KHAI THỊ
QUYỂN 1
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Phần 4
Ðạo Tràng Tốt Khó Tìm
Muốn tu hành mà
không gặp đạo tràng tốt thì
cũng không thể tu được.
Từ vô lượng kiếp đến nay,
chúng ta tạo tội lỗi, thói xấu quá nhiều. Không biết hối cải cũng không
biết tu hành, nên thói xấu mỗi ngày một gia tăng, trí huệ mỗi ngày một
giảm dần; nghiệp chướng càng ngày càng thêm nặng. Bởi vì những lý do đó
nên con người muốn tu cũng không phải dễ; muốn học để thành người tốt cũng
rất khó, muốn xuất gia lại càng khó hơn, vì bị mọi thứ nghịch cảnh, nghiệp
chướng ràng buộc. Khi ở nơi nhân địa, mình ngu si không biết nên tạo ra
tội nghiệp dẫy đầy, chẳng sợ nhân quả báo ứng. Vì thế bây giờ muốn tu Ðạo
thì đủ thứ nghiệp chướng từ khắp mọi nơi kéo về, đủ thứ chướng duyên phát
sinh. Có người vì hoàn cảnh gia đình không cho phép, có người vì đất nước,
lại có người vì thái độ, hành động, hay công ăn việc làm khiến sinh ra đủ
thứ trở ngại, không cho phép họ tu hành.
Cho nên muốn chân chính tu
Ðạo thì khó như muốn lên trời vậy. Song, tuy khó khăn khốn khổ như vậy thì
lại không tu sao? Không phải đâu! Càng khổ thì càng phải tu, mình phải làm
điều khó làm. Nếu không ở chỗ khốn khổ gian nan mà bắt đầu, thì mãi mãi
mình không thể phá trừ được hết nghiệp chướng. Vì thế mình phải tu nhẫn
nại; phải nhẫn nại những thứ mà không ai nhẫn được, nhường nhịn những thứ
mà không ai muốn nhường, làm chuyện mà chẳng ai chịu làm, ăn những thứ
không ai thèm ăn, chịu những thứ không ai chịu nỗi. Cứ như vậy ngày tháng
tích lũy, thì công đức sẽ tăng gia, tội nghiệt giảm ít, trí huệ tăng
trưởng, và nghiệp chướng tiêu dần.
Bởi vì xưa nay nghiệp
chướng từng chút, từng chút kết lũy mà thành. Bây giờ thì cũng từng chút,
từng chút giảm nhẹ đi. Cũng như lúc trời lạnh vậy, càng ngày càng lạnh,
cho tới mùa đông thì lạnh đến cực điểm, sau đó lại bắt đầu nắng ấm. Tuy
nhiên, không thể lập tức ấm liền được, phải từ từ mỗi ngày một ấm lần, ấm
lần tới lúc vào hè. Mùa nóng thì ví như lúc mình không còn chướng ngại;
mùa lạnh ví như là lúc nghiệp chướng còn sâu dày.
Bây giờ chúng ta tu hành,
tham thiền cũng tốt, niệm Phật cũng tốt. Bất luận là tu pháp gì, mình cần
kiếm việc để làm, đừng cho tâm trống không, vì nó sẽ suy nghĩ vẫn vơ và
vọng tưởng. Mình cần phải lấy thời gian suy nghĩ vẫn vơ đó mà niệm Phật,
trì Chú, tụng Kinh; không để thời gian trôi qua lãng phí. Nếu không tu,
tâm mình sẽ mặc tình suy nghĩ vẫn vơ, thật là lãng phí tinh thần; kết
cuộc, chẳng chuyện gì thành tựu cả. "Nhân thân nan đắc. Phật-pháp nan văn.
Phật quốc nan sinh. Thiện-tri-thức nan ngộ. Hảo đạo tràng nan phùng." Tức
là thân người khó được. Phật-pháp khó được nghe. Nước Phật khó sinh.
Thiện-tri-thức khó gặp. Ðạo tràng tốt khó tìm.
Muốn tu hành mà không gặp
được đạo tràng tốt thì cũng không thể tu hành. Nên mình cần có đạo tràng
tốt. Ở Vạn Phật Thánh Thành, muốn đả thiền thất thì có chỗ đả thiền thất,
muốn niệm Phật thì có chỗ niệm Phật, muốn sám hối thì có chỗ sám hối.
Quý-vị muốn thế nào cũng đều có cả. Chỉ cần quý-vị tu hành, không lãng phí
thời gian, chân thật dụng công là được rồi.
Bất luận vị nào phát tâm
nguyện dụng công, thì tôi sẽ tình nguyện làm hộ-pháp cho vị đó, giúp
quý-vị dụng công tu hành. Bởi vì khi xưa tôi muốn dụng công mà không tìm
được đạo tràng tốt để dụng công. Tôi đến nơi nào cũng gặp đầy dẫy những
chuyện nhỏ nhặt, chi tiết phiền hà. Ví như ở thiền đường, quý-vị phải học
cách đánh chuông, đánh bảng, rồi đến lúc nào thì phải đi tuần tra, phải
học pha trà, uống trà rồi đi thâu những chum trà, và đủ thứ chuyện lặt vặt
khác. Nếu quý-vị muốn dụng công thì chuyện uống trà, thâu chum trà hoặc là
lúc đi tuần, lúc đánh bảng, đánh mỏ, chỉ là sự dụng công một cách hời hợt
mà thôi. Học những việc lặt vặt đó cũng mất hết ba tuần lễ mới xong. Thông
thường đả thiền thất chỉ một hay hai tuần, nếu phải học những việc linh
tinh đó, cũng đủ hết thời giờ rồi.
Hiện tại ở Vạn Phật Thánh
Thành, quý-vị tham thiền, niệm Phật hoặc phiên dịch hay nghiên cứu kinh
điển, tu cách gì cũng tốt cả. Nói tóm lại, nếu quý-vị chuyên tâm nghiên
cứu thì mọi phương tiện đều có sẵn, không cần phải làm những chuyện phiền
phức khác. Ở đây, mọi chuyện rất là đơn giản. Vị nào làm Duy-na thì chỉ
cần biết làm sao chỉ tịnh, khai tịnh là được rồi. Ở đây mà quý-vị còn
không biết dụng công thì chẳng biết ở chỗ nào quý-vị mới dụng công được.
Ðây là nơi hết sức thuận tiện, đầy đủ phương tiện để dụng công. Nếu quý-vị
một mặt dụng công, một mặt nghĩ vẫn vơ, nào là: "Cơm trưa hôm nay không
ngon. Trời lạnh lẽo quá, sao mà ngủ được." Nếu như cứ vọng tưởng vô ích
như vậy, thì chỉ phí thời gian mà thôi. Quý-vị cần chuyên tâm, chú ý, đem
toàn tánh mạng ra mà dụng công mới được.
Xả bất liễu tử, hoán bất
liễu sinh.
Xả bất liễu giả, thành bất
liễu chân.
Nghĩa là:
Không được sự chết, sao
đổi được sự sống.
Không bỏ được cái giả, sao
thành đặng cái chân.
Không phải chỉ ở trong
Niệm Phật Ðường, hoặc trong Thiền Ðường mới dụng công mà ở mọi lúc, mọi
nơi, đều phải dụng công. Dụng công có nghĩa rằng con mắt không bị đối
tượng quan sát làm cho chuyển; lổ tai không bị âm thanh làm giao động,
lưỡi không bị mùi vị làm cho thèm muốn; mũi không bị hương thơm làm cho
hứng thú; thân không bị xúc chạm làm cho rung động; ý không bị tư tưởng
pháp trần làm cho xoay chuyển. Không bị tất cả mọi thứ cảnh giới làm
chuyển xoay mà ngược lại, mình có thể xoay chuyển được cảnh giới. Ðó chính
là dụng công.
"Hành trụ tọa ngọa bất ly
liễu cá, ly liễu giá cá tựu thị thác quá." Nghĩa là: Ði đứng nằm ngồi đừng
lìa "nó," lìa "nó" tức là sai lầm. Do đó, mỗi giờ mỗi phút mình phải luôn
luôn chuyên tâm chú ý, chế ngự ý niệm của mình; giơ cao Kim-cang
Trí-huệ-vương Bảo-kiếm chặt sạch mọi phiền não ma quân.
Hỏi: Mình phục vụ đại
chúng nhưng lại bị họ mắng chửi thì phải làm sao?
Ðáp: Nếu phục vụ đại
chúng, mà bị phỉ báng thì mình càng cố gắng hơn nữa. Nếu chỉ vì bị người
ta chửi mắng mà bỏ làm, thì mình không có thành tâm.
Hỏi: Vì sao hiện tại
Phật-giáo đồ không chịu hiểu chính pháp, chỉ mong cầu thần thông? Vì sao
hiện giờ đa số tín đồ tham tiền?
Ðáp: Vấn đề nầy rất là
quan trọng bởi vì hiện tại con người đều bị trúng độc của đồng tiền. Ở
trên mặt đồng tiền có chất độc vô cùng. Có thể nói là ma quỷ bôi thứ độc
ấy lên đồng tiền khiến con người khi tiếp xúc với nó đều quên mọi sự. Cho
đến cha mẹ cũng quên, chỉ biết tiền mà thôi. Coi tiền thân thiết hơn tất
cả mọi thứ. Vì đồng tiền mà tạo ra đủ thứ tội nghiệp. Ngay cả người trong
Phật-giáo cũng tìm đủ phương pháp, bất chấp thủ đoạn, hoặc nói chuyện
phong thủy, hoặc nói có mật pháp; họ có lòng tham còn nhiều hơn người
không học Phật-pháp nữa; lòng tham của họ còn cao hơn cả trời xanh. Ðó là
mạt pháp. Mạt pháp tức là không có người hiểu rõ đạo lý nữa. Nếu muốn đừng
sa vào lỗi lầm nầy, thì chỉ có cách là giữ Sáu Ðại Tông-chỉ của Vạn Phật
Thánh Thành. Ðó là: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ,
không tư lợi, không nói dối. Sáu điều nầy có thể cải biến được phong khí
của mạt pháp. Quý-vị đừng coi Sáu Tông-chỉ của Vạn Phật Thánh Thành này là
đơn giản, bình thường. Quý-vị không đủ tư cách để học, cũng chẳng đủ tư
cách để nghe. Tôi nói Sáu Ðại Tông-chỉ nầy là để cho hai vị hành giả
Tam-bộ Nhất-bái, (thầy Hằng Thật và thầy Hằng Triều) nghe. Bởi vì tôi thấy
hai vị đó hết sức kham khổ tu hành, nếu không nói cho họ pháp chân chính
thì thật là đáng tiếc. Cho nên Sáu Ðại Tông Chỉ nầy là để phá những sự
hiểu biết sai lầm, nó là cây gậy hàng phục ma quân (hàng ma trượng).
Nói đến thần thông thì
phải biết rằng không phải do cầu mà được; nó do tu mà thành. Tuy rằng cũng
do tu mà thành nhưng cũng đừng coi nó là quan trọng. Thần thông, trong
Phật-giáo, không có gì là đáng kể vì cũng giống như dùng một con dế nhỏ đi
dọa con nít mà thôi. Thực sự nó không có gì quan trọng. Người học Phật,
nếu có ý niệm cầu thần thông thì tự nhiên sẽ tu sai lạc, không còn chân
chính là tín đồ Phật-giáo nữa.
Hỏi: Tại sao người ta
không lạy Ngài Tam Tạng Huyền Trang mà lại lạy Tôn Ngộ Không? Tôn Ngộ
Không có thật hay không?
Ðáp: Bởi vì Tôn Ngộ Không
có Kim-cô-bổng lại biết Cân-đẩu-vân, có thể lên trời xuống đất, không chỗ
nào mà không tới được, nên người nào cũng thích Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng đều là những nhân vật có thật. Nhưng họ là
những thứ tinh linh không có hình tướng, tới để giúp đỡ vị Tam Tạng đi qua
Tây Thiên (Ấn Ðộ) thỉnh kinh. Những vị đó không phải là những người mà ta
có thể dùng phàm phu nhục nhãn mà thấy được. Bởi vì họ không có phàm phu
thực thể, mà họ chỉ là những linh tánh. Ngài Huyền Trang là người tu hành
chân thật, nhưng Ngài không biết pháp Cân-đẩu-vân cũng không đại náo thiên
cung. Ngài chỉ biết chân thật tu hành, y chiếu theo ba chữ: Kiên, Thành,
Hằng (kiên trì, thành khẩn, thường hằng không đổi), nhất tâm đi thỉnh
kinh, làm lợi ích cho chúng sinh, nên cảm động được Tôn Ngộ Không, Sa
Tăng, Bát Giới tới hộ trì Ngài.
Giảng vào ngày 26 tháng
11, năm 1985
Si Ái Triền Miên
Sự tai hại nhất
trên đời là ái tình sâu đậm.
Việc cao thượng
nhất là tu đạo thanh tịnh.
Quý-vị xem gốc cây nầy gồm
có hai nhánh, song đôi hợp thành một, nhánh trên nhánh dưới kết hợp với
nhau, quý-vị biết đó là gì không? Ðây là do vô lượng kiếp về trước có một
đôi nam nữ thương yêu nhau rất sâu đậm. Hai người đó phát nguyện rằng:
"Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện vị liên lý chi." Nghĩa
là nếu sinh lên trời thì làm đôi uyên ương hai cánh liền nhau, nếu sinh
dưới đất thì nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy rất chung tình,
nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích giống nhau, đó là: ham
tiền. Người đàn ông thì thí mạng để kiếm tiền, người đàn bà thì thích
phung phí tiền, cho nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.
Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau
quá đậm đà nên tạo ra tội nghiệp cũng hết sức sâu dầy. Ðời đời kiếp kiếp
sinh ra trầm luân, đọa lạc vào đường súc sanh, trở thành ngạ quỷ, cuối
cùng đọa địa ngục. Ðến nay đôi vợ chồng nầy biến thành thảo mộc. Gốc cây
nầy đáng lẽ gồm có hai nhánh, nhưng nó lại sinh trưởng cùng một chỗ, nên
mãi mãi ràng buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh bên trái
bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũng nhào sang ôm lấy nhánh
bên trái, giống như đàn ông đàn bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy rằng
đôi nam nữ nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đậm. Ngày
nay chúng thành loại thảo mộc mà cũng không bỏ được lòng si ái đó. Ở giữa
hai gốc nầy có một cục đá, mà hai người nầy quý như châu báu. Cục đá đó là
gì? Nguyên lai nó là trương mục ngân hàng của hai vị đó trong tiền kiếp.
Mấy năm trước có lần chúng
tôi vào thành thuyết Pháp. Khi đi ngang qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền
nhặt đem về. Quý-vị nhìn xem: đầu gốc cây nầy bị chặt đứt, rễ cũng bị chặt
mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song hai nhánh cây nầy vẫn triền
miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không thấy đó đáng thương xót sao?
Như vậy đủ thấy rằng tình
yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói
giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi
không thể tin được, bởi vì nó không có chứng minh, không hợp lý. Ðại khái
Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao thôi." Tin hay không là do
quý-vị, tôi không có cách nào làm quý-vị tin được bởi vì đây là Pháp rất
khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đi
nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự tai hại nhất trên đời
là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh. Không phải
người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ
thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.
Tục ngữ Trung Hoa có câu
rằng: "Khi tay đã cầm cây củi khô rồi, thì y khó chịu bỏ ra để đổi lấy
cành hoa." Ðó là muốn ví dụ những người luôn luôn chấp trước vào tình yêu.
Nếu mình nói với họ rằng, hãy bỏ đi những thứ luyến ái đó để tu Ðạo là
điều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không muốn quay đầu lại. Rằng:
Thiên vũ tuy khoan, nan
nhuận vô căn chi thảo.
Phật môn tuy quảng, nan độ
bất tín chi nhân.
Nghĩa là:
Trời mưa rưới nước khắp
nơi,
song khó tươi nhuận cây cỏ
không gốc.
Cửa Phật tuy rộng thênh
thang,
mà vẫn khó độ kẻ chẳng
lòng tin.
Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy
lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp
nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời điểm chín mùi rồi tôi
mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa xôi đến đây để triều bái,
tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho đến ba tuần sau tôi
mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là
quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho quý-vị
nghe.
Giảng tối ngày 12 tháng
11, năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành
Nỗi Bất Hạnh của Cửa Phật
Tới lúc chết
rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật...
Mật đến chỗ rơi vào
địa ngục vẫn còn mật.
Tôi vừa nói cho quý-vị
nghe công án của gốc cây đó, quý-vị không tin cũng chẳng sao. Bây giờ
chúng ta thảo luận đến vấn đề sau đây, tuyệt đối không thể không tin được.
Tại sao con người phải học
Phật-pháp? Ðộng cơ tối thượng không ngoài ý muốn "ly khổ đắc lạc, liễu
sinh thoát tử." Song chẳng may nhiều người có chí thoát đường mê nhưng lại
đi vào đường mê.
Theo Phật-giáo vì muốn
thoát luân hồi nhưng bởi chẳng cẩn thận nên rất dễ rớt vào mê hồn trận.
Nếu không biết khéo dùng trạch-pháp-nhãn, sáng suốt mà lựa Pháp, thì dễ bị
những thứ tà tri tà kiến làm mê hoặc, rồi đi làm những việc không nên làm.
Thí dụ như muốn ly khổ đắc
lạc, song lỡ xẩy chân rơi vào cửa địa ngục. Lại còn những chuyện tệ hại
hơn nữa, tức là trong Phật-giáo Mật-tông có kẻ dạy phương pháp gọi là Song
Tu Pháp. Họ nói chỉ cần niệm thần chú gì gì đó, trai, gái cùng nhau tu
pháp "Hoan Hỷ Thiền." Còn nói đó là pháp cao nhất, không những thỏa mãn
được lòng dâm dục, mà còn có thể tức khắc thành Phật. Song, thành Phật đâu
phải dễ dàng như vậy! Nếu không cắt đứt lòng dâm dục, mà thành Phật, thì
rất là vô lý. Trong thiên hạ không có đạo lý nào như vậy cả.
Ðời nay, đa số con người
đều tham tu cho mau cho chóng, thích đi đường tắt. Hễ nghe nói có phương
pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc, rồi rớt vào lưới ma, tới lúc chết rồi
mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... mật đến chỗ rơi vào địa ngục vẫn
còn mật.
Kiếp Sau Muốn Làm
"Liên-Thể-Anh"
Ðồng tính luyến ái
là trái ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường.
Ý kiến tôi vừa phát biểu
không phải thái quá hay nguyền rủa ai đâu. Trong Phật-giáo thật sự có
những hành vi bại hoại tổn đức như vậy. Do đó Phật-giáo mới không hưng
thịnh được.
Chuyện nầy mình sẽ không
bàn tới nữa, song còn vấn đề nghiêm trọng hơn, nó liên quan đến toàn nhân
loại, không thể không đề cập tới. Ðó là chuyện đồng tính luyến ái càng
ngày càng nhiều. Cũng như ở Nữu Ước (New York) và Cựu Kim Sơn (San
Francisco) có tới hơn mười vạn kẻ đồng tính luyến ái. Thậm chí có nhiều
nhà chức trách công khai nhận rằng mình là đồng tính luyến ái và tán thành
chuyện này; lại còn hô hào xã hội chấp nhận sự kết hôn giữa những kẻ đồng
tính luyến ái ấy. Chúng ta phải biết rằng đồng tính luyến ái là trái ngược
lại lý tự nhiên, ngược lại với luân thường đạo lý. Trào lưu nầy là do yêu
ma quỷ quái khơi động; như châm dầu vào lửa, khiến con người sớm đọa địa
ngục.
Vừa rồi tôi nói tới sự yêu
đương ngu si của nam nữ, họ thề rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu.
Tại địa, nguyện vi liên lý chi." Nghĩa là trên trời thì nguyện làm đôi
uyên ương. Dưới đất thì nguyện làm cây liền cành. Trai gái kết hôn là
chuyện thông thường, nên cổ nhân có câu: "Nam nữ chi sự nhân chi đại luân"
nghĩa rằng chuyện nam nữ là chuyện luân thường của loài người. Nếu mình
muốn đi thuận với con đường sinh tử thì mình kết hôn, sinh con, điều đó
chẳng đi ngược lại với trời đất. Song nếu mình đồng tính luyến ái là trái
ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường. Quả báo là
mình sẽ sinh ra làm liên-thể-anh, hai đứa trẻ sinh ra tay chân dính liền
nhau. Hiện tại trên thế giới xuất hiện rất nhiều đứa trẻ như vậy. Trong
tương lai không xa sẽ còn xuất hiện nhiều thú vật thân thể dính liền như
thế. Bởi vì những người nầy đã làm chuyện yêu quái, những chuyện thấp hèn,
hạ tiện, cho nên sẽ đọa làm súc vật.
Do đó nếu quý-vị chưa học
Phật, nên ở ngoài đời không giữ qui củ, làm bừa bãi, thì không có gì lạ.
Còn nếu quý-vị học Phật rồi, thì cần phải hiểu sâu xa đạo lý nhân quả,
đừng phạm tội lỗi. Phải hết sức cẩn thận, thật cẩn thận.
Tham Thiền: Tham Thiền Trước Nhất Cần
Xây Nền Tảng
Nền không vững,
nhà sẽ lung lay,
Gió thổi thì ngã,
mưa to liền sập.
Người học Phật có kẻ thích
tham thiền, có người thích học Kinh, thuyết Pháp, nghiên cứu Luật Tông,
Mật-tông hay Tịnh-độ Tông. Bất luận là thích tông phái nào, quý-vị cần
kiên tâm trì chí, dụng công tu hành thì mới thành tựu.
Nếu không chuyên tâm nhất
chí thì học gì cũng như không. Mình tham thiền hai ngày rưỡi lại nghĩ muốn
niệm Phật, niệm Phật nửa ngày lại muốn học Luật, học Luật chưa bao lâu lại
muốn học Mật; mục tiêu rối loạn không chuyên nhất được. Tại sao mình không
thể chuyên nhất? Tại vì mình còn hướng ngoại truy cầu. Chân đạp hai chiếc
thuyền cùng một lúc, không biết đi lên Giang Bắc tốt hay đi xuống Giang
Nam hay? Vì vậy, cả một đời vẫn cứ lầm lẫn.
Vì thế tham thiền lúc nào
cũng phải tinh tấn, một giây cũng không được làm biếng, tham cho tới lúc:
Sơn cùng thủy tận nghi vô
lộ,
Liễu ám hoa minh hựu nhất
thôn.
Nghĩa là:
Núi cùng, sông bặt, tưởng
hết đường,
Tàng liễu, hoa giăng, hiện
thôn trang.
Tức là mình sẽ thấy một
bầu trời khác, sẽ thấy được sự diệu thú thiên nhiên vô cùng. Nhưng mình
cần phải tham thiền đến cực điểm, đến chỗ "đăng phong tạo cực" nghĩa là
lên tới đỉnh cao nhất, đạt tới chỗ tột bực thì mới có một chút hy vọng;
nhưng hy vọng đó cũng không nhiều lắm. Tuy có một chút hy vọng nhưng mình
cũng đừng chấp đắm vào hy vọng đó. Nếu không mình sẽ tạo thêm sự phiền
toái, tức là chấp vào cái không có ý nghĩa gì cả. Tham thiền là phải chân
thật mà dụng công.
Trước hết cả mình phải
biết luyện cho chân biết nghe lời, không làm loạn cũng không làm đau. Làm
thế nào để chân không còn đau nữa? Có thần chú nào niệm cho chân hết đau?
Hoặc giả là mình phải uống thứ thuốc gì đó thì chân sẽ bớt đau. Không phải
thế đâu! Mình cần phải trải qua cơn đau nhức đó một thời gian, dần dần
chân mình mới chịu nghe lời mà hết đau. Nếu mình không nhẫn nại được cái
đau, vừa mới đau lại đổi chân, thì cái chân vĩnh viễn sẽ không bao giờ
chịu nghe lời mình; bởi vì mình đã chìu chuộng nó quá mức. Khi chân đau
mình phải dọa nó như dọa con nít. Nếu cha mẹ thương không cho con chịu
khổ, thì tương lai những đứa đó không cách gì chịu đựng được khổ. Cái chân
cũng như con nít vậy, mình sợ nó đau nhức thì lúc nào nó cũng đau nhức.
Lúc chân đau tất nhiên mình thấy đau, lúc chân không đau, mình cũng thấy
nhức nhối là bởi vì mình đã tập cho nó có một thói quen xấu.
Mình phải luyện cho cái
chân, cái lưng biết nghe mình; để chúng không còn đau không còn nhức; rồi
thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều nghe lời mình cả, sáu căn nầy không
còn chạy ra ngoài mà truy cầu nữa. Không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp làm cho xoay chuyển. Không bị lục căn, lục trần chuyển động thì đó
chính là biết dụng công. Cho nên nói:
Nhãn quán hình sắc nội vô
hữu.
Nhĩ thính trần sự tâm bất
tri.
Nghĩa là:
Mắt thấy hình sắc nhưng
lòng chẳng màng.
Tai nghe âm thanh song tâm
chẳng biết.
Mình phải thường hồi quang
phản chiếu. Ðừng truy cầu những điều bên ngoài, luôn luôn trụ vào pháp môn
căn bản, tức là tham thoại đầu "Ai là người niệm Phật?" Tức là làm sao nắm
được gốc, đừng chạy theo ngọn. Ðối với những vấn đề chi tiết nhỏ nhặt,
đừng nên để tâm âu lo, như vậy thì từ từ sẽ hiểu thấu mọi sự.
Lúc tu thiền, khi chưa
biết tập luyện làm sao để ngồi kiết già hay bán già cho thật vững vàng thì
đừng nên ham học làm sao tham thiền. Bởi vì nền tảng chưa vững chắc cơ mà!
Do đó, trước tiên phải xây nền tảng thiệt tốt rồi mới tham thiền.
Như tuần đầu tiên, mình
phải san bằng mặt đất. Xây nhà, trước hết phải dọn sạch đất đai, đạp bằng
nó ra.
Vào tuần thứ hai thì phải
đặt móng. Xây móng cần tốn nhiều công phu; tức là mình phải tu hạnh nhẫn
nại: chịu đau, chịu đói, chịu khát, chịu rét; bất kỳ hoàn cảnh gì mình
cũng phải chịu đựng. Tuy đây là việc tốn công tốn sức, song nó là việc tất
yếu phải làm. Ðất cần được đạp bằng, móng cần xây cho chắc thì nhà dựng
lên mới kiên cố. Nếu gió thổi, nhà sập hay mưa tạt, nhà rã thì tức là móng
đặt không chắc chắn, nền xây chẳng vững vàng vậy.
Ðến tuần thứ ba thì có thể
dựng cột, trụ, bắt kèo, khung cột, mái chèo.
Qua tuần thứ tư, thì xây
tường, bắt cửa, đóng cửa sổ, lợp ngói. Ðó là thứ tự xây nhà: Ta không thể
"Cuốc một phát mà đào thành giếng" được. Không việc gì làm mà thành công
tức khắc.
Tham thiền hay niệm Phật
cũng vậy; học Giáo, tu Mật, tập Luật đều như vậy cả. Tức là phải hết sức
chuyên tâm chú ý. Tâm phải thành khẩn, đừng tham muốn thứ cao siêu xa vời,
đừng nghe người ta nói Mật-tông tốt, thì chạy theo Mật-tông. Ðừng dại mà
mê muội, tới lúc chết vẫn không tỉnh ngộ. Không chấp nhận những bằng chứng
trước mắt, thì thật là mình mê quá độ. Mật, mật rồi chẳng biết do đâu,
bổng chết mất. Thật là bí mật. Do đó mật thì đúng là mê. (Hai chữ này,
tiếng Tàu phát âm giống nhau) Ủ Hết sức mê muội.
Quý-vị học Phật cần phải
nghiên cứu chân lý đừng nên nghe theo một cách mù quáng. Mình cần phải:
"Thân cận hữu đức, viễn ly hương nhân." Nghĩa rằng cần phải gần gũi những
bậc đức độ và xa lánh những kẻ tà ác. Kẻ xấu ác là thứ chuyên lừa người.
Người có đức độ thì không gạt ai cả. Kẻ vô đức thì luôn dùng những thủ
đoạn xảo trá; thì làm sao có đức được. Chỉ có những ai không lừa bịp thì
càng ngày công đức càng nhiều; lúc đó đức hạnh mới tồn tại được. Quý-vị
phải quan sát và phán xét người khác ở khía cạnh nầy. Ðừng nhìn vẻ bên
ngoài mà nói rằng: "Ôi! Tôi thấy anh chàng đó rất đức độ, thật là một vị
thiện-tri-thức." Thực ra chẳng xác thực, bởi vì quý-vị phải rõ thân thế
anh chàng đó ra sao? Hiểu rõ thì mới đáng kể.
Trong thời mạt pháp con
người đều phạm chứng bệnh thông thường là hay nói những chuyện xa vời, lấy
lỗ tai thay cho con mắt, nghe người khác nói tốt là chạy theo liền. Chạy
theo như vậy tốt xấu thế nào không cần biết, thậm chí bị người ta lừa mà
vẫn chưa tỉnh ngộ. Học theo những điều mê tín tài sắc, phong thủy, bói
toán, đều là những thứ hết sức đáng thương xót.
Hôm nay tôi đọc báo thấy ở
tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa Ðại Lục, có sáu đứa trẻ, trốn ra biển tự sát để
thành tiên. Ðó là lý do gì? Là bởi vì do những thứ tà thuyết làm mê hoặc
lòng người. Họ nói rằng nếu ai làm ác thì thành quỷ, làm tốt thì thành
thần, thành tiên. Thế nào là chuyện tốt? Là đừng có sợ chết. Bởi vì ở nơi
thôn xóm xa xăm, nhiều đứa trẻ rất là chân thật, chất phát, nên nghe thế
chúng tin ngay. Tin là người tốt thì không sợ chết, mà khi chết có thể
thành tiên, nên sáu đứa trẻ nầy tự sát tập thể để mong thành tiên. Chúng
nghĩ rằng "Hồi xưa có tám ông tiên, đại khái là do tự sát tập thể. Nay
mình cần phải tự sát tập thể để thành sáu ông tiên, khỏi bị trôi trong lục
đạo luân hồi." Cho nên chúng tự sát tập thể để thành tiên.
Chúng nó có thể thành tiên
hay không? Tôi có thể chứng minh rằng chúng chẳng thành tiên. Tại sao
chúng chẳng thành tiên? Bởi vì chúng hết sức si mê. Người thành tiên rất
thông minh chẳng ngu si. Chẳng vị tiên nào không hiểu chân lý, không biết
phải trái đúng sai. Làm thế nào chúng đồng thời tự sát như thế để thành
tiên? Nếu như thành tiên quá dễ dàng như vậy thì sao đại chúng không mau
tự sát để thành tiên cho rồi. Ðây là chuyện không thể có được. Những người
nhà quê đó hết sức là đáng thương. Ðui mù tin theo tà thuyết khiến bọn trẻ
chết oan uổng. Ðây là chuyện thật đáng thương xót.
Bây giờ lại hỏi rằng vì
sao mấy đứa nhỏ không sợ chết, lại muốn thành tiên? Là vì hoàn cảnh bức
bách mà thành. Thấy rằng đời sống con người cũng không hơn gì cái chết.
Làm người giống như khúc thịt biết đi thì có ý nghĩa gì đâu? Nên mới tìm
đường giải thoát: cùng tự sát tập thể. Sáu đứa trẻ đó viết trên giấy chữ
"Tử" ngàn lần như vậy. Ngày nào cũng viết chữ chết, chết, chết... Từ sáng
đến chiều cứ nghĩ đến chữ chết. Bởi vậy những đứa trẻ nầy dại dột, bị
chuyện mê tín dụ hoặc khiến quên mất hẳn mục tiêu lẫn phương hướng chính
đáng.
Là Phật-tử, chúng ta không
nên mê tín mà phải trừ mê tín. Thế nào là mê tín? Tức là hồ đồ, nghe theo
những điều người ta nói mà không suy xét. Người ta nói gì mình cũng tin
cả, tin một cách mơ hồ, nên gọi là mê tín. Mê tín chưa phải đáng sợ, đáng
sợ nhất là tin cái điều mê, tin thứ ngoại đạo điên đảo. Có những người tự
cho mình là thông minh, song điều chánh thì không tin mà gặp điều giả là
tin ngay, đó là mê trong mê. Họ không nhận thức được chân lý, đem điều
chân thật cho là giả dối, đem điều giả dối cho là chân thật. Cũng như sáu
đứa trẻ đó, vốn muốn chết để thành tiên. Ðó là một phương pháp để lừa gạt
người nhưng sáu đứa trẻ đó lại tin theo. Nếu dạy chúng rằng tu hành mới
thành tiên, e rằng chúng nó chẳng tin. Bởi vậy trên thế giới rất nhiều kẻ
đáng thương xót và vô số những chuyện đáng tiếc. Một lời khó diễn bày hết
được.
Giảng tối ngày 28 tháng
11, năm 1982
Quang Âm Thiên và Khoa Học
Khoa học vốn không
hiện hữu. Bởi vì mình gọi nó là khoa học nên nó là khoa học.
Hỏi: Phật-giáo nói: "Thủy
tổ của loài người từ Quang Âm Thiên tới." Ðiều nầy phải chăng là mâu thuẩn
với lý luận của khoa học? Ví như, khoa học có thuyết tiến hóa, nói rằng
con người biến hóa từ trạng thái vi sinh vật tối sơ, trãi qua không biết
bao nhiêu ức triệu kiếp, từ từ tiến hóa, cuối cùng mới biến thành khỉ rồi
sau đó biến thành người. Ðiều này hợp với Phật lý chăng?
Ðáp: Con người từ Quang Âm
Thiên lại; song không phải từ bảy ức triệu năm trước đâu, có lẽ cả bảy ức
ức triệu năm trước họ đã hiện hữu ở đây rồi. Các vị trời ở Quang Âm Thiên
tới nhân gian, không phải kẻ hoàn thiện gì mà họ đã mất trí huệ rồi. Vì
sao? Thì cũng giống như khi mình đầu thai thác sanh vậy. Lúc ban sơ khi
thế giới chưa có nhân loại, chưa được khai hóa, toàn là hỗn độn (như cái
trứng gà vậy). Các vị trời bay tới thế giới này, đông như ruồi, nghĩ rằng
ở đây có đồ ăn ngon lành lắm. Các vị ấy từ Quang Âm Thiên xuống, có lẽ đã
du hành một thời gian rất lâu mới tới được địa cầu, hệt như hỏa tiển phóng
lên không gian, bay vào quỷ đạo trãi qua thời gian nhiều năm mới tới đây.
Các vị trời tới địa cầu chẳng có mục đích gì đặc biệt. Các vị ấy du hành,
rồi lạc mất phương hướng, nên tới địa cầu hốt hoảng cả lên. Sau khi tới
địa cầu thì họ không còn thông minh như khi ở trên trời nữa. Họ chỉ còn
lại một thứ tánh giác tri mà thôi, không như lúc còn ở trên cõi trời. Cũng
giống như con người vốn thông minh nhưng khi chết rồi đầu thai ra thành
con nít thì quên hết chuyện quá khứ. Cũng giống như người bị đụng xe, hôn
mê bất tỉnh, chẳng còn tri giác việc gì cả.
Tuy nói rằng họ từ Quang
Âm Thiên xuống, song họ đã dần dà mất hết đức tánh và trí huệ sẵn có, chỉ
còn lại một chút xíu tánh giác tri mà thôi. Tuy là từ trời xuống, song chỉ
một số ít thôi, không ai biết là bao nhiêu. Không có lịch sử để tra khảo,
thời gian cũng quá lâu xa, nên không cách gì kiểm chứng đặng.
Ðiều mình gọi là "khoa
học," thì cũng không có gì là khoa học. Ðây chỉ là một danh từ, mình đặt
tên nó là "khoa học." Kỳ thật, nó chỉ là một thứ lý luận, lý tánh. Lý luận
ấy viên mãn hay chăng? Phải dựa vào kiến giải và năng lực hiểu biết của
các bạn. Nhiều vị hiểu rộng lắm. Song có kẻ khác thì chưa học qua khoa
học, không hiểu khoa học là gì. Phải chăng kẻ chưa học qua khoa học thì
chẳng có khả năng lý luận? Không phải! Bất luận là học hay không, tự tánh
mỗi người đều có khả năng lý luận. Chớ nói rằng học qua khoa học thì mới
có khoa học (hiểu khoa học), chưa học qua khoa học thì không có khoa học
(không hiểu khoa học). Cũng giống như Phật tánh, ai ai cũng sẵn có.
Khoa học chỉ là một bộ
phận nhỏ nơi Phật tánh. Nó không phải là một thứ lý luận hoàn hảo nhất.
Bạn nói rằng người ta nghiên cứu khoa học như thế như thế đó, và viết ra
luận án như thế như thế đó; kỳ thật đó chỉ là một sự điên đảo chấp trước
của con người. Giống như "gắn một cái đầu lên trên đầu mình" (làm việc
chấp trước, vô ích, ngược đời). Không có việc gì cần, mà cố tìm việc lăng
xăng. Lăng xăng bận rộn tìm kiếm mãi, thì chẳng tìm ra ất giáp gì cả. Dù
là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu mãi, họ chẳng thể tới đặng chân chính
kết luận.
Con người ta quá chấp
trước vào khoa học, cho rằng nó là hay nhất. Kỳ thật mọi thứ đều có sẵn
trong tự tánh của ta, không cần mình hướng ngoài tìm kiếm. Khi bạn tìm bên
ngoài, bạn sẽ mãi mãi chẳng tìm ra. Bạn nói tìm ra nó rồi Ố đúng là thứ
thiệt; song nó chỉ là đồ giả mà thôi. Bởi vì cái chân thật thì không thể
tìm ra hay nói đến. Khoa học vốn không hiện hữu (không có thực thể) bởi vì
mình đặt tên nó là khoa học, nên gọi là khoa học.
Giảng ngày 28, tháng 11
năm 1982
Tánh, Thức, Ý, Tâm
Không bị ngoại cảnh chi
phối, đó chính là tu hành. Bị ngoại cảnh chuyển, tức là đọa lạc.
Hỏi: Tánh, thức, ý và tâm
khác nhau như thế nào?
Ðáp: Như đứa con nít mới
sinh ra đời rất là vô tư, không có quan niệm gì về mình, về chúng sinh, về
thọ mạng, thì đó cũng ví như là "Tánh." Khi đứa con nít biết được làm sao
để bú sữa mẹ thì đó ví như là "Thức". Sau khi uống sữa mẹ, lại biết mặc
áo, không mặc áo thì cảm thấy lạnh, biết hổ thẹn; rồi cảm thấy đói, khát,
lạnh, nóng, thì giai đoạn đó ví như là "Ý." Cho tới khi lớn lên, lúc đó
lại muốn cái này cái nọ, đó là có "Tâm" vậy. Ðây là bốn thứ tâm, nhưng
cũng có thể nói là một, chúng nó hổ tương quan hệ không thể phân ly được,
vì cùng một nhà. Tuy là bốn danh từ khác nhau nhưng bản tánh lại là một.
"Nghiệp" là hậu quả căn bản mà chúng tạo nên.
Bây giờ nói rộng ra một
chút, thế nào gọi là "Phật." "Tánh" tức là Phật. Thế nào là Thần? "Thức"
của mình tức là thần. "Ý" là tâm phân biệt và "Tâm" là sự suy nghĩ vọng
tưởng. Bản "Tánh" thì lúc nào cũng quang minh sáng suốt, không có mình,
không có người, không có rơi vào số lượng. Nhưng khi có "Thức" rồi thì rơi
vào danh số, rớt vào phân biệt. "Ý" cũng là sự phân biệt, cũng gọi là thức
thứ sáu. Thức nầy so ra thì rất vẩn đục. Ngược lại thức thứ bảy và thức
thứ tám thì thanh tịnh một chút. Thức có tám loại: mắt, mũi, tai, lưỡi,
thân, ý là sáu thức đầu, cộng thêm thức thứ bảy và thức thứ tám. Bản thân
của thức thì không phải là tám cái mà vì trên mặt danh từ nên phải phân
làm tám. Nhưng nói một cách tổng quát thì chỉ là một, một nhưng lại có tám
cương vị khác nhau. Tuy có tám cương vị khác nhau nhưng vẫn do một thức
chi phối khống chế. Tám mà một, một mà tám. Tám không ngại một, một không
ngại tám. Từ nơi một sinh ra tám, từ nơi tám thâu hồi thành một, đó gọi là
thức.
"Ý" tức là tâm phân biệt
của mình, tức là thức thứ sáu. "Tâm" không những phân biệt mà đầy dẫy vọng
tưởng. Trong sáu thức đầu có thể nói là loại có tánh tri giác, là do nơi
lục căn phát sáu thứ tri giác đó. Sáu căn tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, và ý; phát xuất ra thấy (thị giác), nghe (thính giác), ngửi (khứu
giác), nếm (vị giác), sờ (xúc giác), hiểu (tri giác). Con người tạo tội
nghiệp là ở nơi sáu căn đó, tu hành cũng từ nơi sáu căn này. Nếu không bị
ngoại cảnh chi phối thì đó chính là tu hành. Nếu bị cảnh giới bên ngoài
làm cho xoay chuyển thì tức là đọa lạc.
Thật Ðau Lòng Cho Nền Giáo Dục Hiện Tại
Luôn luôn y theo
tinh thần đại công vô tư,
Quang minh lỗi
lạc, với tinh thần vô úy.
Ngày nay nền giáo dục
trong rất nhiều nước đang bị suy sụp. Tuy nhiên vẫn có một số người phấn
tấn nổ lực mong cứu vãn cơn nguy trầm luân đạo đức. Việc làm của kẻ phấn
tấn nổ lực so với kẻ đọa lạc giống như tạt một ly nước để dập tắt căn nhà
đang cháy lớn. Nguyên nhân vì sao nền giáo dục sụp đổ như vậy? Ðó là do
con người, những vị nhân sĩ trong nền giáo dục không chịu cải thiện, không
biết cầu tiến. Tuy thấy học sinh càng ngày càng đọa lạc, giết người, phóng
hỏa, cướp giựt, hút ma túy, nhưng họ coi những chuyện này như không. Thậm
chí còn công khai cổ vỏ học sinh hút ma túy, phá thai, tự do phóng túng,
mặt tình dùng thuốc ngừa thai v. v... Những hành vi tồi tệ ấy chỉ làm ý
chí học sinh lụn bại, lương tri tiêu tán.
Tuy nhiên một số nhà giáo
dục vẫn còn có tâm tận tụy; hết sức hô hào để cứu vãn sự trầm luân đó; vì
thanh niên mà vun đắp lại cơ sở tốt đẹp. Nhưng phần đông kẻ làm giáo dục
thì tâm lý tối tăm, cổ xúy những chuyện dâm dục, bại hoại luân lý, tổn
thương thuần phong, khiến chí nguyện của thanh niên, những bậc anh hùng,
hiền tài, bị sụp đổ, thiện căn giảm sút, đứt đoạn. Trước khi khai phát trí
huệ chân chính, họ đã học toàn những thứ điên đảo xằng bậy.
Có những nhà giáo dục,
thậm chí hô hào cải tạo nhân tâm. Nhưng những kẻ đó là giặc ở trong làng
đạo đức. Bởi vì họ dùng thứ văn chương bại hoại để che đậy những thứ xấu
xa; cực lực phản đối nền giáo dục chân chính là nền giáo dục có tính cách
xây dựng. Họ giống như những kẻ đui mê hoặc những kẻ vô tri. Những điều
này làm cho người ta đau khổ và lo lắng.
Những nhân sĩ phục vụ
trong nền giáo dục, phải luôn luôn y theo tinh thần đại công vô tư, quang
minh lỗi lạc, có tinh thần vô úy để gây dựng lên tầng lớp thanh niên biết
làm chủ tương lai. Ðược vậy thì mình sẽ không xấu hổ với lương tâm, không
hổ thẹn làm thầy kẻ khác. Nếu quý-vị không sửa đổi những lỗi lầm đó, đầy
dẫy những tà tri, tà kiến, những hiểu biết sai lầm, những sự đố kỵ chướng
ngại, chỉ muốn cầu danh mong lợi, đè người khác xuống để mình đứng lên
trên, luôn luôn có hành vi hư ngụy lừa dối, thì nền giáo dục vĩnh viễn
không chấn hưng được. Những bậc anh tài sẽ bị mai một, tiền đồ của quốc
gia cũng sẽ rất nguy hiểm. Hy vọng các nhà giáo dục hô hào để thanh niên
chú ý. Luôn luôn tìm phương kế để cứu vãn tầng lớp thanh niên, để họ khỏi
phải rơi vào con đường bế tắc, rồi đọa lạc. Ðược vậy thì thực là diễm phúc
cho xã hội quốc gia lắm.
Giảng tháng 12 năm 1982
Tham Thiền Cần Có Con Mắt
Biết Chọn Pháp
Nếu không nhận
thức được pháp môn chân chính, thì có thể đi vào con đường tà đạo.
Người học Phật-pháp cần
phải có Trạch-pháp-nhãn, tức là con mắt biết chọn Pháp; biết cái nào là
Pháp, cái nào không phải Pháp; cái nào đen, cái nào trắng, cái nào thiện,
cái nào ác. Phải nhớ đừng nhận lầm cái giả là thiệt, đen cho là trắng,
trắng cho là đen, hoặc lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiện. Ðó đều là điên
đảo. Khi mình muốn nhận thức những Pháp như vậy, cần phải có con mắt gọi
là Trạch-pháp-nhãn.
Trước tiên hãy rũ bỏ ngã
tướng. Nếu có ngã tướng thì sẽ sinh ra đủ thứ chướng ngại, cũng không có
trí huệ nữa. Có ngã tướng thì tự sinh ra tâm ích kỷ, rồi tiếp theo đó sinh
ra tâm tư lợi, tâm truy cầu, tâm tham lam. Khi cầu không được, tham không
xong, thì lại sinh ra tâm đấu tranh, cùng người tranh cường luận thắng.
Nếu như không có "ngã
tướng," thì có cái gì gọi là "ngã"? Ai là cái ngã? Cái ngã này là ai?
Quý-vị suy nghĩ, tham nó. Như tham câu "Niệm Phật là Ai?" Câu "Niệm Phật
là Ai?" nầy là tham chớ không phải để niệm. Nếu mình niệm tới niệm lui thì
vô ích, mình phải tham nó. Tham thì tựa như lấy cái dùi đục mà dùi; dùi
mãi tới lúc nào đâm thủng nó được thì tức là mình triệt ngộ.
Nhất thời bất minh bạch,
nhất thời đô yếu tham;
Thời thời bất minh bạch,
thời thời đô yếu tham.
Nghĩa là:
Lúc nào chưa hiểu rõ, lúc
đó cần phải tham.
Mọi lúc chưa hiểu rõ, mọi
lúc cần phải tham.
Tham thiền cũng không phải
đoán mò, nếu như mình cứ đoán rằng "Tôi niệm Phật à? Anh niệm Phật? Người
đó niệm Phật? Ai niệm Phật?" Ðoán tới đoán lui đều đoán không đúng. Mình
cần phải tìm ra "Ai." Chữ "Ai" nầy chính là Kim-cang-vương Bảo-kiếm, tức
là lưỡi kiếm trí huệ. Nếu dùng lưỡi kiếm trí huệ nầy mà chặt đứt hết các
vọng tưởng khác, thì trí huệ tự nhiên hiện tiền.
Nếu không nhận thức, không
hiểu rõ pháp-môn tham-thiền, mà cho rằng pháp-môn nầy cũng giống như
pháp-môn niệm Phật, nghĩ rằng niệm càng nhiều càng tốt (thay vì tham) thì
đó là điều hết sức là sai lầm. Không cần niệm cho nhiều, chỉ cần kéo hơi
cho dài, tham cho nhiều, mấy giờ đồng hồ cũng được. Thậm chí tham đến tám
vạn đại kiếp cũng không gián đoạn, thì đó mới là chân chính tham thiền.
Tại sao phải tham câu
"Niệm Phật là Ai?" Chữ "Ai" nầy cũng là đã nhiều lời. Nhưng vì chúng ta
giống như con khỉ, lúc nào cũng muốn tìm cái nầy cái nọ để làm. Do đó chữ
"Ai" để mình đi tìm, thì vọng tưởng mới hết. Nghĩa là dùng chữ "Ai" nầy
giống như lấy độc trị độc. Tham thiền tức là quét sạch bụi (vọng tưởng).
Khi mình không còn vọng tưởng thì mới đúng là "thời thời thường phất
thức." Nghĩa là lúc nào cũng quét sạch. Tại sao cần phải quét bụi? Bởi vì
không muốn cho tâm bám đầy bụi, mình muốn "quét sạch tất cả mọi Pháp, xa
rời tất cả mọi tướng." Ðó là pháp-môn tham thiền.
Nếu mình không có con mắt
chọn Pháp, không hiểu biết được chân pháp, thì mình không biết thế nào là
tham thiền. Không biết tham thiền thì chỉ phí công lao tu tập. Nếu không
nhận thức được pháp môn chân chính thì có thể đi vào con đường tà đạo, nên
Trạch-pháp-nhãn, con mắt biết chọn pháp, rất quan trọng.
Giảng tối ngày 4 tháng 12
năm 1982 tại Vạn Phật Thánh Thành
Ðắc Nhất Vạn Sự Tất
Ai hiểu được số
không này, thì người đó có thể tu hành chứng quả.
Chư Pháp tùng duyên sinh,
Chư Pháp tùng duyên diệt.
Ngã Phật Ðại Sa-Môn,
Thường tác như thị thuyết.
Nghĩa là:
Các Pháp do duyên sinh,
Các Pháp do duyên diệt.
Ðức Phật Ðại Sa-Môn,
Thường nói lý như vậy.
Tất cả mọi Pháp đều do
nhân duyên sinh ra, rồi cũng do nhân duyên tiêu diệt. Ðó là đạo lý luân
hồi, cũng là đạo lý: "Vật cực tắc phản, bỉ cực thái lai." Nghĩa rằng vạn
vật hễ biến thiên đến cực điểm phía nầy rồi thì sẽ quay đầu để tới cực
điểm phía kia. Khi bế tắc cùng cực thì rồi sẽ hanh thông. Ðó là Pháp tương
đối trên thế gian nầy vậy.
Pháp tương đối ví như sự
tốt đẹp đến cực điểm rồi sẽ biến thành xấu, xấu đến cực điểm lại biến
thành tốt. Cũng như con người sinh ra là điều tốt, nhưng khi chết đi lại
là điều xấu, điều hủy hoại. Sinh, trụ, dị, diệt; sinh xong rồi sẽ trụ, trụ
rồi sẽ biến dị, biến dị rồi sẽ hủy diệt. Sinh, lão, bệnh, tử cũng đồng đạo
lý như vậy; sinh ra rồi từ từ sẽ già, già rồi có bịnh, bịnh rồi sẽ chết.
Ðó là thứ pháp nhân duyên. Con người ai cũng sống, thích sống, và ai cũng
phải chết, nhưng lại sợ chết. Nếu mình không thích sống mà cũng không sợ
chết, thì đó là một loại định lực. Như người ta thường hay sợ quỷ, nhưng
tại sao lại sợ? Bởi vì quỷ thì xấu xa hung ác, có thể hại người và làm
chết người. Cho nên, người ta đều sợ quỷ, đó là hiện tượng sợ chết mà
thôi. Nếu như mình không sợ chết, thì mình không sợ bất cứ cái gì. Bất
luận là quỷ thần, yêu ma, quái vật, mình cũng không sợ; không gì làm cho
mình sợ cả. Còn sự sợ hãi là còn chưa có định lực. Hết mọi sự sợ hãi thì
đó mới là chánh định, chánh thọ, mới có định lực. Có định lực thì con
người mới:
Túng ngộ phong đao thường
đản đản,
Giả nhiêu độc dược dã nhàn
nhàn.
Nghĩa là:
Ðứng trước mũi kiếm vẫn
ngang nhiên,
Dù ép độc dược cũng bình
thường.
Ý rằng nếu có người đem
dao tới chặt đầu mình, hoặc là dùng độc dược để giết hại, mình cũng không
lo sợ, trong tâm không hề giao động. Ðó là vì sao? Vì mình đã thoát khỏi
sinh tử "Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu." Nghĩa là "xong xuôi những việc
cần làm, từ đây chẳng phải đầu thai làm gì." Cho nên nói nếu được "một"
thì mọi sự đều xong.
Nhưng được "một" đây cũng
vẫn chưa hẳn là đủ, phải làm cho "một" nầy trở về bản nguyên của nó: trở
về số không. Số không là đạo lý rất linh diệu, khó có thể diễn bày được.
Ai hiểu được số không này, thì người đó có thể tu hành chứng quả. Làm sao
để hiểu số không nầy? Trước hết phải hiểu số một. Bởi vì "Ðắc nhất vạn sự
tất," nghĩa là được một thì vạn sự đều xong. Cái một này xa rời ngôn ngữ,
văn tự, ra khỏi tâm sở duyên, quét sạch tất cả Pháp, xa rời tất cả tướng.
Lại nói rằng: "Nhất pháp bất lập, vạn sự giai không." Nghĩa là chẳng lập
một pháp gì, mọi sự thảy đều không. Quý vị muốn tới cảnh giới và đạo lý
này, thì trước hết phải tới "một," quý vị đừng coi thường số "một" này.
Thiên đắc nhất dĩ thanh,
Ðịa đắc nhất dĩ ninh,
Nhân đắc nhất dĩ thánh.
Nghĩa là:
Trời được "Một" nên trong,
Ðất được "Một" nên yên,
Người được "Một" thành
Thánh.
Tại sao trời che phủ được
vạn vật? Là vì trời được số "một" này. Tại sao mặt đất làm chỗ dựa cho vạn
vật? Là vì đất được số "một" này. Nếu như đất mất số một thì đất sập, núi
băng, động đất, nước biển nổi trào, đủ thứ tai họa phát sinh. Nếu nơi nào
mất số "một" này, thì nơi đó sẽ sinh ra đủ thứ tai họa. Nếu số "một" này
không mất thì mọi nơi trên mặt đất đều bình an.
"Nhân đắc nhất dĩ thánh."
Nếu con người thật sự tới được số "một" này thì có thể ra khỏi luân hồi,
chứng thánh quả, khai trí huệ. Bởi vì con người mất số "một" nên kẹt trong
luân hồi, xoay chuyển trong lục đạo, chịu đủ thứ phiền não vô minh. Tám
vạn bốn ngàn phiền não đều do mất số "một" này mà sinh ra. Muốn về lại
"một" thì trước tiên phải biến phiền não thành Bồ-đề, biến sinh tử thành
Niết-bàn; dễ như trở bàn tay vậy, không khó khăn lắm đâu! Song vì lẽ gì ta
chẳng biến phiền não sinh tử thành Bồ-đề Niết-bàn được? Bởi vì do mình đã
mất đi số "một" này, và chạy tới số hai, ba, rồi đến số mười, từ số mười
tới số một trăm, rồi vô tận; nên trăm ngàn vạn ức thứ phiền não mới sinh
ra. Bởi thế số "một" này rất quan trọng. Tuy nhiên, bởi vì mình đã mất số
"một" này, muốn trở về nó không phải là dễ. Từ số "một" mà muốn phản bổn
hoàn nguyên, trở lại số không thì lại càng khó khăn hơn nữa.
Tôi nói cho quý-vị một ví
dụ đơn giản khác. Lúc nào gọi là "một"? Còn lúc nào gọi là "không?" Ðối
với con gái, từ một tới mười bốn tuổi, đối với con trai từ một tới mười
hai tuổi, trong giai đoạn đó, chưa mất đi số "một." Thời gian nào là số
"không?" Từ lúc nhập thai cho đến lúc sinh ra, đó là giai đoạn mình ở
trong số "không." Lúc đó thì tất cả những thứ phiền não vọng tưởng, tham,
sân, si đều không có. Cho tới lúc biết ăn, đói rồi sinh lòng tham ăn, giận
dữ, ngu si bắt đầu phát sinh; nhưng lúc nầy cũng chưa mất đi số "một," đây
chính là khởi đầu cuộc sống làm người. Từ số "không" biến thành "một," thì
số "một" này vẫn còn là số rất hoàn chỉnh, vì nó là sự bắt đầu của mọi sự.
Cho tới khi trải qua những diễn biến trong đời, những thứ khác sẽ cộng
thêm vào số "một" này, để biến thành hai, hai thành ba, ba thành bốn, và
cứ thế tăng lên, càng tăng thì gánh nặng càng lớn, và con người càng trở
nên ngu si hơn.
Tánh tức là số "không," số
"không" cũng tức là tánh. "Không" tánh có nghĩa là chẳng có gì cả, chính
là:
Bổn lai vô nhất vật, hà xứ
nhạ trần ai?
Nghĩa là:
Xưa nay chẳng có vật gì,
Thì sao có chỗ bụi trần
bám vô.
Tu hành cần phải tu đến
chỗ "hồ tôn xích tử," nghĩa là tâm như đứa con nít, tâm không có bất cứ
điều gì. Giống như đứa con nít vậy, tức là phản lão hoàn đồng. Song, phản
lão hoàn đồng không phải là nói rằng mình đi uống sữa, mà chính là muốn
mình không còn tham, sân, si, mạn, nghi. Ðây mới gọi là phản bổn hoàn
nguyên; chẳng khác gì với tri kiến của đứa con nít, rất là thiên chân,
không tà lự, không một chút giải đãi lười biếng, cũng không có tâm tham
tiện nghi, hoặc là tâm thị phi. Ðó chính là "Bổn lai vô nhất vật, hà xứ
nhạ trần ai" vậy.
Tu Ðạo mình cần hiểu rõ
đạo lý này thì mới có thể chân chính giác ngộ. Tại sao mình phải nghe
giảng kinh? Bởi vì mình muốn phản bổn hoàn nguyên. Tại sao lại muốn tu
hành? Cũng vì muốn phản bổn hoàn nguyên, quét sạch mọi vẫn đục trong tâm.
Chớ dụng công nơi nhân ngã thị phi. Nếu có ai nói câu gì trái ý thì mình
thấy khó chịu, không vui. Ðụng một sợi tóc, mình cũng hết sức đau đớn khó
chịu. Nhỏ một giọt mồ hôi để làm lợi cho thiên hạ thì cũng chẳng chịu làm.
Ðó đều là tinh thần hết sức ích kỷ, không thể tu Ðạo được.
Người tu Ðạo cần phải vô
ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả (không thấy có mình, không thấy có
người, không thấy có chúng sinh, không thấy có thọ mạng). Vô ngã không có
nghĩa là mình không làm mà kêu kẻ khác làm giùm mình. Vô nhân không có
nghĩa là tới lúc ăn uống lại nói: "ồ! Vì vô nhân, tôi ăn thêm một chút
cũng chẳng can gì, tức là không có ai khác." Cho dù lúc nầy mình không còn
nhân tướng (chẳng thấy có kẻ khác) đi nữa, nhưng kẻ khác vẫn còn nhân
tướng kia mà. Lúc tranh chấp, đánh lộn, thì lại "vô chúng sanh tướng."
Hoặc lúc ăn thịt thì lại "Vô thọ giả tướng." Tức là miếng thịt không có
thọ mạng. Tất cả đều là kiến giải sai lầm. Như vậy thì nên làm thế nào?
Thế nào là kiến giải đúng:
1. Vô Ngã Tướng (không
thấy có mình): Tức là không cống cao ngã mạn, không tính toán lợi lộc cho
mình.
2. Vô Nhân Tướng (không
thấy có người): Nghĩa là mình không chướng ngại, không làm chuyện bất lợi
cho kẻ khác.
3. Vô Chúng Sinh Tướng
(không thấy có chúng sinh): Nghĩa là coi vạn vật đều đồng một thể với
chính mình.
4. Vô Thọ Giả Tướng (không
thấy có thọ mạng): Mọi chúng sinh có quyền sống, bởi thế chúng ta không
thể đoạt hoặc giết hại bất kỳ sinh mạng nào Ố kể cả người và động vật.
Do đó, khi tu Ðạo, bất kỳ
lúc nào, đừng vì mình mà mong cầu, đừng vì mình mà tính toán. Hãy luôn
nghĩ đến kẻ khác.
Giảng ngày 5 tháng 12, năm
1982 tại Vạn Phật Thánh Thành