PHẬT HỌC
PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC
BÀI THỨ CHÍN
1.
Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát hỏi Phật
2.
Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
3.
Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp 4 tướng
4.
Ðem vô minh cầu Ðạo, không thể thành Ðạo được
5.
Phật nói bốn tướng
6.
Vì không rời được bốn tướng nên tu chẳng thành Phật
7.
Thương, Ghét là gốc của sanh tử luân hồi
8.
Phật chỉ ngã tướng núp ẩn trong tàng thức
9.
Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh, lúc bấy giờ ngã
tướng không còn.
10.
Vì còn ngã tướng nên không nhập được Viên Giác
11.
Phật dạy phương pháp nhập Viên giác
12.
Phật nói bài kệ tóm tắt lại các nghĩa trên
IX. CHƯƠNG TỊNH CHƯ
NGHIỆP CHƯỚNG
1.Ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng bồ tát hỏi Phật
Khi ấy ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ
tát(1) ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng,
rồi lạy Phật và qùy thẳng chắp tay, bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, Ngài đã vì
chúng con rộng nói “nhơn địa tu hành(2) của các đức như Lai, toàn
những việc cao siêu mầu nhiệm, không thể suy nghĩ và luận bàn được, khiến cho
đại chúng đặng lợi ích chưa từng có.
Chúng con là hàng Bồ tát rất vui
mừng, vì tất cả cảnh giới tu hành cần khổ của đức Ðiều Ngự(3) trải
qua vô số kiếp, nhiều như cát sông Hằng, mà chúng con chỉ thấy như trong một
niệm
-Bạch đức Thế Tôn, nếu cái tâm Viên
giác này tánh nó vốn thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà nhiễm ô và vì sao khiến cho
c húng sanh mê muội, chẳng nhập được tánh Viên giác?
Cúi xin đức Như Lai, rộng vì chúng
con, khai ngộ Pháp tánh(4) , làm cho đại chúng hiện tại và chúng
sanh đời sau, đều được con mắt trí huệ.
Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát thưa
thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng Bồ tát hỏi Phật: “.. tánh Viên giác đã thanh tịnh, vậy nhơn cái gì mà
nhiễm ô? Va vì sao làm cho chúng sanh mê muội không nhập được tánh Viên giác...”.
Ðoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: “Tất cả
chúng sanh vì sao có vọng, tự che lấy chơn tâm mà phải chịu trầm luân?...”
_________
(1)
Câu “Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát” Cổ đức
dạy: “Phật cao nhứt xích, ma thắng nhứt trượng”, nghĩa là Phật cao 1 thước thì
ma hơn 10 thước. Khi chưa tu, vì thuận theo phiền não nghiệp chướng, nên
chẳng thấy phiền não nghiệp chướng làm chướng ngại. Ðến khi hạ thủ công
phu, đi ngược dòng phiền não, lúc bấy giờ mới thấy phiền não nghiệp chướng các
bịnh hiện ra vô số. Các phiền não nghiệp chướng này do bốn tướng Ngã,
Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả mà sanh ra. Vì thế nên chương này, Ngài Tịnh
Chư Nghiệp Chướng bồ tát đứng lên thưa hỏi, cầu Phật chỉ dạy phương pháp dẹp
trừ các nghiệp chướng về Tâm bệnh. Ðến chương dưới Phật sẽ nói rõ về bệnh tà sư
(2)
Nhơn địa tu hành tức là ba pháp môn Phật dạy ở chương trên (xa ma tha, Tam ma
bát đề và Thiền na). Nhơn nghe thấy Phật dạy pháp môn tu, cũng như thấy
tất cả công dụng tu hành của các đức Phật trải qua bao nhiêu kiếp lao khổ, như
trong một niệm, cho nên nói là “việc không thể nghĩ bàn”
(3)
Ðiều ngự: Ðiều phục ngự trị các phiền não ma quân. Ðây là một hiệu
trong 10 hiệu của Phật (Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, v.v..)
(4)
Pháp tánh: Tánh các pháp. CÁc pháp tuy ngàn sai muôn khác, nhưng đồng một
bản tánh nên gọi là “pháp tánh”, tức là biệt danh của Viên giác.
******
2.Phật khen Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn bảo ngài Tịnh Chư
Nghiệp Chướng bồ tát mà dạy rằng:
-Này Thiện nam, hay lắm và quý
lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như
Lai, phương tiện như vậy. Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ
giáo.
Khi ấy Ngài Tịnh Chưa Nghiệp Chướng bồ
tát cùng đại chúng đều hoan hỷ và yên lặng vâng nghe lời Phật chỉ dạy
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng bồ tát, vì đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi những lời
rất hữu ích.
***
3.Phật trả lời: Do chúng sanh vọng chấp bốn tướng
-Này Thiện nam! Tất cả chúng
sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo, chắp bốn tướng: Ngã, Nhơn,
Chúng sanh và Thọ mạng, cho là thật thể của ta; rồi sanh ra hai cảnh: thương và
ghét. Thế là ở nơi thân thể này đả hư vọng, lại chấp them cái hư vọng
nữa.
Bởi hai lớp vọng nương nhau, sanh ra
các vọng nghiệp. Vì có vọng nghiệp nên vọng thấy có sanh tử luân
hồi. Những người nhàm chán sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có
Niết bàn.
Bởi thế nên không thể nhập được Viên
giác thanh tịnh; chớ không phải tánh Viên giác này chống cản không cho chúng
sanh nhập. Và những người nhập được, cũng không phải tại tánh Viên giác
chấp thuận hay cho họ nhập vậy. Thế nên kẻ khởi niệm hay người dứt niệm
cũng đều là mê muội. Tại sao thế? - Bởi vì vô minh đã khởi sẵn (bổn khởi
vô minh) và làm chủ tể từ vô thỉ vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn thứ nhứt, Ngài Tịnh Chư Nghiệp
Chướng Bồ tát hỏi Phậ: “... Cái tâm viên giác này vốn đã thanh tịnh, vậy nhơn
cái gì mà nhiễm ô? Và vì sao khiến cho chúng ta sanh mê muội chẳng nhập
được viên giác?..”
Ðến đoạn này Phật trà lời, đại ý
nói: Bởi tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, do vọng tưởng điên đảo,
chấp bốn tướng (Ngã, Nhơ, chúng sanh, Thọ mạng) là thật thể của Ta, là lớp hư
vọng thứ nhứt. Rồi khi gặp cảnh thuận với ta thời thương, cảnh nghịch với
Ta lại ghét, là lớp hư vọng thứ hai. Vì thế mà nhiễm ô. Ðây là Phật
trả lời về câu hỏi thứ nhứt: Nhơn gì mà nhiễm ô?
Nhơn cố chấp thật có Ta, cho nên mới
sanh ra thương ghét, vì thương ghét nên trở lại chấp thật có Ta. Bởi hai
lớp vọng này nương nhau, nên sanh ra các vọng nghiệp. Vì thế mà chúng
phàm phu vọng thấy có sanh tử luân hồi trong 6 đạo. Hàng Tiểu thừa nhằm chán
sanh tử luân hồi thì lại vọng thấy có Niết bàn; rồi trầm không thú tịch tham
luyến nơi cảnh Niết bàn. Bởi thế nên không nhập được tánh viên giác thanh
tịnh, chớ chẳng phải tánh Viên giác không cho họ nhập vậy. Ðây là
Phật trả lời câu hỏi thứ hai: Vì sao khhiến cho chúng sanh mê muội, chẳng
nhập được Viên Giác?
Phật lại dạy tiếp: Những người nhập
được, cũng không phải do tánh Viên giác chấp thuận cho họ nhập. Bởi thế
nên chúng phàm phu khởi niệm, hay hàng Nhị thừa dứt niệm, đều là vô minh mê
muội cả, chớ không dính líu gì đến tánh Viên giác vậy.
******
4.Ðem vô minh (ngã, tướng v.v...) mà cầu đạo, thì không thể thành
đạo được
-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh,
sống không có con mắt trí huệ, nên không tự thấy cả thân tâm này (ngã tướng)
đều là vô minh. vì ngã tướng (thân tâm) do vô minh sanh, nên chúng sanh
không đủ can đảm tự tiêu diệt ngã tướng, cũng như người không thể tự sát lấy
mình được.
Bởi chấp thân này là Ta, nên cảnh nào
thuận với ta thì sanh ra thương yêu; còn cảnh nào nghịch với Ta thì lại
sanh ra oán ghét. Do tâm thương ghét này, trở lại tiếp tục nuôi dưỡng vô
minh. Vì thế nên chúng sanh cầu Ðạo, đều không th ành được Ðạo
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật dạy rằng: TẤt
cả thân tâm của chúng sanh đều do vô minh sanh; song vì chúng sanh (ngã tướng)
đã từ vô minh sanh, nên không đủ can đảm tiêu diệt vô minh (ngã tướng) của
mình. Cũng như người không thể tự sát mình được.
Vô minh đã sanh ra ngã tướng, rồi từ ngá
tướng sanh ra thương ghét, rồi trở lại làm tăng thế lực cho nước. Bởi vô
minh huân tập và tu dưỡng lẫn nhau, tiếp nối không ngừng, nên chúng sanh dầu có
cần khổ tu đạo mà bốn tướng (ngã, Nhơn, v.v..) không rời, thì quyết định chẳng
thành Ðạo.
Giống như trong Kinh Lăng NGhiêm, Phật
dạy: “... Nếu dùng gốc rễ của vọng tâm làm tu nhơn, thì không thể nào thành
được Ðạo). Ðem tâm đời mà làm Ðạo, thì Ðạo cũng trở thành đời!
Trong kinh Viên giác lược sớ chép: “Dùng
tâm mê muội (Vô minh) mà cầu đạo, dầu cho siêng năng khổ hạnh tu đủ các pháp
môn, cũng chỉ giúp thêm lực lượng cho vô minh mà thôi, chớ không thành được quả
vị Phật.
Phải biết: Gốc từ vô minh sanh ra
thương ghét, rồi do thương ghét trở lại huân tập thành vôminh. Từ chủng
tử sanh hiện hành, rồi hiện hành huân làm chủng tử nối nhau không dứt.
Chúng sanh đem cái vô minh này mà cầu Ðạo thì trọn đời không thể thành tựu.
Kinh Bảo Tích chép: Ðối với thân
này, sanh yêu quý, thế là không rời tướng Ngã, Nhơ; dùng cái tướng Ngã, Nhơn
này mà tu hành thì trở lại đọa ác thú.
****
5.Phật nói bốn tướng:
A. NGÃ TƯỚNG
-Này Thiện nam! Thế nào là “Ngã
tướng”? - Tất cả chúng sanh tự tâm chứng nhận biết có Ta (ngã tướng) vậy.
Thí như có người thân thể điều hòa không có chút gì trái ý, tợ hồ như quên mình
(lúc ấy không thấy ngã tướng hiện). Ðến khi điều dưỡng bị thất thường,
thân thể mất thăng bằng, hoặc gặp phải những cảnh trái nghịch, như gai đâm hay
lửa đốt v.v... lúc bấy giờ mới thấy cái Ta (ngã tướng) hiện ra rất rõ rệt.
Vì thế mà chứng biết có cái Ta.
-Này Thiện nam! SÂu t hêm một
từng nữa, cái Ngã tướng có phần vi tế hơn trước, là người tu hành, tron glúc
thấy minh có chứng quả, có đắc đạo. Cho đến khi chứng quả Như Lai, hay
đặng Niết bàn thanh tịnh của Phật, mà nếu còn cái tâm biết mình có chứng và có
đặng, như thế cũng đều còn “Ngã tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ rõ cái Ngã tướng (ta)
có thô và tế.
1. Trong lúc bình thường thì cái
Ta hiện ra không rõ rệt, đến khi nghịch cảnh, bị người đánh đập hoặc hủy nhục
v.v.. lúc bấy giờ cái Ngã tướng hiện ra mới rõ ràng. Ðâylà cái NGã tướng
thô.
2. Người tu hành, một mình ở trong
núi sâu rừng thẳm, không gặp các cảnh thuận nghịch, tâm không phân biệt mình
với người, lúc bấy giờ tưởng mình đã chứn gđược “vô ngã” rồi. Ðến khi gặp
cảnh buồn vui thử thách, tâm mừng giận nổi lên, lúc bấy giờ Ngã tướng hiện ra y
nguyên. Cho đến lúc tự thấy mình đắc Ðạo hay chứng Niết bàn tịch tịnh của
Như Lai cũng đều còn NGã tướng, song có phần vi tế hơn trước. Bởi vì còn
biết có Niết bàn hay quả Phật sở chưng (được chứng), tất nhiên phải có cái Ta
“năng chứng”. Nếu năng chứng và sở chứng chưa hết (bỉ, thử chưa trừ) tức
là còn Ngã tướng.
B. NHƠN TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế nào là Nhơn
tướng? -Tất cả chúng sanh, tự tâm hiểu ngộ Ta đây là người vậy (nhơn tướng),
nghĩa là hiểu ngộ ta là người và các ngươi cũng là người (nhơn tướng).
Nói rộng ra, hiểu ngộ ngoài TA (ngã) thì tất cả đều là người vậy.
-Này thiện nam! Ði sâu vào một
từng nữa, cái “nhơn tướng” có phần vi tế hơn, là cái tâm này, cho đến hiểu ngộ
rắng: “còn biết mình viên ngộ Niết bàn”, cũng dều còn Ngã tướng; nghĩa là ở nơi
tâm, nếu còn một chút ngộ rắng : “Chứng lý đầy đủ”, thì đều gọi là “Nhơn
tướng”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ rõ cái “nhơn tướng” có
thô và tế.
1. CHúng sanh tự công nhận mình là
người (nhơn) và các người cũng là người (nhơn). Nói rộng ra, ngoài mình
(Ta) thì tất cả kẻ khác đều là người (nhơn). Ðây là cái nhơn tướng thô thiển
2. Ði sâu vào một từng nữa, cái
Nhơn tướng có phần vi tế hơn, là cái “tâm hiểu biết” này, cho đến nếu còn hiểu
biết: “mình có viên ngộ Niết bàn”, cũng còn Ngã tướng. Nghĩa là: hễ còn có một
chút hiểu biết, thế là con “nhơn tướng”. CÁi nhơn tướng này rất là vi tế.
Tóm lại, nếu còn có một chút hiểu ngộ
rằng: “Mình viên ngộ Niết bàn”, thế là cái “hiểu ngộ” và có cái “mình viên ngộ”
khác nhau. Vậy thời ngoài mình (mình viên ngộ) còn có Nhơn tướng (cái
hiểu ngộ) vậy.
Nói lại cho dễ hiểu: còn có TA viên ngộ
Niết bàn, tức là NGã tướng, cái “biết ta viên ngộ” đó là nhơn tướng.
C. CHÚNG SANH TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế nào là
chúng sanh tướng? - Tất cả chúng sanh ở nơi tự tâm không còn chấp mình là Ngã
và Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Tỷ như có người nói như thế này: “Tôi
đây là chúng sanh”. Bởi thế nên biết: Người kia nói “Tôi là chúng
sanh” thì biết không phải Ngã và Nhơn.
-Này thiện nam! Những chúng
sanh rõ biết hai món tướng trước (sở chứng, sở ngộ) là thuộc về Ngã và Nhơn,
nay không còn chấp Ngã, Nhơn nữa; nhưng còn cái “tâm rõ biết”, đó là chúng sanh
tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật nói chúng sanh tướng có
hai phần thô và tế.
1. Không còn chấp ta đâylà Ngã hay
Nhơn mà lại chấp là chúng sanh. Như thế là chấp về phần thô.
2. Rõ biết hai tướng Ngã và Nhơn
là phi, nên không còn chấp; thế là đã cao hơn trước một từng, nhưng còn cái “rõ
biết hai tướn gNgã, Nhơn là phi”. Ðó cũng là cái vi tế Ngã tướng còn ẩn
phục bên trong, gọi là chúng sanh tướng.
D. THỌ MẠNG TƯỚNG
-Này thiện nam! Thế nào là thọ
mạng tướng? – Các chúng sanh tâm chiếu soi (phân biệt) đã thanh tịnh.
Nhưng còn cái trí giác ngộ tưởng chúng sanh trước (giác sở liễu giả). Bởi
còn có cái “trí giác ngộ”, tương tục tu tập các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự
trừ đưọc; cũng như mạng căn tương tục, không tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng
tướng”.
-Này thiện nam! Nếu còn tâm soi
thấy (biết) tất cả cái giác (biết) trước (3 tướng trên) đó thì cũng còn ở trong
vòng trần cấu (tâm chưa trong sạch). Bởi còn năng giác và sở giác nên
chưa rời trần cấu vậy.
Cũng như nước nóng làm tiêu băng, thì
toàn băng là nước, lúc bấy giờ không còn nước nóng năng tiêu và băng bị
tiêu nữa. Nếu còn chút nước nóng và băng, thế là nước chưa thuần
nhứt. Cũng thế, nếu còn cái Ta để giác ngộ cái TA trước, thì chưa rời
được bốn tướng.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Người tu hành
khi phá trừ được Ngã, Nhơn, chúng sanh ba tướng trên rồi, tâm đã được thanh
tịnh, nhưng còn cái trí tiếp tục tu vô lậu nghiệp, để phá trừ tướng trên.
Vì cái trí này còn tiếp tục trong một thời gian chưa có thể tự trừ được.
Cũng như mạng sống của người, sống tiếp tục trong một thời gian, không thể tự
đoạn được, nên gọi là “thọ mạng tướng”.
Phật dạy thêm, đại ý: Nếu còn tâm phân
biệt để phá trừ các tướng ( Ngã, Nhơn, CHúng sanh, thọ mạng) thế là còn vọng vì
năng, sợ, bỉ, Thử đối đãi nhau, nên tâm chưa trong sạch. Bởi còn vọng là
còn nhiễm ô, vì thế nên gọi là trần cấu. NGhĩa là: nếu còn một chút biết
rằng: “Ta trừ Ngã”, thế là còn mắc trong bốn tướng, chưa thoát ly được vọng –
Cũng như nước nóng làm tiêu băng, khi băng “tiêu rồi thì “nóng” cũng không chỉ
còn nước.
Ngài Tôn Mật giải: Nước là dụ cho “chơn
tâm” băng là dụ cho “bốn tướng”. Nước nóng là dụ cho “trí huệ”.
Nước vì lạnh mà đóng thành “băng”; cũng như Tâm vì mê nên thành “bốn
tướng’. Dùng nước nóng làm tiêu băng, cũng như dùng trí huệ làm tiêu bốn
tướng. KHi băng tiêu rồi thì nóng (nước nóng) cũng không chỉ còn một tánh
nước mà thôi. Cũng như ngã tướng hết, thì trí phá Ngã cũng không chỉ còn
một thể tánh chơn tâm.
Tóm lại, tướng “thọ mạng” cũng là tướng
NGã rất vi tế đó thôi. Chúng sanh trước phân biệt chấp Ta, tức là Ngã
tưóng. KHi phá được Ngã tướng, nhưng còn cái “trí biết mình phá Ngã” là
nhơn tướng. Khi phá được Nhơn tướng, nhưng còn cái “trí biết mình đã phá
nhơn tướng” gọi là chúng sanh tướng. Hi phá được chúng sanh tướng, nhưng
vẫn còn cái “trí biết mình đã phá chúng sanh tướng”. Cái trí đó vẫn tiếp
tục tu các nghiệp vô lậu, chưa có thể tự đoạn được, cũng như mạng căn tương tục
sống trong một thời gian và không thể tự đoạn được, nên gọi là “thọ mạng
tướng”.
VẬy thì bốn tướng trên, cũng là một ngã
tướng, chẳng qua từ thô vào tế, từ thiển đến thâm mà thôi. Theo trong văn
Kinh chữ Hán, dùng bốn chữ riêng biệt, chỉ rõ bốn tướng có thô và tế khác nhau.
1. Chứng là ngã tướng
2. NGộ là nhơn tướng
3. Liễu là chúng sanh tướng
4. Giác là thọ mạng tướng
******
6.Vì không rời được bốn tướng, nên tu chẳng thành Phật
-Này thiện nam! Các chúng sanh
đời sau, bởi không rời được bốn tướng, nên tuy trải qua nhiều kiếp, siêng năng
tu hành khổ hạnh, nhưng chỉ thành hữu vi mà thôi, chớ không thể chứng được
Thánh quả.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh LĂng nghiêm Phật đã cặn kẽ
căn dặn: “Nếu các ông nhận lầm căn bản của sanh tử là vọng tâm làm nhơn địa tu
hành, thì không bao giờ thành quả vị Phật. Cũng như người nấu cát làm
cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng chẳng thành cơm được, vì nó gốc là cát”
Giống với đoạn kinh này, Phật dạy đại ý:
Người mang tâm nhơn, ngã v.v... thuộc về hữu vi hữu lậu của chúng sanh,
mà muốn cầu quả vô vi vô lậu của Phật, dầu cho cực khổ tu hành, trải qua nhiều
kiếp cũng không thể được, vì gốc nó là Ngã tướng, là chúng sanh và hữu lậu vậy.
******
-Tại sao thế? Bởi nhân các ngã
tướng: có chứng có ngộ, cho là thành tực quá Niết bàn. Chẳng khác nào
người nhận giặc làm con, nó sẽ phá tan gia tài quý báu vậy.
LƯỢC GIẢI
Ngài Như Sơn giải rằng: TẠi sao siêng
năng tu hành trải lâu nhiều kiếp, mà không chứng được thánh quả? - Bởi vì
lầm nhận ngã tướng làm Niết bàn vậy. Cũng như lầm nhận giặc làm con, đã không
được nhờ, trái lại còn bị nó phá hại chẳng ít.
Trên văn kinh, chữ “các ngã tướn” tức
chỉ cho bốn tướng: Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ mạng.
Trên văn kinh, chữ “có chứng có ngộ”;
nghĩa là biết mình có chứng quả Phật, có ngộ Ðạo, thế là chưa rời NGã
tướng. Bởi hành giả đem “ngã tướng” này, cho là đặng thánh quả, nên nói
“nhận giặc làm con vậy”.
******
7.Thương (tham) ghét (sân) là gốc của sanh tử luân hồi
-Này thiện nam! NẾu hành giả
còn ưa (thương) Niết bàn (pháp ái) tức là còn NGã tướng (ta ưa); chẳng qua cái
Ngã tướng ấy bị ẩn phục, rồi lầm cho đó là tướng niết bàn.
Còn ghét sanh tử, tức là còn Ngã
tướng (ta ghét). chúng sanh riêng ghét sanh tử, ưa Niết bàn, chớ đâu biết
rằng: cái “ưa” đó chính là gốc sanh tử, còn “ghét” là gốc triền phược (không
giải thoát).
-Này thiện nam! Làm sao biết
“ưa” và “ghét” là gốc của của sanh tử triền phược? Bởi các chúng sanh tu đạo Bồ
đề, nếu còn đôi chút biết mình chứng được Ðạo quả thanht ịnh, thế là chưa diệt
trừ được tận gốc Ngã tướng, nên còn sanh tử triền phược.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: “còn” thương
ghét là còn ngã tướng; mà ngã tướng là gốc rễ của sanh tử luân hồi.
Chúng sanh đem tâm “thương ghét” này mà
cầu đạo Bồ đề, thì không bao giờ được giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân
hồi vậy.
Mặc dầu ghét sanh tử là việc phải, ưa
cảnh Niết bàn tịch tịnh là một điều hay; nhưng cũng còn ở trong vòng thương
ghét, nên chẳng rời Ngã tướng.
Phải không “thương ghét”, thì ngã tướng
mới không; ngã tướng không, mớinhập được Viên giác. Vì hiểu nghĩa này,
nên cổ nhơn có làm bài kệ rằng
HÁN VĂN:
Thập phương đồng tụ hội
CÁ cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy
DỊCH NGHĨA
Mười phương đồng tu hội
Người học vô vi
Ðây là trường thi Phật
“Tâm không” mới được đậu
Bài kệ này quan trọng nhứt là hai chữ
“Tâm không”. Người còn “ưa ghét” tức là còn tham sân; thâm sân còn thì
sanh tử luân hồi còn. Bởi thế nên trường thì làm Phật này, nếu ai Tâm
không còn tham sân tật đố, Tâm không còn nhơn ngã bỉ thử, Tâm không còn mừng
giận thương ghét v.v... thì được “đậu”
********
8.Phật chỉ “Ngã tướng” ẩn núp trong tạng thức
-Này Thiện nam! Trong khi có
người đến khen ngợi kính phục, hành giả lại sanh vui mừng, muốn tế độ người
đó. Trái lại, nếu bị người chê bai hủy báng, thì hành giả lại sân
hận. Do đó mà biết cái ngã tướng vẫn còn kiên cố núp ẩn trong tạng thức;
nó thường lai vãng trogn các căn của hành giả, không gián đoạn vậy. Người
tu hành bởi không đoạn trừ được “ngã tướng”, cho nên không thể nhập được Viên
giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Người đời khi gặp cảnh thuận hay nghịch,
cái Ngả tướng thô trọng nổi lên rất dễ biết. Ðến như người tu hành cổi
lột được Ngã tướng thô trọng bên ngoài, nhưng còn cái Ngã tướng vi tế tiềm tàng
trong tạng thức. Nó thường xuất đầu lộ diện, lai vãng ở nơi các căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi.
BẰng chứng: trong lúc được người khen
kính thì ta sanh tâm hoan hỷ, muốn độ người ấy. Trái lại, khi bị người
hủy báng chê bai, thì ta lại không vui. Ðó là cái Ngã tướng hiển lộ, có
phần tế nhị hơn trước. Bởi không trừ được tướng ngã, nên không nhập được
Viên giác.
Thân ôi! Núi không cao, trời không cao
Ngã tướng mới cao
Sông chẳng sâu, biển chẳng sâu
Ngã tướng mới sâu
**********
9.Không thấy người hủy nhục, không thấy mình thuyết pháp độ sanh,
lúc bấy giờ ngã tướng mới không còn.
-Này thiện nam! Nếu hành giả
muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc bị người hủy nhục, mà không
thấy có ngưòi hủy nhục như thế là được Vô ngã.
Trái lại, trong lúc thuyết pháp độ
người mà còn thấy có Ta thuyết pháp, thế là Ngã tướng chưa đoạn. Còn nhơn
tướng, chúng sanh tướng và thọ mạng tướng cũng thế.
LƯỢC GIẢI
Ðược người khen không mừng bị người chê
chẳn buồn, cũng chưa chắc đã hết Ngã tướng. Trong khi được khen bị chê,
mà không thấy có người khen chê, như t hế mới là vô ngã. Trái lại, nếu
thấy có người khen chê, cố nhiên phải có Ta được khen, bị chê, nên Ngã tướng
hãy còn rõ ràng.
Một thí dụ thứ hai: trong lúc thuyết
pháp độ người, không thấy có Ta thuyết pháp, có người nghe pháp, không thấy có
Ta tế độ, có người được độ; như thế mới được vô ngã. Trái lại, nếu còn
thấy có Ta thuyết pháp, có Ta tế độ, thế là Ngã tướng chưa đoạn.
Trong kinh Kim Cang, Phật nói:
“Bồ tát độ vô số chúng sanh mà không
thấy chúng sanh có độ, nếu còn thấy có Ta độ sanh tức không phải Bồ tát”; vì
còn ngã tướng, nên không phải bồ tát vậy.
Kinh Kim Cang lại nói:
“Bồ tát thuyết pháp, không thấy có mình
thuyết, nếu còn thấy có Ta thuyết pháp, tức không phải Bồ tát”; vì còn ngã
tướng, nên không phải bồ tát vậy.
******
10. Vì còn “ngã tướng” nên không nhập được viên giác
-Này Thiện nam! NGã tướng là
cái trọng bịnh của hành giả. Song, chúng sanh đời sau, lại nhận làm cái
trọng bịnh này, cho là mình chứng được pháp Niết bàn, thật đáng thương
xót! Bởi thế nên chúng càng tinh tấn tu hành chừng nào thì lại càng thêm
cái bịnh NGã tướng chừng nấy; vì thê nên không nhập được Viên giác thanh tịnh
-Này thiện nam! Chúng sanh đời
sau chấp theo sự kiến giải và hạnh của Như Lai, làm chỗ hiểu biết và hạnh của
mình, song vì không biết bốn tướng còn ẩn núp bên trong, nên chẳng thành tựu
được Thánh quả
Hoặc có chúng sanh chưa đặng đạo mà
nói mình đã đặng Ðạo, chưa chứng quả mà nói mình đã chứng quả; thấy người tinh
tấn tu h ành lại sanh tật đố. Bởi chúng sanh này chưa đoạn trừ được ngã
ái nên không nhập được Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý dodạn này nói vì có ba nguyên
nhân, nên Hành giả không nhập được viên giác thanh tịnh
1. Bởi hành giả không biết bốn
tướng rất tế nhị, lầm cho mình chứng được đạo quả, nên càng tu chừng nào lại
càng tăn gtrưởng bịnh Ngã tướng chừng nấy. Vì vậy mà chẳng nhập được viên
giác.
2. Hành giả chỉ bắt chước theo chỗ
kiến giải và hạnh của Như Lai làm của mình, không biết bốn tướng vẫn còn tiềm
tàng trong tạng thức của hành giả, nên không được nhập Viên giác. Thí như
hành giả thấy trong kinh Phật dạy bố thí v.v... rồi thực hành theo. Nhưng
không biết trong khi ấy, lại bị bốn tướng thường theo dõi. Nhưng trong
khi bố thí, thấy có người thọ thí (nhơn tướng) và ta bố thí (ngã tướng).
Bố thí để cầu cho ta được giàu sang, Ta được mạnh giỏi v.v.. vì cái Ngã tướng
còn nguyên hiện như thế, nên không nhập được Viên giác
3. Cũng vì Ngã tướng chưa đoạn nên
hành giả trong lúc tu hành thấy kết quả được đôi phần, lúc bấy giờ tánh kiêu
căng nổi lên, chưa phải chứng ngộ đắc đạo, mà tự cho mình đã chứng ngộ hoặc đắc
đạo. Hay thấy người hơn mình, lại sanh ra tật đố v.v... Vì thế mà không
thể nhập được Viên Giác.
*****
11. Phật dạy phương pháp nhập Viên giác
-Này Thiện nam! chúng sanh đời sau
trông mong thành Ðạo, mà không cầu cho ngộ đạo; chỉ ưa học nhiều nói suông, để
tăng trưởng ngã tướng.
Hành giả phải phát tâm đại dõng mãnh,
hàng phục các phiền não. Những pháp lành chưa chứng được phải tinh tấn tu
cho chứng; các pháp ác chưa đoạn cho đưọc; khi xúc ảnh không sanh tham, sân,
si, mạn, ái và tật đố v.v.. nào nhơn, ngã, bỉ, thử, ân ái v.v.. đều vắng lặng.
Như Lai ấn chứng cho người này, lần lượt sẽ thành tựu được Viên giác.
Trên đường tu hành, hành giả phải cầu
thiện hữu tri thức chỉ dẫn mới khỏi bị đọa tà kiến. Song, nếu hành
giả đối với THiện tri thức, lại phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thì
cũng không thể nhập được biển Viên giác thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này, Phật chỉ đường lối
tu hành để nhập Viên giác, có 3 đoạn
Ðoạn thứ nhất, đại ý Phật dạy: Muốn được
đạo thì phải tu hành mới ngộ được đạo. Nếu học nhiều nói suông mà không
tu, thì chỉ tăng trưởng Ngã tướng.
Ðoạn này giống như trong kinh Lăng
Nghiêm, ngài A Nan tự trách: “.. Bạch Thế Tôn, vì con ỷ lai con là em của Phật,
có lẽ Phật thương yêu sẽ ban cho con đạo quả, không cần phải tu hành cực khổ,
chỉ lo học nhiều nói suông nên không lợi ích cho mình...”
Ðoạn thứ hai, đại ý Phật dạy: Phương
pháp tu hành để nhập Viên giác, là phải phát tâm đại dõng mãnh, đoạn trừ các
phiền não, tức là bốn tướng nói trên. Siêng năng đoạn các ác pháp, tu
chứng các thiện pháp. TẤt cả thời, tâm đều vắng lặng, khi đối cảnh không
sanh các phiền não như tham, sân, si v.v.. Phật ấn chứng cho người ấy sẽ đặng
nhập Viên giác.
Ðoạn này giống như trong kinh Lăng
Nghiêm Phật dạy bốn c hữ “Bất tùy phân biệt”, nghĩa là: khi đối cảnh không khởi
phân biệt thì vọng niệm chẳng sanh, vọng niệm không sanh chơn tâm hiển lộ.
Ðoạn thứ ba, đại ý Phật dạy: Trên đường
tu hành, hành giả phải cầu Minh sư chỉ giáo, mới tránh khỏi đoạ tà kiến.
Song khi đối v ới Minh sư không được phân biệt giàu nghèo, sang hèn v.v.. (y
pháp bất y nhơn) phải sanh tâm kính trọng. Nếu trại lại thì không thể
nhập được Viên giác.
***
12. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại nghĩa
trên nên nói bài kệ rằng:
Tịnh NGhiệp! Ông nên biết:
TẤt cả các chúng sanh
Luân hồi từ vô thỉ
Ðều do chấp ngã vậy.
Nếu không trừ bốn tướng
Chẳng chứng quả Bồ đề.
Nếu tâm còn thương ghét
hoặc tật đố si mê
Ấy là kẻ mê muội,
Không được nhập Viên giác.
Người muốn được giác ngộ,
Trước phải trừ tham, sân,
Tâm hết chấp ngã, pháp,
Mới được nhập Viên giác
Thân này còn chẳng có
Thương ghét do đâu sanh
Hành giả phải cầu Thầy
Mới khỏi đọa tà kiến,
Cầu thầy, mà phân biệt
Thời không nhập Viên giác
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này: Chúng sanh bị sanh tử
luân hồi từ hồi nào đến giờ, đều do chấp bốn tướng. Nếu bốn tưóng không
trừ thì không thể chứng bồ đề. Vì các phiền não như tham, sân, si v.v..
nó làm mê muội, nên chúng sanh chẳng nhập được Viên giác. Hành giả muốn nhập
Viên giác trước phải đoạn tham, sân v.v.. Bao giờ tâm không còn ngã chấp và
pháp chấp, mới chứng đặng Viên giác.
Song trên đường tu hành, hành giả phải
cầu Minh sư chỉ giáo, mới khỏi lạc tà kiến. Khi cầu thỉnh Minh Sư, nếu
hành giả còn phân biệt sang hèn, sanh tâm thương ghét, thời cũng không nhập
được Viên giác.