chuyện tốt, cũng không dọa rằng: "Nếu không nghe lời,
chuyên tạo ác nghiệp thì bị bỏ vào tù." Bởi vì mọi thứ đều do tâm tạo,
thiên đường hay địa ngục đều do tư tưởng và nghiệp lực của mình tạo thành.
Phật-pháp dạy người ta rằng: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành."
Nghĩa là đừng làm chuyện ác, chỉ làm tất cả điều lành, đồng thời xiển minh
đạo lý nhân quả, không sai lạc được dù đối với việc nhỏ như sợ tóc, để
người ta nhận thức được chân lý siêu xuất luân hồi.
Ðại Thiện Ðại Ác Vượt Ra
Ngoài Số Mạng
Vận
mệnh có thể sửa đổi,
khả
năng sửa đổi ở trong tay mình.
Xưa kia có một vị họ
Viên hiệu Liễu Phàm, tên Học Hải, là một danh nho đời nhà Minh, lúc nhỏ
chàng hay đọc sách nhưng phụ thân muốn chàng học nghề thuốc để tế thế cứu
người, cho nên chàng liền cải đổi học y. Về sau, chàng gặp một vị tướng số
râu dài nói với chàng rằng: "Ngài có số làm quan, ngài nên đọc sách để có
thể làm quan lớn. Vào ngày đó tháng đó thì ngài sẽ đậu tú tài; năm đó
tháng đó ngày đó ngài sẽ được làm huyện quan, bổng lộc rất nhiều, bao
nhiêu đó... Rồi năm nọ tháng kia ngài sẽ được thăng quan tiến chức bỗng
lộc bao nhiêu bao nhiêu... Cho đến năm năm mươi bốn tuổi, ngày 14 tháng 8
nửa đêm ngài sẽ mệnh chung, suốt đời không có con cái gì cả." Do vậy cho
nên Viên Học Hải mới đổi môn học, thì quả đúng như lời toán số, mười phần
linh nghiệm. Bởi vì mệnh vận đã định rồi cho nên chàng chẳng cần tinh tấn,
chẳng cầu tiến bộ. Suốt ngày chỉ du sơn ngoạn thủy.
Một hôm nọ chàng tới
núi Thê Hà, tại đó có một vị thiền sư tên là Vân Cốc. Khi chàng tới bái
kiến vị thiền sư này; Thiền-sư Vân Cốc liền đưa cho chàng một bồ đoàn. Hai
người ngồi đối diện như vậy suốt ba ngày, thiền sư cảm thấy rất là kỳ lạ,
hỏi rằng: "Ngài từ đâu tới? Có thể ba ngày đêm ngồi bất động chẳng có vọng
tưởng, hẳn rằng ngài là một vị kỳ nhân tu đạo."
Họ Viên đáp: "Bởi vì
tất cả mọi sự đều do vận mệnh an bài, nên tôi chẳng tham chẳng cầu, chẳng
có vọng tưởng gì cả."
Vị thiền sư nghe nói
liền tiếp lời: "Tôi tưởng ngài là một bậc phi thường, nhưng hóa ra ngài
chỉ là một kẻ phàm phu tục tử."
Họ Viên nghe thế,
lấy làm không vui, mới hỏi rằng: "Sao thiền sư nói tôi chỉ là một kẻ phàm
phu tục tử?"
Thiền sư trả lời:
"Nếu không phải là phàm phu thì tại sao lại bị vận mệnh trói buộc?"
Họ Viên liền hỏi:
"Vận mệnh trốn thoát được chăng?"
Thiền sư đáp rằng:
"Ngài là kẻ thư sinh đọc sách, sao lại không biết trong Kinh Dịch có một
câu nói rất rõ là: "Thú kiết tỵ hung," nghĩa là tới chỗ tốt, tránh chỗ
xấu. Nếu mà số mạng không thể trốn được thì làm sao tới chốn an tường,
tránh xa điềm dữ.
Họ Viên nghe thấy
liền đại ngộ, lập tức đổi tên mình thành Liễu Phàm. Ý nói rằng từ ngày hôm
nay về sau mình không còn là kẻ phàm phu nữa. Từ đó về sau, chàng luôn làm
việc thiện, tích phước tích đức khiến những điều mà vị tướng số nói không
còn linh nghiệm nữa. Viên Liễu Phàm sống đến hơn tám mươi tuổi, có ba
người con. Bởi vậy vận mệnh không phải là nhất định, điều tốt xấu kiết
hung cũng không phải nhất định. Cổ nhân nói rằng: "Quân tử tạo mệnh."
Người có đạo đức, chính nhân quân tử thì có thể sửa đổi được vận mệnh,
siêu xuất khỏi số mệnh mình.
Tại sao có điều
chẳng lành xảy ra? Ðó là vì trong tâm mình chẳng lành, mình luôn trồng
những thứ nhân ác thì đương nhiên sẽ gặt những thứ ác báo. Nếu như mình có
thể sửa đổi lỗi lầm, làm lành tránh dữ, thì mình có thể thú kiết tỵ hung.
Từ chuyện này mà suy ra rằng vận mệnh có thể thay đổi, mà chính năng lực
thay đổi đó lại ở trong tay mình. Rằng: "Ðại thiện đại ác, vượt ra ngoài
số mạng."
Xin Bồ-tát Làm Tiêu Ðộc Cho
Toàn Cầu
Dùng
cam lồ và nước pháp tẩy trừ độc khí trên thế giới.
Ðộc tiêu một
phần, thế giới bình an thêm một phần.
Tại sao ta đả Ðịa
Tạng Thất? Bởi vì hiện tại thế giới có quá nhiều tai nạn, nên chúng ta cần
Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát dùng sức bổn nguyện làm tiêu mọi tai nạn.
Ðịa Tạng Bồ-tát rất
tôn trọng đạo hiếu, bởi vì Ngài đời đời kiếp kiếp luôn là người con hiếu
thảo với cha mẹ. Ðây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì chính từ sự khốn
khổ gian nan mà Ngài tu luyện thành đạo. Cha mẹ Ngài không tin Tam-bảo,
nhưng Ngài phải thuận ý họ, dùng mọi thứ thiện xảo phương tiện để khuyến
dụ các vị đó sinh lòng chính tín nơi Tam-bảo. Nơi nào Ngài tới, Ngài đều
làm hạnh Bồ-tát, chẳng lộ hình tướng, không chấp trước. Không có hình
tướng là bởi vì Ngài không kể công, không tự mình khen đức hạnh. Cũng
giống như khi cứu độ chúng sinh, Ngài lại nói rằng là chúng sinh tự độ,
không muốn chúng sinh cám ơn Ngài, đảnh lễ Ngài.
Khi Ngài ở địa vị
Bồ-tát, Ngài không nghĩ rằng mình cao minh hơn các vị Bồ-tát khác; hoặc là
mình có thệ nguyện vĩ đại, có lòng từ bi rộng lớn hay có thần thông quảng
đại hơn hết. Ngài không có những tư tưởng đó. Mọi việc làm của Ngài, nhất
cử nhất động, nhất ngôn nhất hạnh đều coi như vô sự: Việc mình đem hết sức
hết lòng ra làm mà không thấy mình có làm, không sinh lòng kiêu hãnh, cũng
không làm kẻ khác chú ý. Ngài chỉ nghĩ rằng đó là bổn phận của Ngài, Ngài
không kể lể công trạng, vì thế Ngài cảm động được tất cả chúng sinh, khiến
họ tán thán xưng dương ca ngợi Ngài, thậm chí cả Phật cũng khen ngợi Ngài
nữa. Phật không tùy tiện khen ngợi kẻ khác, chỉ khi nào có kẻ xứng đáng
thì Phật mới khen mà thôi. Bởi vì Ðịa Tạng Bồ-tát không kể công, Ngài cũng
không tuyên truyền công đức của mình nên cảm ứng đạo giao. Cảm ứng đạo
giao đó không phải do dùng thủ đoạn, hay mánh khóe mà được. Nó tới một
cách tự nhiên. Người tu Ðạo chúng ta phải học tinh thần thề nguyện vô biên
của đức Ðịa Tạng:
Ðịa ngục vị không,
thệ bất thành Phật.
Chúng sinh độ tận,
phương chứng bồ-đề.
Nghĩa là:
Ðịa ngục chưa
trống, thề chưa thành Phật.
Chúng sinh độ
hết, mới chứng bồ-đề.
Hàng năm chúng ta đả
thất, bởi vì muốn thế giới tiêu trừ độc khí. Hiện tại không khí rất ô
nhiễm, vũ trụ đầy các thứ khí độc, mà tất cả những phương pháp đều không
thể trừ được nó, chỉ có cách là chúng ta phải chí tâm thành khẩn, cầu chư
Phật Bồ-tát phóng quang, tiêu trừ những thứ độc khí đó, làm khí độc vô
hình vô ảnh đó tiêu tan đi. Nên ở Vạn Phật Thánh Thành, mọi việc làm, đều
có quan hệ đến sự an nguy của toàn thế giới. Ở trong đạo tràng này, quý-vị
còn không thành tâm, thì thế giới ắt tăng thêm nguy hiểm hơn!
Nhân loại tạo ra quá
nhiều ác nghiệp và sức người khó tiêu trừ chúng được. Hôm nay nhân ngày
vía Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát, chúng ta đồng tâm, hết sức chí thành niệm "Ðịa
Tạng Vương Bồ-tát"; kỳ vọng rằng có thể cảm động được lòng từ bi của
Bồ-tát, khiến Ngài giúp thế giới được tới chỗ bình an vô sự. Có được cảm
ứng nầy hay không, đều do sự thành tâm của quý-vị cả. Sức của một người
thì không đủ, phải cần sức lực của đại chúng. Cho nên nói: Ðại chúng chí
thành, hợp tâm hợp lực, cùng nhau cầu đảo cho thế giới hòa bình.
Bây giờ trong tâm
quý-vị đã hiểu rằng, thế giới đầy tai ách này chẳng có hòa bình. Bởi vậy
hiện tại các đạo tràng trên thế giới đều cầu đảo sự hòa bình. Ðầu tiên cả
là do Phật-giáo Giảng Ðường, Kim Sơn Thánh Tự đề xướng, sau đó những nơi
khác ở Hương Cảng, Ðài Loan đều làm theo; đó cũng chứng minh rằng thế giới
đang lâm vào tình trạng rất khó khăn nguy hiểm. Tuy nhiên, chơn chính cầu
đảo cho hòa bình thế giới thì có đạo tràng ở Vạn Phật Thánh Thành. Tại sao
vậy? Bởi vì ở đây tổ chức pháp-hội gì, đều không hy vọng có đại thí chủ
tới cúng dường tiền bạc, mỗi năm tổ chức một cách âm thầm; cứ tới ngày giờ
là tổ chức. Chẳng cần biết là có trai chủ hay không; cứ theo thường lệ mà
tiến hành, coi đó là bổn phận của mình, không tự hào, không mảy may tính
toán chuyện lợi hại gì. Mình chỉ hy vọng rằng Phật sẽ phóng quang gia bị
sớm tiêu trừ tất cả những độc khí trên thế giới. Quán Âm Bồ-tát dùng nước
cam lồ, quán đỉnh khiến chúng sinh tai tiêu bệnh trừ, tội diệt phước sinh.
Ðịa Tạng Bồ-tát dùng nguyện lực quảng đại của Ngài làm chúng sinh ly khổ
đắc lạc, tiêu tan hết tai nạn ách chướng. Niệm Quán Âm Bồ-tát, niệm Ðịa
Tạng Bồ-tát tức là giúp cho thế giới được tiêu độc, nhưng không cần dùng
thuốc sát trùng, chỉ cần dùng nước cam lồ pháp thủy để tiêu trừ độc khí
trên thế giới. Tiêu đi một phần thì thế giới có thêm một phần bình an. Khi
độc khí không còn nữa, lúc đó chúng sinh sẽ được hưởng phước, nhân loại sẽ
được an lành!
Giảng ngày 4
tháng 9 năm 1982, nhân dịp Ðại Tạng Thất tại Vạn Phật Thành.
Phật Pháp Là Gì?
Tu đạo
tức là "quay ngược lại."
Thế nào là
Phật-pháp? Phật-pháp tức là thế gian pháp. Song nó là pháp mà người thế
gian không muốn làm. Người đời ai cũng bận rộn lăng xăng, mà phát xuất
điểm không ngoài lòng ích kỷ riêng tư, chỉ lo bảo vệ thân mạng và của cải
chính mình. Phật-pháp thì đại công vô tư (chỉ có công ích không có tư lợi)
đem lợi ích đến mọi người. Khi học Phật-pháp, trong mọi việc làm mình hãy
nghĩ đến người khác. Hãy xem nhẹ cái "tôi" này, quên mình vì người và chớ
làm kẻ khác bực dọc phiền não. Ðó chính là Phật-pháp. Song phần lớn người
ta không nhận thức rõ ràng được điểm này. Vì thế trong Phật-giáo xảy ra đủ
thứ tranh chấp, cãi vã, phiền não, thị phi. Chẳng khác gì, hoặc tệ hơn,
chốn trần tục của người đời nữa. Những người này một đằng học Phật, một
đằng tạo tội nghiệp. Vừa lập chút công, lại vừa tổn chút đức. Do đó, chẳng
những họ không mang lợi ích cho đạo Phật, mà ngược lại làm tổn hại đạo
Phật. Việc ấy đức Phật gọi rằng: "Con giòi trong thân sư tử, gặm nhấm thịt
sư tử."
Là đệ tử Phật, nếu
mình ích kỷ, tự lợi, không biết nhìn xuyên suốt (khán phá), không chịu
buông bỏ (phóng hạ), thì sao tương ưng với Phật-pháp được? Người học Phật
cần:
Chân nhận tự kỷ thác
Mạc luận tha nhân
phi
Tha phi tất ngã phi
Ðồng thể danh đại
bi.
Nghĩa là:
Tự nhận rõ mình
lỗi.
Chớ nói người
khác sai.
Họ sai tức mình
sai.
Ðồng thể là đại
bi.
Muốn hiểu chân lý
đạo Phật thấu đáo, trước tiên mình cần tự tu nhẫn nhục, bố thí. Thế mới
đưa tới thành tựu. Mình cần "xoay ngược lại," tức là phải tách biệt với
người đời, không a dua theo trào lưu. Tu đạo mình cần "Ðổi ngược lại."
Nghĩa là sao? Tức là: "Nhường cho người việc tốt, tự mình lãnh việc xấu."
Buông bỏ bản ngã hẹp hòi để hoàn thành Ðại Ngã.
Phàm là đệ tử của
tôi, các vị đều là máu thịt nơi thân tôi. Bất luận là máu thịt nào bị cắt
xén, tôi cảm thấy đau đớn lắm. Bất kỳ nơi nào chảy máu, đều làm tổn thương
nguyên khí của tôi. Do đó các vị hãy đoàn kết với nhau. Vì muốn làm
Phật-giáo rạng rỡ vẻ vang, các vị cần chịu đựng những chuyện thiệt thòi mà
không ai chịu nổi, phải nhẫn những thứ nhục nhã mà không ai nhẫn nổi. Phải
để lòng dạ rộng rãi, làm gì cũng cần thật thà. Mình không thật thà thì
Phật Bồ-tát biết hết đó. Làm sao mình lừa bịp chư Phật Bồ-tát được. Các vị
hãy kiểm thảo lỗi lầm của mình, thành tâm sửa đổi điều sai trái, chân
chính nhận thức những thái độ, hành vi điên đảo, không hợp đạo lý của
mình. Cứ thành thật, quên phứt mình đi để phục vụ toàn thể Phật-giáo và xã
hội.
Bất kỳ một tổ chức,
một xã hội nào trên thế giới cũng đầy dẫy chuyện tranh chấp, đấu tranh vô
cùng phức tạp. Chúng ta hãy cải thiện tình trạng này trong các chùa thuộc
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới như Vạn Phật Thánh Thành, Kim Sơn Thánh Tự,
Kim Luân Thánh Tự... Tuy mình không thể sửa đổi hoàn hảo ngay lập tức, hãy
từng bước sửa đổi tới lúc hết sức hoàn thiện, triệt để và rốt ráo. Bất kỳ
lúc nào mình cũng cần giữ gìn hành vi và chí nguyện cao thượng để triển
khai rạng rỡ Phật-giáo. Ðó là trách nhiệm cần có của mỗi Phật tử. Nếu
Phật-giáo không hưng thạnh, đó là do mình chưa tận tình làm tròn trách
nhiệm. Chớ nên đẩy trách nhiệm lên kẻ khác. Nếu làm được thế, chẳng bao
lâu Phật-giáo nhất định rạng rỡ, lan rộng khắp mọi nơi trên thế giới.
Là đệ tử Phật, phải
chăng mình cầu Phật gia bị hằng ngày? Cầu Phật giúp mình phát tài, thăng
quan hoặc khai trí huệ? Phải chăng mình chỉ cầu Phật giúp mình, chẳng hề
suy nghĩ tự hỏi mình có cống hiến, đóng góp gì cho Phật-giáo chăng? Mình
có chân thật chăng? Ðây là điểm mà mình phải thường hồi quang phản chiếu.
Lúc quy y, các vị
phát bốn nguyện rằng:
1) Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ: Hãy tự hỏi mình: "Ta độ được ai chưa?" Nếu đã độ rồi
thì hãy độ thêm nữa. Nếu chưa độ ai hãy phát tâm độ chúng sanh.
2) Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn: Phiền não thì nhiều vô cùng tận. Chỉ cần ta biến đổi
chúng hóa ra bồ đề. Mình đã biến đổi chúng chưa? Nếu chưa, thì hãy mau mau
biến đổi chúng.
3) Pháp môn vô lượng
thệ nguyện học: Hãy tự kiểm thảo: "Ta có học Phật-pháp chăng? Ta có ra sức
vì đạo Phật chưa? Phải chăng ta học một cách cứng ngắc, không biết làm sao
vận dụng nó, rồi một ngày tu luyện, mười ngày bỏ bê?"
4) Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành: Trong thiên hạ không có pháp môn gì siêu thoát và
cứu cánh hơn đạo Phật cả. Song ta đã chân chính phát tâm thành Phật chưa?
Không những ta phải thành Phật mà còn phải độ hết thảy chúng sanh thành
Phật nữa.
Nhìn lại quá khứ,
đức Phật Thích Ca đã tu phước tu huệ suốt ba A-tăng-kỳ kiếp, vun trồng
tướng hảo cả trăm kiếp. Ngài đã từng xả thân mạng để đổi lấy nửa câu kệ
pháp. Tinh thần ấy thật vĩ đại quá! Sự chân thành cầu Pháp của Ngài thật
cao thượng! Mình phải bắt chước tinh thần ấy.
Ðã hơn 3, 4 năm nay,
mỗi tháng tôi đều đến Kim Luân Thánh Tự ở Los Angeles. Tôi cảm thấy các vị
chưa đắc được lợi ích chân chính của Phật-pháp; cũng chưa thật sự thể hội
được tinh thần vĩ đại của Phật-pháp. Các vị đã đặt mình ra ngoài
Phật-pháp, chưa thâm nhập gì cả.
Nếu muốn Phật-giáo
hưng thạnh, mình phải sửa đổi từ chính bản thân mình trước. Hãy đem lòng
chân thật, hy sinh nổ lực vì đạo Phật. Chớ nên biết có phạm vi nhỏ hẹp
quanh mình. Phải lấy pháp giới làm bản thể; chỗ ứng dụng, chốn hành động
của mình bao trùm hư không. Rằng: "Hãy sinh cái tâm không dựa, không trước
vào đâu cả." (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Nếu ai cũng làm như vậy thì
Phật-giáo sẽ rạng rỡ lắm.
Vô Qui Củ Bất Thành Phương Viên
Không
Nhẫn chịu được cũng phải gắng nhẫn chịu. Ðừng sợ đau, đừng đi loanh quanh
luẩn quẩn. Nếu không thì sẽ không đạt được định.
Trong thời gian đả
thiền thất, mọi người phải hiểu qui củ thiền đường. Khi chưa đánh mõ thì
không ai được chạy hoặc đi cả. Nếu mình không giữ qui củ, không nghe theo
hiệu lệnh tức là phạm qui củ. Trong thiền đường có quy luật của thiền
đường. Sau khi khai tịnh, vị sư Duy-na phải nhìn xem mọi người đã mang
giầy dép xong chưa, sau đó mới gõ một tiếng khánh. Chờ mọi người đứng lên
rồi, thầy Duy-na mới đánh tiếp hai tiếng mõ. Hai tiếng mõ chưa đánh, dù
mọi người đã đứng lên, không ai được phép đi cả. Ðó là qui củ rất đơn
giản. Quý-vị phải hiểu nó. Nếu vừa khai tịnh mà đánh mõ ngay, người còn
chưa đứng lên thì làm sao đi? Nếu phải chờ thêm ba phút nữa cũng không
sao. Vì có nhiều người ngồi lâu bị tê chân, đứng lên còn không được thì
làm sao đi? Ðó là tri thức rất là phổ thông trong thiền đường mà quý-vị
cần phải hiểu.
Tôi biết có nhiều
người ngồi lâu chân bị tê rồi khóc ròng. Khóc thì chẳng có ích lợi gì cả.
Càng khóc thì càng đau. Cái chân nó đâu có nói rằng: "Nếu bạn khóc thì tôi
sẽ hết đau!" đâu.
Nhiều người cho rằng
ngồi thiền là điều rất tốt. Kỳ thật, ngồi thiền là nhẫn chịu sự khổ. "Càng
tốt" tức là "càng khổ" vậy. Mọi người ở đây, hai giờ rưỡi sáng đã dậy rồi,
ban ngày chỉ có một giờ để nghỉ ngơi rồi tiếp tục công phu cho đến mười
hai giờ đêm. Mỗi ngày chỉ ngủ có hai, ba tiếng đồng hồ. Ðó là dụng công mà
quên tánh mạng của mình. Cũng có thể nói là "Xả tử hoán sinh" (vất cái
chết, đổi lấy sự sống). Rằng:
Xả bất liễu tử, hoán
bất liễu sinh,
Xả bất liễu giả,
thành bất liễu chân.
Nghĩa là:
Không bỏ được cái
chết,
sao đổi được cái
sinh.
Không bỏ được cái
giả,
sao thành được cái
thật.
Quý-vị nếu không
chịu được khổ làm sao hưởng được phước. Nên muốn đến được chỗ chân chính
công phu thì phải nhẫn khổ nại lao, phải nghiến răng chịu chân đau. Thật
sự cái đau nầy có thể chẳng đau. Song vì mình muốn đau nên nó mới đau, nó
bắt mình phải chịu khổ. "Nhẫn bất năng nhẫn" đó là nhẫn cái đau của chân
này. Khi đau, nếu mình không nhẫn nại được, thì coi như mình không vượt
qua được thử thách. Mình nhất định muốn đem toàn thân, tất cả cơ quan nầy
phá hủy nó đi. "Cơ quan" tức là ám chỉ sự đau khổ của thân, hoặc chỉ chỗ
đau nhức, hoặc chỉ chuyện phiền não. Nếu ngay lúc đau đớn mình có thể nhẫn
chịu, không sinh phiền não, đó chính là công phu. Nếu như không nhẫn được,
thì coi như không vượt qua thử thách. Có người đến đây, chỉ một ngày cũng
không chịu nổi, cứ muốn trốn đi. Quý-vị hiện giờ đã vượt qua nhiều ngày,
là chuyện không phải tầm thường đâu.
Phần đông các cô đều
sợ đau chân. Song ở chỗ này chịu đau khổ được như vậy, nhất định là đã
trồng được thiện căn thâm hậu, thì tương lai chủng tử bồ-đề nầy nhất định
sẽ nẩy mầm, đạt được kết quả. Cho nên nói rằng "công bất đường quyện"
nghĩa là công làm không uổng, mình dụng công bao nhiêu, sẽ đạt được bấy
nhiêu, không sợ thời gian trôi qua lãng phí đâu.
Tu hành cần phải có
"sinh nhẫn" nghĩa là nhẫn những thứ mà khó nhẫn. "Pháp nhẫn" là nhẫn sự
sinh diệt tướng của các Pháp. Nhẫn chịu không được cũng phải gắng nhẫn
chịu, đừng sợ đau, đừng đi loanh quanh luẩn quẩn, nếu không thì sẽ không
đạt được định. Cần nhất là phải nhìn thấy các Pháp đều là không, nhìn thấu
suốt và buông bỏ được. Từ nơi sinh nhẫn và pháp nhẫn, mình sẽ ngộ được đến
vô sinh pháp nhẫn. Ðó gọi là "Bất kiến hữu thiểu Pháp sinh, Bất kiến hữu
thiểu Pháp diệt." Nghĩa là: Chẳng thấy có chút Pháp gì sinh. Chẳng thấy có
chút Pháp gì diệt.
Khi Ðắm
Trước Hương Vị Thiền Thì Mọi Chuyện Ðều Sai Lầm
Mình
chỉ chờ đợi thiền vị đến,
một
khi chờ đợi thì quên dụng công.
Tọa thiền đừng tham
đắc vị thiền. Thế nào là vị thiền? Ðó tức là cảm giác sung sướng của
thiền. Ngồi một thời gian khá lâu, tự nhiên mình sẽ có cảm giác rất là tự
tại, thoải mái và sung sướng vô cùng. Nếu mình tham trước cảnh giới tự tại
sung sướng đó, thì không dễ dàng mà tiến bộ. Mình sẽ ngưng trệ, cứ khởi ý
tìm lại thiền vị đó. Nếu như cảnh giới đó qua rồi, lại đi tìm cầu rằng:
"Khi nào thì tôi sẽ có được cảnh giới như vậy nữa? Cảnh giới vô nhân, vô
ngã, vô chúng sinh, vô thọ giả, vô phiền, vô não, hết sức tự tại an lạc
đó, đến lúc nào thì tôi được nữa?...." Khi chờ đợi thiền vị nầy đến, thì
mình sẽ quên dụng công, đây gọi là chấp trước vào vị thiền.
Người tọa thiền cần
vô quái vô ngại, vô tham vô cầu, vô hỉ vô ưu, vô khủng vô bố. Nên đem thân
mình ví như là hư không trong Pháp-giới vậy, không cần phải chấp trước
tham cầu. Nếu có tham cầu thì sẽ rớt vào đệ nhị nghĩa.
Sau đây là bốn cảnh
giới:
1. Sơ Thiền Thiên,
Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Nghĩa là mình sẽ ly khai được phiền não của chúng
sinh, đắc được món ăn thiền, sung mãn Pháp hỷ an lạc, ra khỏi sự mê đảo
của chúng sinh và hướng tới con đường bồ-đề của thánh nhân. Ðạt tới cảnh
giới thiền này thì không được mạo xưng, không được tự mình nói ra, mà phải
được một vị thiện-tri-thức ấn chứng cho.
Cảnh giới này có
cách để chứng minh: Tức là khi hơi thở của mình ngừng lại không còn hô hấp
nữa, nhưng không phải là chết, đây tức là nhập định hay nhập sơ thiền. Sơ
thiền này khác hẳn với sự ngủ nghỉ, quý-vị đừng cho rằng ngủ tức là nhập
định. Ngủ không những là còn hô hấp, mà nhiều người còn ngáy pho pho khiến
kẻ khác nghe như sấm vậy. Bởi vậy sự hô hấp của quý-vị đã ngừng hay chưa,
những vị thiện-tri-thức nhìn sẽ biết ngay. Có kẻ nói rằng: "Tôi cảm thấy
là tôi không còn hô hấp nữa." Ðó tức là giả, tức là mạo xưng. Nếu mà biết
thì mình vẫn chưa nhập được sơ thiền. Nên không thể đem nhãn hiệu giả ra
rao bán được.
Nếu muốn phân tích
tường tận e phải viết cả khối sách. Nếu nói nhiều quá, sẽ sinh ra chướng
ngại cho quý-vị. Nên nói một chút thôi, để tránh quý-vị đừng sinh ra tâm
cống cao tà kiến, rằng mình đã nhập vào sơ thiền; cho mình như vậy, tức là
lừa dối kẻ khác.
2. Nhị Thiền Thiên,
Ðịnh Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Cảnh giới này thì cao hơn một bước, không những hô
hấp đã đoạn rồi, mà mạch tim cũng ngừng lại. Cảnh giới này không phải mình
có thể biết hoặc là có thể nói ra. Nếu nói mình đã đạt cảnh giới đó, thì
thử hỏi làm sao cảm thấy nó? ắt hẳn mình chưa hề nhập định, rồi lại mạo
xưng để lừa người khác chăng?
3. Tam Thiền Thiên,
Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa: Tới được cảnh giới này thì hô hấp và mạch tim đều
ngừng lại, đến ý niệm cũng không còn. Tới cảnh giới này thì mình ra khỏi
sự hoan hỷ, xả đi vị thiền, không còn đắm trước gì nữa. Cảnh giới nầy so
với sơ thiền và nhị thiền thì cao hơn nhiều, lúc bấy giờ thì mọi sợi tóc
mình cũng sinh ra hoan hỷ khác thường, lông mày con mắt đều tươi cười hết
sức vui sướng vô ngần.
3. Tứ Thiền Thiên,
Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa: Ðến lúc nầy tất cả mọi thứ đều là không, "nhất
niệm bất sinh toàn thể hiện" Nghĩa là khi một niệm chẳng dấy lên, chân tâm
bản thể hiện bày. Tới được chỗ:
Thiên đàm hữu thủy
thiên đàm nguyệt.
Vạn lý vô vân vạn lý
thiên.
Nghĩa là:
Ao hồ ngàn nước,
ngàn trăng hiện.
Vạn dặm không
mây, vạn dặm xanh.
Ở cảnh giới nầy thì
mọi nơi đều thuyết Pháp cho mình nghe. Bởi vì "Lạc hoa lưu thủy diễn
Ma-ha," nghĩa là hoa rơi, nước chảy đều như nói Pháp Ðại-thừa. Cảnh giới
nầy mình không biết được nó đâu, và cũng không được nói rằng: "Tôi đến
được Tứ Thiền Thiên rồi." Nếu vậy là mình sinh ra đại ngã mạn, nói ra lời
hết sức láo lếu. Ðiều nầy cũng cần phải có vị thiện-tri-thức ấn chứng cho
mình thì mới đúng được.
Tại sao gọi
thiện-tri-thức là người có con mắt sáng? Bởi vì vị đó có thể nhìn và biết
ngay công phu của mình đã đến trình độ nào rồi. Nếu mình muốn khảo nghiệm
Ngài, thì cứ thử xem! Ngài chẳng quan tâm gì đến điều đó cả. Nếu là chân
chính thiện-tri-thức thì không có cách gì bị chúng ta khảo nghiệm đặng.
Ngài không vì lẽ bị hỏi mà liền nói toạc ra đâu. Chỉ cần mình thân cận với
Ngài sau một thời gian lâu, thì Ngài sẽ nói cho mình biết. Nhưng chưa chắc
là Ngài nói rõ hết đâu. Có lúc Ngài dùng ví dụ hoặc chỉ thuyết vài câu đơn
giản mà thôi. Cho nên mình không thể đi đâu cũng đánh chuông nổi trống mà
nói rằng: "Tôi đã thành Phật rồi!" Nói như vậy là hết sức láo lếu, làm trò
hề, tương lai sẽ đọa địa ngục, bị cắt lưỡi. Ðó là điều hết sức đáng thương
xót vậy.
Giảng vào tối ngày
18 tháng 11 năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành