PHẬT HỌC
PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 8: KINH VIÊN GIÁC
BÀI THỨ MƯỜI HAI
C. PHẦN
LƯU THÔNG
1.
Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
2.
Phật khen ngài Hiền Thiền Thủ bồ tát
3.
Phật nói tên kinh này
4.
Phật nói công đức trì kinh này
5.
Phật khuyên các Ðệ tử phải bảo hộ người trì kinh này
6.
Các vị Thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
XII.
CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ
1. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát hỏi Phật
Khi ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát ở trong
đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay
bạch Phật rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, ngài đã vì
chúng con và các chúng sanh đời sau, rộng rãi giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ
được những việc không thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn:
-Kinh Ðại thừa này tên gì?
-Chúng con làm sao phụg trì?
-Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được
công đức gì?
Chúng con làm sao bảo hộ những người
thọ trì kinh này?
-Phải truyền bá kinh giáo này ở địa
vị nào?
Ngài Hiện THiền Thủ bồ tát, thưa thỉnh
như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn kinh này có hai phần:
a. Ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát tán thán
Phật, vì chúng sanh giảng giải những việc không thể nghĩ bàn
b. Bồ tát hỏi Phât năm điều
1. Kinh này tên là kinh gì?
2. Làm sao phụng trì?
3. Chúng sanh tu theo kinh này sẽ được
công đức gì?
4. Làm sao bảo hộ người thọ trì kinh
này?
5. Truyền bá kinh này ở địa vị nào?
***
2. Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ bồ tát
Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Hiền Thiện
Phủ Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, hay lắm và quý
lắm! ông vì các vị bồ tát và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai tên
kinh và công đức trì kinh này, các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Vì muốn cho mưa Pháp gội nhuần chúng
sanh đời sau, nên Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát đứng lên hỏi Phật về việc thọ trì
và truyền bá kinh này. Ðoạn này Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải
chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo
***
3. Phật nói tên kinh này
-Này Thiện nam! Kinh này không phải
chỉ mình ta nói, mà các đức Phật trong 10 phương nhiều như trăm ngàn muôn ức
lần số cát sông Hàng, cũng đều nói kinh này. Các đức Phật trong 3 đời đều
bảo hộ kinh này. Mười phương các vị Bồ tát đều quy y kinh này. Kinh này
là tròng con mắt của 12 bộ kinh. Kinh này có 5 tên:
1. Ðại Phương Quảng Viên Giác Ðà La
Ni Kinh
2. Tu Ða LA Liễu Nghĩa kinh
3. Bí mật Vương Tam muội kinh
4. Như Lai quyết định cảnh giới kinh
5. Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh
Các ông phải hết lòng cung kính phụng
trì kinh này.
LƯỢC GIẢI
Kinh này nói về tánh “Viên giác”.
Người ngộ nhập được tánh Viên gaíc thì thành Phật, còn không ngộ được
thời làm chúng sanh.
Mục đích của Phật ra đời là dod65 chúng
sanh thành Phật song chúng sanh có nhập Viên giác mới được thành Phật. Vì
thế nên hằng sa đức Phật ra đời, đều nói kinh Viên giác.
Vì kinh Viên giác rất quý báu như thê,1
nên các đức Như Lai trong 3 đời thường giữ gìn và bảo hộ kinh này. Mười phương
các vị bồ tát đều quy y kinh này, vì quy y kinh này là quy ý tánh Viên giác.
Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng tóm
lại chia ra có 12 bộ kinh, tức là 12 loại kinh. Kinh nào cũng đều nhắm
một mục did1ch là dạy chúng sanh tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì
phải nhập Viên giác. Bởi thế nên kinh này “tròng con mắt” của 12 bộ kinh
“12 Bộ kinh” - Phật ra đời thuyết pháp
40 năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh, Luật, và Luận; phân ra 12 bộ, tức là 12 loại
Có bài kệ tóm 12 bộ kinh:
TRường hàng, Trùng tụng và Cô khởi
Thí dụ, Nhơn duyên cùng Tự thuyết
Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu
Phương quảng, Luận nghị và ký biệt
Kinh này có nhiều đức tính và nhiều công
dụng nên có nhiều tên:
a. Ðại phương Quảng Viên giác
Ðà La Ni kinh
Tánh Viên gíc Quảng đại phương viên bao
trùm và gìn giữ các Pháp.
“Ðà La Ni”, Tàu dịch là “Tổng Trì”: bao
trùm và gìn giữ các Pháp
1. Pháp Ðà La Ni. - Chỉ một
chữ, một danh hiệu hay một câu, mà abao trùm tất cả chữ, tất cả danh hiệu và
tất cả câu.
2. Nghĩa Ðà La Ni – Như nói
Chơn như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới v.v.. đều đã tóm thâu sự vật sai biệt.
3. Ðịnh Ðà La Ni – Do sức
Ðịnh mà tinh thần thống nhất tập trung lại, nên phát huy được lực lượng rất
mạnh, nhờ đó mà thành tựu được nhiều môn Ðịnh (Ðịnh Tổng trì).
4. Chú Ðà La Ni. - Tức là
thần chú. Do hành giả tập trung tinh thần trì chú, nên có sức mạnh làm
cho hành giả được toại bản nguyện của mình.
b. “Tu Ða La Liễu Nghĩa”. - Chữ
“Tu Ða La”, tàu dịch là “Khế kinh”. Nghĩal à kinh này hiệp với chơn lý và
căn cơ của chúng sanh.
Chữ “Liễu Nghĩa”: Nghĩ alý rốt ráo
đứng đắn. Kinh của Phật có hai loại:
1. Bất liễu nghĩa kinh là
những bộ kinh Phật tùy quốc độ, tùy thời đại và tùy căn cơ, mà phương tiện nói
ra, như các kinh về tiểu thừa, nghĩa lý chưa rốt ráo.
2. Liễu nghĩa kinh là những
bộ Kinh nghĩa lý rốt ráo đúng đắn, Phật nói đúng chân lý không có tùy thời tuỳ
cơ v.v.. Như các kinh Ðại thừa. Kinh “viên giác” đây thuộc về kinh Liễu
Nghĩa.
c. “Bí Mật Vương Tam muội”.
- Chữ “Tam muội” tức là “Tam ma địa”, Tàu dịch:
1. Ðẳng trì
2. Chánh định
3. Chánh thụ
4. Chánh tư duy
Viên giác Tam muội này cao cả hơn các
pháp Tam muội cho nên gọi là “vương” (vua).
Chữ “Bí mật. – PHáp Viên giác tam muội
này, duy có Phật mới hoàn toàn thấu rõ được; ngoài ra như chúng sanh thời không
biết, cho đến bực đẳng giác bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói
là “bí mật”.
d. “Như Lai quyết định cảnh giới
kinh”. - Cảnh giới Viên giác này duy có đức Như Lai mới quyết định chứng
nhập được. Từ bực đẳng giác Bồ tát trở xuống, ở trong vòng cầu chứng nhập, nên
chưa quyết định được.
e. “Như Lai tạng tự tánh sai
biệt kinh”. - Chữ “Như Lai tạng”, nghĩa là “Như Lai” còn tại triền.
Bởi các vọng huyễn chưa viễn ly. Giác tánh chưa phát hiện. Nghĩa là
“quả đức Như Lai” còn bị tiềm tàng ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức
là tánh Viên giác còn bị triền phược vậy.
CHữ “Tự tánh”: TÁnh Viên giác tùy duyên
ứng hiện ra các pháp sai khác, nên gọi là “sai biệt”.
***
4. Phật nói công đức trì kinh này
-Này Thiện nam! Kinh này nói về
cảnh giới của Như Lai, nên duy có Phật mới hay biế,t còn các vị Bồ tát và chúng
sanh đời sau, chỉ y theo đây tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.
Này Thiện nam! Kinh này tên
“Ðại thừa đốn giáo”. Những chúng sanh đốn cơ mới có thể do kinh này được
khai ngộ. Kinh này cũng tiếp độ các chúng sanh về tiệm tu. Bởi thế
nên kinh này cũng như biển cả, không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn như
Thần A Tu La và nhỏ như loài mòng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.
Này thiện nam! Giả sử có người
dùng t oàn 7 món báu, chứa đầy cả đại thiên thế giới, đem ra bố thí; công đức
của người ấy rất lớn, nhưng không bằng có người nghe tên kinh này, cho đến chỉ
nghe nghĩa một câu, công đức người này nhiều hơn.
Này thiện nam! Giả sử có người
giáo hóa chúng sanh tu hành chứng được quả A La Hán nhiều đến trăm lần số cát
sông Hằng, nhưng không bằng có người giảng nói kinh này, cho đến rất ít là chỉ
giảng nửa bài kệ, công đức của người sau này nhiều hơn.
Này thiện nam! Nếu có người
nghe kinh này tin tưởng không nghi ngờ, thì biết người đó đã trồng phước huệ
không những ở một đời Phật, hoặc hai đời P hật, mà người này đã trồng căn lành
từ nhiều đời Phật, như số cát sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh này mới hay
tin thọ.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có 5 phần:
1. Kinh này nói về cảnh giới viên
giác nên duy có Phật mớihay thấu triệt, còn từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y
theo đây tu hành mà thôi
2. Kinh này thuộc về Ðại thừa đốn
giáo, nên rất hợp với những người căn cơ Ðại thừa đốn ngộ. Song kinh này
cũng tiếp độ các người căn cơ Tiểu thừa tiệm tu; thí như biển cả không nhượng
các dòng sông. Tất cả chúng sanh lớn như A Tu La (Dụ đại thừa) nhỏ như
mòng muỗi (dụ nhị thừa) uống nước biển đều được no cả.
“Ðốn giáo”. – Ngài Phổ Hiền phân TÂm
tạng kinh giáo của Phật làm năm thời:
1. Tiểu (tiểu thừa)
2. Thỉ (đại thừa thỉ giáo)
3. Chúng (Ðại thừa rốt sau)
4. Ðốn (Ðại thừa đốn giáo - Chữ “Ðốn” là
mau lẹ, nhanh chóng)
5. Viên (Ðại thừa viên mãn)
Ngài Thiên Thai lại phân làm bốn thời:
1. Tạng (tiểu thừa tạng giáo)
2. Thông (Thông đến đại thừa)
3. Biệt (đặc biệt Ðại thừa)
4. Viên (đại thừa viên giáo)
3. Phật dạy người thọ trì kinh
này, công đức quý hơn người bố thí bảo vật. Người dùng bảy món báu đụng
đầy cả Ðại thiên thế giới, đem bố thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy
lớn, nhưng thuộc vè phước hữu lậu, nên chỉ hưởng trong một thời gian rồi
hết. Không bằng người nghe tên kinh này, cho đến chỉ nghe một câu
nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã gieo được hạt giống vô lậu thanh tịnh, không sớm
thì muộn, thế nào cũng được quả vô lậu, nên quý hơn tài thí.
4. NGười giảng kinh này, công đức
nhiều hơn người giáo hoá vô số hàng Nhị thừa. Vì giáo hóa vô số người chứng quả
Nhị thừa, công đức tuy lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không bằng
người y theo kinh liễu nghĩa Ðại thừa nói một câu hay một bài kệ, làm cho người
ngộ được tánh Viên giác, không sớm thì chày người ấy quyết định sẽ được thành
Phật. Ví như các ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một mặt trăng.
5. Người nghe kinh này mà sanh tâm
vui mừng, ham mộ và tin tưởng, không nghi ngờ, thì biết người này đã có trồng
hạt giống đại thừa, từ nhiều đời đức Phật.
***
5. Phật khuyên các đệ tử phải bảo hộ cho người trì kinh này
-Này Thiện nam! Các ông phải
bảo hộ những người tu hành đời mạt pháp, chớ để cho các loài ác ma và ngoại đạo
làm não loạn thân tâm của người tu hành, khiến cho họ thối tâm.
LƯỢC GIẢI
Ðời mạt pháp, chúng ngoại đạo tà sư rất
thạnh hành hay làm nhiễu loạn đến người tu hành. NẾu không bảo vệ giữ
gìn, thì hành giả sẽ bị chúng ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.
***
6. Các vị thiện thần phát nguyện bảo hộ người tu hành
Khi ấy ở trong pháp hội có tám vạn Thần
Kim CAng như ông Hỏa Ðầu kim Cang, Tối Thoái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng
với quyến thuộc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng,
rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:
-BẠch Thế Tôn! Nếu các chúng
sanh đời sau, có người nào thọ trì kinh Ðaị thừa này, thì chúng con nguyện bảo
hộ người ấy giữ gìn tròng con mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người này tu hành,
chúng con cũng nguyện dẫn hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ, khiến cho họ
chẳng thối chuyển. Chỗ nhà cửa của người này ở, hằn không có tai chướng, các
tật bịnh đều tiêu hết, của báu giàu có, thường chẳng thiếu thốn.
Khi ấy ông Ðại Phạm Vương và 28 vị Thiên
Vương,cùng ông Tu Di Sơn Vương và Hộ Quốc Thiên Vương v.v... đều đứng dậy đi
quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi kính cẩn lạy Phật và thưa rằng:
-Bạch Ðức THế! Chúng con cũng nguyện
bảo hộ người thọ trì kinh này, thường được an ổn, tâm chẳng thối lui.
Khi ấy có Ðại Lực Quỷ Vương, tên là Cát
BÀn Trà cùng với 10 vạn Quỷ Vương, đứng dậy đi quynh bên hữu của Phật ba vòng,
rồi lạy Phật và thưa rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn! Chúng con
cũng nguyện sớm chiều hộ vệ người thọ trì kinh này, khiến cho họ không
thối lui. Chỗ của người trì kinh ở, trong khaỏng một do tuần (10 dặm) nếu
có chúng quỷ thần nào đến xâm phạm cảnh giới này, thì chúng con sẽ đập nó nát
như vi trần.
Khi ấy tất cả Ðại chúng như các vị Bồ
tát, thiên long, Quỷ thần, quyến thuộc của 8 bộ Quỷ thần và chư thiên, PHạm
vương v.v.. nghe Phật nói kinh này đều hoan hỷ, tín thọ và phụng hành
LƯỢC GIẢI
Chương thứ 12 này là nói về việc truyền
bá lưu thông. Thính chúng trong pháp hội, trên từ các vị đại Bồ tát dưới
cho đến chúng quỷ thần, nghe Phật nói kinh này, từ chương thứ 11 là chương Viên
giác rồi, tất cả đều lấy làm quý báu vô cùng, lợi lạc cho chúng sanh vô tận,
nên hớn hở vui mừng, tin thọ và phụng hành. Bởi thế nên các vị Thiện thần
đều phát nguyện bảo hộ kinh và triệt để ủng hộ người thọ trì đọc tụng kinh này.
CHúng ta chắc đã có trồng căn lành từ
nhiều đời trước, cho nên hôm nay mới có diễm phúc được nghe kinh này. ước
mong qúy vị mỗi ngày nên phát Bồ đề tâm tu hành và truyền bá kinh này được phổ
cập quần sanh. Thế là chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng thực hành
theo hạnh Phật là “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn”.
CHUNG