PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC
Bài
Thứ 1: Chương Văn Thù
1.
Ngài Văn Thù hỏi Phật
2. Phật
khen Ngài Văn Thù
3. Phật
trả lời cho Ngài Văn Thù
4. Phật
chỉ “Vô minh”
5. Phật
dạy “Vô minh” không có thật thể
6. Phật
dạy tu theo “Viên giác”
7. Phật
và Bồ Tát đều tu theo “Viên Giác”
8. Phật
nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
B.- Phần Chánh-tôn
I.- CHƯƠNG VĂN-THÙ
1. Ngài Văn Thù hỏi Phật
Khi ấy Ngài Văn-thù Sư Lợi Bồ-tát ở
trong đại-chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay
đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch rằng:"
Bạch đức Ðại-bi Thế-Tôn, xin Ngài vì
thính-chúng trong pháp-hội hiện-tại nầy và các chúng-sanh cầu Ðại-thừa đời sau,
từ bi chỉ dạy:
1.
Nói lại nhơn-địa tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai;
2.
Các vị Bồ-tát đối với Ðại-thừa, đã phát tâm thanh-tịnh (Bồ-đề) rồi, làm
sao xa lìa được các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi đọa vào
đường tà (tà-kiến).
Ngài
Văn-thù Bồ-tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với đại
chúng ngồi yên-lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.
LƯỢC
GIẢI
Ðại-ý đoạn nầy là Ngài Văn-Thù hỏi Phật
hai điều:
1. Phật
đã tu-hành như thế nào mà được thành Phật?
2. Các
vị Bồ-tát, khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi, làm sao cho các vọng đừng sanh?
Câu hỏi thứ nhất giống như câu hỏi
trong kinh Lăng-Nghiêm, Ngài A-Nan hỏi Phật: “...Xin Phật chỉ dạy cho con
phương-pháp nào mà tất cả các đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả...”.
Câu hỏi thứ hai, giống như câu hỏi
trong kinh Kim-Cang, Ngài Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật: “... Làm sao an-trụ Chơn-tâm
và làm sao hàng-phục được Vọng-tâm...” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng-phục kỳ
tâm).
2. Phật khen Ngài Văn Thù
Khi ấy đức Thế-Tôn kêu Ngài
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát mà dạy rằng:
- Nầy Thiện-nam, quý
lắm! Ông vì các vị Bồ-tát hiện-tại và tất cả chúng-sanh đời sau cầu pháp
Ðại-thừa mà thưa hỏi:
1. Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai;
2. Khi đã phát-tâm thanh-tịnh rồi, làm sao
xa-lìa các bịnh, để khỏi đọa vào tà-kiến. Vậy ông hãy chăm-chú nghe, tôi
sẽ vì các ông chỉ giáo.
Khi đó Ngài Văn-Thù Sư-Lợi
Bồ-tát và đại-chúng đều hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa chăm-chú chờ nghe lời Phật
dạy bảo.
LƯỢC GIẢI
Phật trước khen-ngợi, rồi sau
dặn-dò phải chăm-chú nghe, là vì “Viên-giác” là cảnh-giới thanh-tịnh, phải
định-tâm chú-thần mà nghe, không thể dùng tâm sanh-diệt, ý-nghĩ xằng-xiêng mà
nghe hiểu được
3. Phật trả lời cho Ngài Văn Thù
- Này thiện-nam, Như-Lai có
pháp “Ðại Ðà-la-ni” (1) tên là “Viên-Giác”. Từ tánh “Viên-Giác” nầy mà
sanh ra tất cả các pháp thanh-tịnh: Chơn-như, Bồ-đề (Trí-giác)
Niết-bàn (viên-tịch) và Ba-la-mật (Ðáo-Bỉ-Ngạn), nay ta sẽ dạy trao cho
các ông.
Nầy Văn-Thù, nhơn-địa
tu-hành của các đức Phật, đều y “Viên-Giác” nầy mà vĩnh-viễn đoạn trừ vô-minh,
được sánh-suốt thanh-tịnh viên-mãn, nên mới được thành Phật.- Vậy “Vô-minh” là
gì?
LƯỢC GIẢI
Ngài Văn-Thù hỏi nguyên-nhơn
tu-hành của các đức Phật thế nào?- Ðến đây Phật mới trả lời: Tất cả chư
Phật đều y “Viên-Giác” để chiếu phá vô-minh và được thành Phật. Nào
là: Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn và Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v... cũng đều từ
“Viên-Giác” nầy mà lưu xuất.
Vậy muốn ngộ được “Viên-giác’ trước
phải hiểu rõ. Vô-Minh và diệt trừ vô-minh là điều cần nhứt.
4. Phật chỉ “Vô minh”
- Nầy Thiện-nam, tất cả
chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm mê-mờ tánh
“viên-Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Ðiên-đảo vọng-hiện
ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ-đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái
vọng-niệm sanh diệt duyên theo bóng-dáng của sáu trần cho là thật tâm
mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư-không có các hoa đốm, hoặc
mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư-không chẳng có hoa đốm hay mặt trăng
thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt vọng-chấp. Bởi vọng-chấp, nên chẳng
những không biết được hư-không, mà lại thêm mê-lầm: Chấp thật có hoa đốm
sanh. Vì mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh”.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy Phật chỉ rõ cái
“Vô-minh”. Vô-minh là những cái vọng-tưởng điên-đảo che mờ tánh
“Viên-Giác” (bản tâm thanh-tịnh).
Bởi Vô-minh vọng hiện ra có
thân có cảnh rồi chúng-sanh trở lại chấp thật-ngã thật-pháp, tạo ra vô-số
nghiệp, mê-mờ chồng-chập, che đậy tánh Viên-Giác! Vì thế mà nhiều kiếp
sanh-tử luân-hồi, trầm-luân trong biển khổ.
Cũng như người bị buồn ngủ (dụ
cho Vô-minh) nổi lên, làm cho mê-mờ tánh tỉnh-táo (dụ cho Viên-Giác); nhơn đó
hiện ra cảnh chiêm-bao đủ cả người và vật (hiện thế-giới và chúng-sanh), rồi
cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng giận, mỗi mỗi đều cho là thiệt cả, nên
luyến-ái triền miên, từ giấc chiêm-bao nầy tiếp-tục qua giấc chiêm-bao khác,
không biết chừng nào thức-tỉnh.
Ðây là dụ cho Vô-minh
chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác” (Chơn-tâm).
5. Phật dạy “Vô minh” không có thật thể
- Nầy thiện-nam! Cái
“Vô-minh” này không có thật thể (thật vật). Như người ngủ chiêm-bao, thấy
các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia không còn; và như người hết
nhặm, thì các hoa đốm trong hư-không tự tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể
nói “thật có chỗ hoa diệt”, vì không thật có chỗ hoa sanh vậy.
Tất cả chúng-sanh ở trong
cái “không sanh diệt” (tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có sanh-diệt, cho nên mới
bị trầm luân trong biển sanh-tử luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy: Tất cả
chúng-sanh vẫn ở trong bản tánh Viên-Giác thanh-tịnh không sanh không diệt, mà
tự mình mê-mờ (Vô-minh) vọng thấy có sanh-diệt, nên vĩnh kiếp triền-miên, luống
chịu trôi lăn trong biển sanh-tử luân-hồi, thật đáng thương!
Nhưng “Vô-minh” là hư-vọng,
không có thật-thể, cho nên khi giác-ngộ rồi, thì nó tự hết. Cũng như các
“Tối”, vì nó không có thật-thể, nên khi “ Sáng” đến, thì “Tối” tự mất.
Nếu Vô-minh là vật có thật, như núi, như sông v.v... thì không dễ gì làm tiêu
nó được.
Phật lại tỷ-dụ: Vô-minh như
chiêm-bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi thì cảnh chiêm-bao tự mất. –
Vô-minh như mắt người bị nhặm, thấy hoa-đốm lăng-xăng giữa hư-không khi hết
nhặm rồi thì hoa đốm liền tiêu.
6. Phật dạy tu theo “Viên giác”
- Nầy Thiện-nam, nhơn-địa
tu-hành của Như-Lai là tu theo Viên-Giác. Nghĩa là: biết các pháp đều
hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không có người chịu sanh-tử luân hồi.
Không phải phá hoại, làm cho
các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản-tính của các pháp nó tự không.
Cái “biết (năng biết) các pháp không” đó, cũng như hư-không. “Cái biết
như hư-không”, cũng không luôn. Nhưng không thể nói: “không có cái
biết”. Phải dứt trừ hết cả “có” và “không”, như thế mới gọi là “tùy thuận
tánh Viên-giác” (tu Viên-Giác).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn nầy Phật dạy tu theo
“Viên-Giác”, có 5 từng bực:
1.
Từng bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không,
nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không sanh, thì ba nghiệp thân,
khẩu, ý chẳng tạo nhiệp. Vì không tạo nhiệp, nên không có cảnh luân-hồi
và người bị luân-hồi.
2.
Trên nói “cảnh bị biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay biết”
cũng như hư-không.
3.
Ðến từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư-không” cũng
không luôn.
4.
Sợ người lầm chấp cảnh-giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ tư,
Phật dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.
5.
Ðến từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng-chấp “có” và “không”, mới
nhập được tánh viên-giác.
7. Phật và Bồ Tát đều tu theo “Viên
Giác”
Tại sao thế? Vì trong
Như-Lai-Tạng (Viên-Giác) không có sanh diệt, không có thấy biết, như hư-không
thường còn, chẳng lay động, như tánh của pháp-giới viên-mãn khắp giáp cả mười
phương.
Ðây gọi là chỗ nhơn-địa
tu-hành của Như-Lai, các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây mà phát tâm thanh-tịnh tu
theo Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y theo đâu tu-hành, mới khỏi
đọa vào tà-kiến.
LƯỢC GIẢI
Như-Lai-Tạng là tánh Như-Lai
hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là “Viên-Giác”, cũng kêu là “Pháp-giới-tánh”
(bản tánh của các pháp). Nó viên-mãn khắp-giáp cả mười phương, không có
sanh-diệt và cũng không tri-kiến, như hư-không thường còn chẳng lay động.
Phật dạy: Ðây là chỗ tu-hành
của Như-Lai. Các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát tâm thanh-tịnh tu
Ðại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y nơi đây tu-hành mới khỏi lạc vào
tà-đạo.
Ngài Văn-Thù hỏi 2 câu:
1.
Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai.
2.
Các vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu theo Ðại-thừa, làm sao phá trừ được các
vọng? Ðến đây Phật đã dạy xong.
8. Phật nói bài kệ tóm lại các
nghĩa trên
Khi đó Ðức Thế-Tôn, muốn tóm
lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:
Văn-Thù! Ông phải biết:
Chỗ chơn-địa tu-hành
Của các đức Như-Lai
Là dùng trí Viên-giác
Phá trừ hết Vô-minh:
Biết các pháp hư-huyễn
Thì khỏi bị luân-hồi.
Cũng như người chiêm-bao,
Thức rồi cảnh mộng hết.
Cái biết cũng không còn
Sáng-suốt khắp mười phương (Viên-giác),
Bình-đẳng không chuyển-động,
Tức thì thành Phật-đạo.
Các huyễn diệt hết rồi,
Thành đạo cũng không thành:
Xưa nay tánh viện-mãn.
Bồ-tát y nơi đây,
Phát tâm đại Bồ-đề,
Các chúng-sanh đời sau,
Tu đây mới khỏi đọa.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ nầy: Các Ðức
Phật dùng trí Viên-Giác phá trừ Vô-minh. Nghĩa là: biết muôn vật đều
hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, không sanh tâm nhiễm-trước, nên khỏi bị
luân-hồi.
Người được giác-ngộ rồi cũng
như người thức giấc chiêm-bao: các cảnh vật đều không còn - Cảnh “bị biết” đã
không, nên “cái biết” (năng biết) cũng không. Vì năng và sở đều không nên
tánh Viên-giác mới hiện ra sáng-suốt chiếu khắp cả mười phương, bình-đẳng không
chuyển-động, như thể là “thành Phật”.
Nói “thành Phật” là tạm nói mà
thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh “Viên-Giác” của mỗi người đều
sẵn có, chỉ trừ hết “Vô-minh” rồi thì “Viên-Giác” tự hiện ra, chớ có gì đâu mà
gọi là “thành”.
Cũng như người có sẵn hòn ngọc
trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như mất. Ðếu khi nhớ lại thì ngọc
vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ đâu phải mới “đặng”. Bởi thế nên nói “thành
đạo cũng không thành”.
Phật y theo Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo
Viên-Giác nầy mà phát tâm Bồ-đề, cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo
Viên-Giác nầy tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.