NGHĨ TỪ TRÁI TIM
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH PHẦN I
BÁT NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA TÂM KINH
(Prajnàpàramità Hrdaya Sùtra)
Prajnàpàramità, Huyền Trang không dịch mà chỉ phiên âm từ tiếng Phạn
thành Bát Nhã Ba-la-mật-đa, còn Hrdaya Sùtra được dịch là Tâm Kinh.
Tâm ở đây là cái tinh túy, cốt tủy, cốt lõi. Kinh: lời giảng của
Phật, được ghi lại. Bát Nhã Balamậtđa Tâm Kinh là “nước cốt”, sắc keo
lại của toàn bộ Đại Bát Nhã 600 cuốn và các bộ kinh khác có tinh thần
“Bát Nhã”, nhưng theo Suzuki không phải chỉ là bản “tóm tắt ý
chính”,“đại ý” hoặc “toát yếu” mà có phần mở rộng thêm, mang nhiều ý
nghĩa mới. (Suzuki, Sđd).
Có người dịch Bát Nhã là Trí tuệ cao nhất - Tuệ giác vô thượng – Minh
triết siêu việt ... nhưng hình như không từ nào chính xác, đầy đủ ý
nghĩa của chữ Prajnà, do vậy mà Huyền Trang chỉ dịch âm.
Osho gọi Prajnà là
“Minh triết siêu việt”, là “cái đi vào bên trong, nở từ bên trong, không
qua người khác, không nhờ kinh nghiệm từ bên ngoài , mà trong sự im
lặng hoàn toàn, để cái ẩn kín (Phật tính, Tâm bản như, Chân Như... )
bùng nổ”.
Vậy thì Bát Nhã không phải là cái tri thức, sự hiểu biết, cái học,
cái suy luận, cái nghiên cứu, tìm kiếm, thụ đắc được từ bên ngoài; cũng
không phải là cái minh triết tích lũy từ kinh nghiệm, từng trải, mà là
cái ta chỉ có thể chiêm nghiệm, mài dũa, ấp ủ, tưới bón ... từ bên trong
mỗi người chúng ta cho đến lúc nào đó nó tự nở nhụy, đơm hoa, kết trái
...
Dù sao chữ Prajnà phiên âm “Bát Nhã” nghe cũng có cái gì đó hay hay, bao la, bát ngát, đẹp đẽ, dịu dàng.
Ba-la-mật-đa thì chữ “đa” chỉ là một tiếng đệm. “Balamật” dịch âm từ Pàramità,
nghe cũng có vẻ huyền bí. Ba-la-mật, Hán dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn”,
có nghĩa là “tới bờ bên kia”, bờ của sự giải thoát. Người ta còn hình
tượng Bát Nhã là một con thuyền, gọi là Thuyền Bát Nhã giúp đưa người
qua bờ “giải thoát”.
Tâm Kinh làm cách nào giúp được người ta từ bờ mê sang bến giác, từ
bờ khổ đau đến bến an lạc? Có thể làm được chăng? Và cách nào? Vì sao nó
là “mẹ” của các vị Phật, Phật của quá khứ hiện tại và vị lai như trong
kinh văn khẳng định?
Bản văn Tâm Kinh
(Bản dịch của Huyền Trang, năm 649, đời nhà Đường)
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Balamậtđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá lợi tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá lợi tử! Thị chư pháp Không tướng: bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố Không trung: vô sắc, vô thọ tưởng hành thức; vô
nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp; vô nhãn giới
nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử
diệc vô lão tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề Tát đoã y Bát Nhã Balamậtđa cố tâm
vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát Nhã Balamậtđa cố đắc A nậu Đa la
Tam miệu Tam Bồ đề.
Cố tri Bát Nhã Balamậtđa thị đại thần chú, thị đại minh
chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ,
chân thật bất hư!
Cố thuyết Bát Nhã Balamậtđa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha!
QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT
Quán Tự Tại cũng chính là Quan Thế Âm hay Quán Thế Âm,
phạn ngữ là Avalokitesvara, còn chữ Bồ tát là dịch từ Bodhisattava, có
nghĩa là người đã giác ngộ, đã tỉnh thức và đang giúp cho người khác
cũng được giác ngộ, tỉnh thức như mình.
Đoàn Trung Còn giải thích rõ hơn: Quán Tự Tại Bồ Tát tức là Quan Thế
Âm. Bodhisattava phiên Hán là Bồ đề tát đỏa (Bồ đề: giác ngộ trọn vẹn,
Tát đỏa: chúng sanh), nghĩa là người đã giác ngộ trọn vẹn rồi nhưng vẫn
còn làm “chúng sanh”, chưa “lên” địa vị Phật, hoặc đã lên địa vị Phật,
nhưng vì lòng thệ nguyện mà vẫn còn ở hàng chúng sanh để cứu độ chúng
sanh (Đoàn Trung Còn, Tâm Kinh Bổ Khuyết, Kim Cang Kinh).
Osho nói: Thiền là đủ giải quyết các vấn đề của bạn nhưng còn thiếu
lòng từ bi. “Từ bi giữ một vị Phật còn là Bồ tát ngay trên đường biên”
(Osho, Sđd).
Vậy đó, Bồ tát mới dễ thương làm sao! Bồ tát mới “người” làm sao, mới
“trần gian” làm sao (Ta là ai mà còn trần gian thế? Ta là ai là ai mà
thương quá đời này! - Trịnh Công Sơn). Có tài liệu gọi Bồ tát là “Phật
hữu tình”, có lẽ đúng. Chứ Phật mà vô tình thì chán chết! Phật vô tình
thì thành tượng, thành robot rồi. Lòng từ bi giữ một vị Bồ tát mãi là Bồ
tát, tuy đã tự thân là Phật, đã tự do, tự tại, nhưng chính lòng thương
“cõi người ta” làm cho họ nấn ná lại, giúp người, giúp đời. Vậy chẳng
thú vị, chẳng dễ thương sao?
Thú vị và dễ thương hơn nữa là tên gọi các vị Bồ tát! Khi thì Quan
Thế Âm, khi thì Quán Tự Tại, mà Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại cũng chỉ là
một. Khi cần “lắng nghe tiếng kêu của trần thế” thì gọi là Quan Thế Âm,
khi cần lắng sâu vào sự an nhiên, tự tại bên trong chính mình thì gọi là
Quán Tự Tại. Đã là Bồ tát thì “thị hiện” cách nào cũng được. Có vị Bồ
tát tên là “Thường Bất Khinh” nghĩa là không bao giờ coi nhẹ người khác,
lúc nào cũng luôn tôn trọng người khác. Gặp ai ông cũng cung kính chắp
tay chào và nói: “Xin chào ngài, ngài là một vị Phật sẽ thành”, để khơi
dậy niềm tin nơi họ, bất kể là ai. Bồ tát Duợc vương thì hết sức chân
thành, ai thấy ông cũng vui (nhất thiết chúng sanh hỷ kiến), bởi vì gặp
ông thì người ta không cần phải đề phòng, “thủ thế”, ông lại có khả năng
thị hiện ra đủ hạng người để dễ tiếp xúc, gần gũi với họ (thấu cảm, đặt
mình vào vị trí người khác). Bồ tát Diệu Âm thì có khả năng hiểu biết
mọi thứ ngôn ngữ của chúng sanh, nhờ đó mà giao tiếp dễ dàng với họ,
bằng những âm thanh vi diệu, những lời ái ngữ ...
Quan Thế Âm, do vậy là người biết “lắng nghe tiếng kêu của trần thế”. Chỉ cần biết lắng nghe
không thôi cũng đã đủ làm giảm nhẹ biết bao nỗi khổ đau, đắng cay, tủi
nhục, mặc cảm của kiếp người! Người ta cầu nguyện Quan Thế Âm mỗi lúc
gặp hiểm nguy, mỗi lúc gặp khổ đau, bế tắc, không lối thoát, vì tin rằng
“Bồ Tát” có thể nghe được nỗi lòng của mình và sẵn sàng giúp đỡ mình.
Khi người ta giải bày được hết nỗi lòng, khi người ta tin rằng có ai đó
sẵn sàng nghe mình, giúp mình, không xua đuổi, hất hủi mình thì người ta
đã tự giải quyết phần lớn vấn đề, bởi vì lúc đó người ta đã tự tin trở
lại, đã sáng suốt trở lại để có những quyết định đúng đắn, như tấm kiếng
bị mưa che mờ được lau sạch.
Người thầy thuốc mà biết lắng nghe bệnh nhân, dành thì giờ chịu khó
nghe họ giải bày cũng đã thực hành được một hạnh của Quan Thế Âm, giúp
bênh nhân giảm bệnh đi một nửa! Nhà tham vấn luyện tập kỹ năng lắng
nghe, lắng nghe một cách chủ động, sâu sắc, với tất cả tấm lòng chân
thành và thấu cảm cũng đã thực hành được một hạnh của Bồ tát.
Thật là thú vị khi trong dân gian, hình tượng “Quan Thế Âm Bồ tát” là
một vị Phật bà, một phụ nữ, rất hiền từ, rất dịu dàng, rất xinh đẹp,
luôn luôn có bình tịnh thủy chứa đầy nước “cam lồ” trên tay để đi “cứu
khổ cứu nạn” bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu khi có người cần đến. Thật
vậy, nam giới hình như thường nóng nảy, bộp chộp, dễ gây gổ, hiếu chiến
... trong khi nữ giới thì thường dịu dàng, khoan dung, chấp nhận, tha
thứ ... Nhưng có âm thì phải có dương. Trong dương có âm và trong âm có
dương. Quan Thế Âm do vậy cũng có lúc phải nổi trận lôi đình, biến ra
“ông Ác” để quát nạt, hù dọa mới xong!
Quán Tự Tại Bồ Tát – một cách gọi – có thể cũng chính là mỗi chúng
ta chăng, kẻ vẫn đi tìm sự an nhiên, “tự tại”, nghĩa là muốn được ung
dung, tùy nghi, tự do theo tánh bản nhiên của mình, không bị vo tròn
bóp méo, không bị bơi ngược dòng sông mà như hạt sương hòa vào biển cả
... Thế nhưng ngay cả sự tìm kiếm cũng còn gắng sức, còn mong cầu, thì
khó có thể tự tại được vì vẫn còn lo âu, còn canh cánh, còn đợi chờ. Cho
nên “Bồ Tát” mà còn “Quán” về “Tự Tại” thì chắc còn phải tu luyện dài
dài! Chính vì thế mà khi Quán Tự Tại “hành thâm” Bát Nhã Ba-la- mật-đa,
phát hiện ra một điều gì đó, sung sướng hét lên: “Eureka!
Eureka!” thì Phật vội cảnh giác: Phải nên tiếp tục thực hành Bát Nhã Ba-
la-mật sâu xa, đừng tự mãn dù trong giây phút!
HÀNH THÂM BÁT NHÃ
Có cái lạ là trong rất nhiều bản chú giải Tâm Kinh không nói gì nhiều về hai chữ “hành thâm”
trong cụm “Hành thâm Bát nhã balamật đa thời” này. Có người cho “hành
thâm” có nghĩa là “tiến sâu vào” (Thích Tâm Thiện, Kinh Trái Tim Tuệ
Giác Vô Thượng, Nxb Tp.HCM 2000), còn Suzuki nói hành thâm là “thực hành
sâu xa” nhưng thực hành gì, thực hành cách nào thì không cho biết.
(Suzuki, Sđd). Giác Khai thì cho rằng “hành” là thực hành, còn “thâm”
đi liền với chữ Bát Nhã, có nghĩa là Thâm Bát Nhã (cũng như Đại Bát
Nhã). Ông nói “Bây giờ chúng ta tham thiền, đề câu thoại đầu, khởi lên
nghi tình, tức là hành thâm Bát Nhã rồi” và “Chỉ cần dũng mãnh tham cứu
mãi, tương lai nhất định sẽ đến được bờ bên kia. Tham tới lúc ngộ, tức
là chiếu kiến ngũ uẩn giai không” (Giác Khai, Bát Nhã ba-la-mật-đa
Tâm Kinh lược giải, Chánh Ngọc dịch, 1974). Đoàn Trung Còn dịch
là “thi hành” Bát nhã nhưng cũng hoàn toàn không nói thi hành cách nào? Osho thì nói rõ hơn một chút: “Bạn hãy
thiền về những lời kinh này, thiền bằng tình yêu, bằng sự thông cảm,
không bằng logic, lập luận” thế thôi. Đến NH trong “Trái tim hiểu biết”
cũng chỉ nhấn mạnh phải: “Tiếp nhận và hành trì”, vì ông ngờ rằng nhiều
người đọc tụng Tâm Kinh mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm nhưng không
chắc đã thực sự tiếp nhận và hành trì. Ở đây “tiếp nhận” là hiểu, là
chấp nhận còn “hành trì” là làm theo. NH dịch hành thâm là “quán chiếu
thâm sâu”, “thực tập một cách thâm sâu”, và phải “thực chứng”, tức thấy
trực tiếp chớ không phải chỉ học giỏi và suy luận.
Với tôi, cụm từ “hành thâm Bát nhã” này mới thực sự là quan trọng,
quyết định, bởi lẽ thiên kinh vạn quyển mà làm gì nếu không biết cách
làm thế nào để “thực chứng”, để nếm trải, để sống Tâm Kinh. Tâm Kinh có
thể mang lại điều gì cho ta, nhất là trong bối cảnh cuộc sống hiện tại,
đầy rẫy những bất trắc, lo toan, căng thẳng, đây rẫy những nguy cơ tật
bệnh đến từ mọi phía khiến cho con người không có được cái sức khoẻ -
được hiểu như là sự sảng khoái (bien-être; well-being) về thể chất, tâm
thần và xã hội, nói cách khác, là hạnh phúc, là an lạc, là chất lượng
cuộc sống ... và hơn thế nữa, Tâm Kinh còn có thể giúp cho con người
vượt qua mọi nỗi sợ hãi, kể cả nỗi sợ hãi sớm nhất là sinh tử, “vượt
thoát sinh tử” như người ta thường nói. Những người viết về Tâm Kinh
phần lớn là những thiền sư, tu sĩ đã ngồi thiền chán ngán rồi, coi
chuyện hành thiền là chuyện đương nhiên không cần phải nói tới hoặc là
những triết gia, học giả đi vào khảo luận, tranh cãi về lý thuyết. “Hành
thâm” theo tôi là làm cách nào thực hiện Tâm Kinh trong đời sống hằng ngày
của một người bình thường, giúp họ thay đổi thái độ, có cái nhìn mới
mẻ, về cuộc sống, về cõi người, về vũ trụ và nhờ đó thấy cuộc sống đẹp
hơn, quý giá hơn, sống có trách nhiệm hơn với thiên nhiên, với đời, với
người, với bản thân...; làm việc hiệu quả và năng suất cao hơn, góp phần
xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi
thành viên ... Một nhà thơ “tu sĩ” nói với tôi: Tu không phải là tự tử
từ từ!
Tìm kiếm trong những tài liệu hướng dẫn về Thiền, có lẽ chỉ thấy
những lời ... hù dọa và những bày vẽ đầy khó khăn, phức tạp. Những công
án mù tịt, những chuyện kể quái dị và những tình huống ly kỳ. Nào hét,
nào đánh, nào chặt tay, nào lật thuyền ... Càng đọc càng rối. Hay là có
một bí quyết nào đó mà người ta cố giấu? Có thật những người tu thiền
đểu tu đúng cách và đều ngộ? Không chắc. Có phải là ép xác, giam mình
trong hầm tối, để tâm trí chìm lỉm trong hôn mê - một dạng nào đó - để
tìm đến tâm bất động? Không thể tin là người ta phải hủy diệt tri thức
đi thì mới ngộ được bởi chính Bát nhã cũng là một thứ tri thức. Hủy diệt
tri thức, đẩy mình vào thế trì độn, chắc chắn không thể là thiền. Có
một khoảnh khắc nào đó ta chợt hồn nhiên, không lý trí, không lo âu,
không suy nghĩ, không toan tính, buông trôi, buông xả, trống rỗng, như ở
chỗ không thời gian, không không gian.
Cái đó là Thiền? Làm sao đạt tới? Làm sao duy trì? Sau cơn bệnh thập tử
nhất sinh nọ, có một vài khoảnh khắc hình như tôi nhận ra một cái tôi
khác trong tôi. Tôi như buông trôi và nhẹ hẫng. Tôi bất ngờ và dễ chịu.
Tôi nghiệm ra rằng khi trong ta tràn ngập một nỗi “lo” lớn hơn thì mọi
thứ lăng xăng vọng động trở thành vô nghĩa. Chỉ cần chú ý vào hơi thở
của mình thôi thì hình như thân ta cũng nhẹ nhàng vì cái duy nhất còn là
cái hơi thở vào thở ra rất quan trọng mà ta vốn hay quên. Thở ở trong
ta mà cũng như ở ngoài ta; không có ta không cần ta vận. Nếu tập trung
vào cái hơi thở đó thôi, ta có vừa thở tốt hơn, hiệu quả hơn về mặt sinh
lý mà còn làm quên đi những nỗi phiền muộn lo âu làm ta khổ đau, tức là
được an vui cả về mặt tâm thần.
Cái may mắn của ta là động tác thở vừa tự động lại vừa kiểm soát
được. Thở ra hết thì tự động thở vào. Thở vào hết lại tự động thở ra.
Nhưng ta có thể kiểm soát làm cho thở nhanh, thở chậm, thở cạn, thở sâu
được. Cái may mắn thứ hai là khi đầu óc ta phải bận suy nghĩ về điều này
thì không thể cùng lúc nghĩ về điều khác. Vì vậy mà ta kết hợp lại: vừa
thở và quan sát sự thở, để ý đến hơi thở vào, ra, dài, ngắn ra sao ...
ta sẽ quên suy nghĩ đến chuyện khác, nhờ đó mà đầu óc ta tĩnh lặng lại,
thư giãn ra. Khi giận, ta “mất khôn”: hơi thở ta trở nên dồn dập, không
kiểm soát được. Nếu ta nhớ lại, và theo dõi hơi thở, ta sẽ quên giận vì
trí óc ta bận tập trung vào nhịp thở, vào cách thở, không có thì giờ nhớ
chuyện giận nữa. Một lúc thì giận đã nguôi. Đây là một hiện tượng sinh
lý. Người nào kiểm soát được hơi thở thì kiểm soát được tâm.
Cho nên Thiền phải bắt đầu bằng kiểm soát hơi thở. Phật đã dạy điều này
từ hai ngàn năm trăm năm trước trong kinh “Quán niệm hơi thở”. Phật đã
giảng dạy không chỉ “lý thuyết” như chánh kiến, chánh tư duy mà còn dạy
cả kỹ năng, cả phương pháp như chánh niệm, chánh định. Một khi tâm đã
nhờ thiền mà yên tĩnh, lúc đó mới có thể đi vào từng ý, từng lời trong
Tâm Kinh được, để thấy được cái duyên sinh duyên khởi, cái vô ngã, vô
thường nhờ đó mà không còn sợ hãi, vô úy, giải thoát. Osho bảo thiền là
một “cái mẹo”, khi nắm bắt được nó rồi có thể định tâm tùy ý. Nếu thiền
là một cái “mẹo” hẳn phải có một kỹ thuật nào đó có hiệu quả. Nhưng “kỹ
thuật” đó là gì? Osho nói chỉ cần một người quan sát, không truy cứu,
không phê phán, không định kiến là đủ để tâm nhảy nhót dừng lại. Như bầu
trời trong, mây đến xây thành, tạo bao hình tượng, không thấy bầu trời
nói gì bèn tự tan biến đi. Rồi lại đến, rồi lại đi. Bầu trời cứ quan
sát, không phê phán. Sóng ầm ầm đủ kiểu, đại dương chỉ mở rộng lòng,
không phê phán. Cũng vậy, ý tưởng cứ đến và đi. Nhưng quan sát vẫn còn
là một cố gắng. Không cần thế, chỉ chứng kiến thôi là đủ. Tóm lại, quan
sát, chứng kiến các ý tưởng một cách bàng quan, không phê phán. Thực ra
hoàn toàn không dễ. Phải thực tập dài dài.
Thở trong thiền phải là thở cơ hoành, còn gọi là thở bụng.
Đây là cách thở của trẻ sơ sinh, một cách thở êm nhẹ, nhưng rất có hiệu
quả. Chưa ai thấy người ngồi thiền nào thở phì phò ầm ỉ, thở nhô vai
lên xuống như lúc ta tập thể dục, vì lúc đó ta thở bằng cơ gian sườn, cơ
cổ, là những cơ hô hấp phụ, không hiệu quả nhiều! Người xưa
luyện “khí công”, đưa hơi xuống huyệt “đan điền”, phía dưới rốn một tấc
(khoảng 3 lóng tay), thực chất chính là thở cơ hoành. Cơ hoành là cơ hô
hấp quan trọng nhất, quyết định 80% chất lượng hô hấp, nằm vắt ngang
giữa bụng và ngực, di chuyển lên xuống như một pittông đẩy và hút khí
vào ra. Thở chậm, thở sâu thì lợi gấp đôi thở nhanh mà cạn.
Tế bào thần kinh hô hấp có ảnh hưởng toàn bộ hệ thần kinh thực vật, tác
động lên các tạng phủ khác nên thở đúng cách có lợi cho toàn thân, cho
cả tim mạch, tiêu hóa, bài tiết. Trung tâm hô hấp nằm ở hành tủy và cầu
não, có tính tự động, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của luồng thần kinh phát
xuất từ vỏ não, khiến ta có thể chủ động thở nhanh, chậm, cạn, sâu theo
ý muốn như đã nói trên. Khi có một vùng vỏ não hoạt động mạnh thì sẽ
phát xung ức chế các vùng chung quanh, cả trung tâm hô hấp làm giảm hô
hấp vì thế mà nhà khoa học lúc suy nghĩ lung quên cả thở, người họa sĩ
say mê vẽ tranh quên thở, tu sĩ khi “quán chiếu” quá thâm sâu cũng làm
giảm hô hấp. Cũng do ảnh hưởng vỏ não, các cảm xúc giận dữ, đau đớn, sợ
hãi sẽ có luồng thần kinh tác động vùng dưới đồi làm thay đổi hô hấp, ta
gần như ngộp thở, thở hổn hển ... Ngược lại, điều khiển được nhịp thở
sẽ ảnh hưởng ngược làm giảm các cảm xúc. Thở bụng, chú ý thở vào thở ra,
bỏ mặc cảm xúc thì cảm xúc sẽ biến mất. Khi giận, khi sợ, khi cảm xúc
mạnh thì lập tức tập trung nào hơi thở thì sẽ có lợi. Khi toàn thân ổn
định, cảm giác an toàn cũng ảnh hưởng tốt đến thở. Thở đúng bằng cơ
hoành - thở bụng - đều, chậm, sâu, êm có tác dụng tốt cho cả thân và
tâm. Những nghiên cứu về sinh lý học trong thiền còn nhiều thứ như đo
các sóng phát ra từ não bộ, đo biến dưỡng căn bản, năng lượng tiêu hao
... cung cấp nhiều phát hiện lý thú. Nhiều nghiên cứu khẳng định Thiền
giúp làm giảm huyết áp, giải quyết được một số vấn đề bệnh tim mạch,
tăng sức đề kháng của cơ thể, hoạt động ít mệt mỏi, giải quyết công việc
hiệu quả, sáng suốt hơn, kể cả trong học tập và nghiên cứu. Nhiều trung
tâm Y khoa, Đại học Y trên thế giới hiện nay đang tiếp tục nghiên cứu
về Thiền để mong đóng góp một cách chữa bệnh hiệu quả, toàn diện, ít tốn
kém và đặc biệt chữa một số bệnh không cần dùng thuốc, bệnh do stress,
do dinh dưỡng, do nếp sống gây ra. Rõ ràng Thiền còn rất nhiều bí ẩn,
cần được thể nghiệm, thực hành, nghiên cứu dài lâu.
Tuy vậy, việc thở bụng và tập trung theo dõi hơi thở đã là một biện
pháp tốt để làm giảm stress và có lợi cả về mặt sinh lý hô hấp, nâng cao
chất lượng hô hấp, hỗ trợ điều trị một số bệnh tật, đặc biệt các bệnh
mạn tính.
Phật đã dạy phương pháp thở này ngay từ những bài giảng đầu tiên.
Trong kinh “Quán niệm hơi thở” và kinh “Tứ Niệm Xứ”, Phật khẳng định:
“Đây là con đường duy nhất để giúp chúng sanh thực hiện thanh tịnh, vượt
thắng phiền não, tiêu diệt ưu khổ, đạt tới chánh đạo và chứng nhập Niết
Bàn“: ... thở vào thì biết là mình đang thở vào; thở ra thì biết là
mình đang thở ra; thở vào một hơi dài thì biết mình đang thở vào một hơi
dài ... thở ra một hơi ngắn thì biết mình đang thở ra một hơi ngắn
...” Chỉ có vậy. Mới đọc, tưởng như có gì “lẩm cẩm” ở đây, nghiền ngẫm
kỹ và thực hành thì mới giật mình. Rõ ràng là đã ứng dụng quy trình ức
chế vỏ não để tạo một điểm hưng phấn ở một nơi nhằm gây ức chế những
điểm chung quanh. Như trên đã nói, khi lo âu, sợ hãi, giận dữ ... hơi
thở bị ức chế gây rối loạn, gần như ngộp thở, hổn hển, mệt nhoài, căng
thẳng, nhưng nếu tập trung được ngay vào hơi thở, theo dõi hơi thở, “thở
vào thì biết thở vào...” thì hưng phấn mới này sẽ gây ức chế các cảm
xúc lo sợ, giận dữ kia đi! Tưởng dễ mà thật ra không dễ dàng gì vì khi
nổi giận thì ta có khuynh hướng bị cuốn hút vào cơn giận, quên thở, hơn
là tập trung vào thở ... để quên giận. Làm ngược lại được thì ta đã tu
... gần thành chánh quả! Cho nên “tu” là phải “luyện” dài dài (tu
luyện), phải thực hành dài dài (tu hành)! là vậy.
Có thể nói Thiền là Thở. Không cần bày vẻ nhiều kiểu thở này nọ quá,
dễ gây hoang mang, khó thực hiện. Chỉ cần nhớ cái chủ yếu là “thở bụng” và luôn “nghĩ về hơi thở”
của mình trong lúc thở là được. Đừng gắng sức. Cũng đừng nóng vội. Đừng
mong có kết quả ngay. Thế ngồi, tự nó cũng có ý nghĩa trong chuyện
thiền này, mặc dù không cứ ngồi mới là thiền, vì tư thế nào cũng thiền
được (nghĩa là ở đâu, lúc nào cũng phải ... thở kia mà!). Nhưng có lẽ
ngồi kiết già, bán già, có lợi thế hơn. Trước hết, nó vững vàng, nó lại
giúp cho ... cái bụng hoạt động tốt, thoải mái trong động tác “phình ra,
thót vào” hơn, dễ đưa hơi xuống “huyệt đan điền” hơn. Huyệt đan điền
cũng gọi là huyệt “khí hải”, biển chứa khí ngay dưới rún. Khi còn nằm
trong bụng mẹ người ta không thở qua phổi mà “thở” qua rún, tức là qua
nhau thai. Khi ta lớn lên, ta quên ngay cái rún, thật là đáng tiếc! Thế
ngồi làm cho cái rún được nhớ lại, mọi thứ tập trung vào ... rún, và
giải phóng đầu óc, cho đầu óc được nghỉ ngơi. Kiết già là một tư thế
yoga, padmasana, có từ nhiều ngàn năm trước khi Phật ra đời. Người xưa
đã tìm cách ngồi sao cho khoẻ, phát hiện cách ngồi này mà bây giờ ta
hiểu có khả năng giúp làm giãn cơ, chống lại sự mỏi cơ do hiện tượng co
cơ thường trực (tonus) và do cơ phải vận động nhiều, sinh ra acid
lactic, gây thiếu oxy cơ (vọp bẻ!). Phật thừa kế và kết hợp với “quán
niệm hơi thở” thành một pháp môn thực hành quan trọng trong tu tập. Tư
thế ngồi trong thiền cũng tạo thành một phản xạ có điều kiện tốt cho ta.
Khi ngồi xuống như vậy, tự nhiên ta buộc phải tập trung vào hơi thở và
... quên mọi thứ chuyện trên đời. Đầu óc nhờ đó hết bị căng thẳng, và
sau mấy hơi thở đúng cách, huyết áp cũng giảm xuống, tim bớt hồi hộp ...
Các trung tâm Y khoa hướng dẫn thực hành thiền để chữa bệnh đã chứng
minh điều này. Trong đời sống hằng ngày, thỉnh thoảng thư giãn, ngồi
“thở bụng” như vậy một lúc đủ làm tăng năng suất lao động, lao động trí
óc cũng như lao động tay chân. Các vận động viên trước khi thi đấu đều
cần những phút hoàn toàn thư giãn như vậy, nhất là thư giãn cho cái tâm.
Người lo lắng, sợ hãi, muốn đạt thành tích cao thường “cứng cơ” không
thực hiện được như ý muốn. Học sinh trước những ngày thi, ngồi “thiền”
một chút thì dễ đậu hơn là để đầu óc bị căng thẳng, dù rất thuộc bài mà
rối trí, quên hết!
Thực ra thiền cần cả 3 yếu tố là tư thế, cách thở và quán tưởng.
“Quán” có thể nói nôm na là “nghĩ”, là “tưởng” tới một điều gì đó trong
lúc ngồi thiền. Việc này quan trọng hơn là chúng ta tưởng! Trong lúc
thiền, nghĩ về điều lành, điều thiện thì rõ ràng hơi thở sẽ điều hòa,
tâm hồn sẽ thư thái; nghĩ về điều xấu, điều ác thì lập tức hơi thở hằn
học, hổn hển, tim đập nhanh, mạch máu co thắt lại, huyết áp tăng lên ...
Tâm lý ảnh hưởng sinh lý một cách rất rõ rệt. Chỉ cần nghĩ đến “me
chua” thì lập tức chảy nước miếng! Chỉ cần nghĩ tới “kẻ thù” thì lập tức
“nộ khí xung thiên”, còn nghĩ tới những hình ảnh yêu thương thì tâm hồn
tự nhiên dịu xuống! Do vậy mà quán chiếu Bát Nhã sâu xa có thể “độ nhất
thiết khổ ách” chăng?
CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG
Không phải tự nhiên mà người ta “thấy”! Không phải tự nhiên mà Newton
thấy trái táo rụng rồi tìm ra định luật về sức hút của trái đất. Cả tỷ
người cũng thấy táo rụng. Không phải tự nhiên mà Archimède tắm trong bồn
tắm rồi phát hiện ra định luật về sức đẩy của nước. Cả tỷ người vẫn tắm
trong bồn tắm. Cho nên thấy (kiến) mà thấy một cách rõ ràng (chiếu) một
điều kỳ diệu trong lúc hành thâm Bát Nhã là chuyện không hề đơn giản
đối với Quán Tự Tại Bồ tát. Nó đã phải được nghiền ngẫm, thực hành
nghiêm túc, sâu xa, liên tục, dài lâu ... để rồi đến một thời điểm nào
đó, mới vỡ ra cái điều kỳ diệu, cái điều có thể giúp cho người ta vượt
thoát mọi khổ đau ách nạn, đó chính là “Ngũ uẩn giai Không” đó vậy.
“Ngũ uẩn giai không” là phần cốt lõi của Tâm Kinh, là trái tim của trái tim. Toàn bộ Tâm Kinh có thể gút lại bằng bốn chữ này thôi cũng đủ.
Có thể nói bộ Đại Bát Nhã Balamật trên 600 cuốn, đọc nhiều năm chưa
chắc đã lãnh hội được hết, đã được cô đọng lại còn 260 chữ là Tâm Kinh,
rồi người chép đầu tiên có thể đã dẫn nhập đôi câu, người dịch nêu bật
lên vài ý, người dịch Anh, Pháp, Đức, Nhật, Việt ... đều dịch sao cho dễ
hiểu nên cũng thêm bớt vẽ vời đôi chút nhưng dù cách nào, kiểu nào, cái
ý chính cốt lõi cũng nằm ở bốn chữ đó: “Ngũ uẩn giai Không”. Bởi vì
vượt qua được cửa ải này thì sẽ đi vào được Tâm Kinh. Cửa ải này cũng
“gạt gẫm”, “đánh bẫy” ta nhiều thứ, ngay cả từ ngữ, nhất là trong tiếng
Việt, chữ “Không” rất dễ hiểu lầm, trong khi tiếng Hán có nhiều nghĩa
với nhiều cách viết tiếng “không”: phi, bất, vô, không; tiếng Anh còn có
prefix “a”, non, not, no, empty (emptyness), transparence... Tiếng Pháp
cũng vậy. Tiếng Việt thì chỉ có một chữ “không”, viết giống nhau cho
nhiều nghĩa: không có, không phải, không được, không là, và không theo
nghĩa trống không, trống rỗng! Nhưng “rỗng” mà lại “đầy” không mà lại
có, có mà lại không như trong “Ngũ uẩn giai không” thì rõ ràng rất khó
diễn tả mà lại rất dễ gây hiểu lầm, hiểu sai dẫn đến “hành” sai.
Có thể nói Tâm Kinh có thể rút gọn còn bốn chữ “ngũ uẩn giai không”
và còn có thể rút gọn thêm lần nữa, còn duy nhất một chữ KHÔNG
cũng đủ. Điều quan trọng là phải làm rõ nghĩa ngay vì nếu không (lại
không!) sẽ dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”, dễ rơi vào hư vô chủ nghĩa, tung hê
mọi thứ, đi ngược lại với tinh thần Tâm Kinh là giúp con người giải
thoát, vô úy (không sợ hãi).
Chúng ta hiện nay vừa phá hủy môi trường vừa lo bảo vệ tầng ozone,
vừa cho nhân giống vô tính vừa cho phá thai và cho tìm cái chết tự chọn
... - và cứ quay cuồng như thế - vừa tìm cách bay lên các hành tinh ở
các thiên hà cách xa hằng tỷ năm ánh sáng lại vừa không hiểu chính bản
thân mình, loay hoay mãi với câu hỏi: ta là ai, tại sao có ta, ta từ đâu
đến, ta đi về đâu? Rồi đi tìm kiếm ở khắp mọi nơi với những câu trả lời
vô vọng. Tâm Kinh nói điều chi?
Trước hết hãy xem: NGŨ UẨN
UẨN là
gì? NH không dịch, để nguyên “ngũ uẩn”, chỉ nói đó là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Đoàn Trung Còn dịch ngũ uẩn là “năm uẩn”, cũng như không,
nhưng có chú thích: đó là năm món kết tập làm thân người, thân chúng
sanh đó là Sắc (Forme), Thọ (Sensation), Tưởng (Perception), Hành
(Impressions, Concepts), Thức (Conscience) (ĐTC, Sđd).
Suzuki viết “Khái niệm về uẩn (skandha) có vẻ mơ hồ và bất xác. Năm
uẩn (các tố chất, các thành tố) là sắc chất (rùpam), cảm thọ hay tri
giác, giác năng (vedanà), suy tưởng (samjnà), tập thành hay sự tác thành
(samskarà) và thức (vijnàna). Uẩn thứ nhất là thế giới vật chất hay
chất thể của mọi vật, bốn uẩn còn lại thuộc về tâm giới. Riêng về
samskàra (hành) ông nói là từ ngữ rất khúc mắc, không có từ tương đương
trong tiếng Anh, chỉ cho ta cái tạo nên hình chất, là nguyên lý tạo
hình. Còn thức (vijnàna) là ý thức hay hoạt động của tâm như thấy nghe
ngửi nếm sờ mó, nghĩ tưởng (Suzuki, Sđd).
Thích Tâm Thiện dịch uẩn là hợp thể. Bản tiếng Anh dịch là
aggreagates, bản tiếng Pháp không dịch, để nguyên tiếng Phạn: skandhas.
Từ điển Đào Duy Anh ghi: “uẩn” trong “sợi gai kết thành bó”. Tóm lại,
uẩn là cái gì đó, như các thành tố, được hợp lại, kết tập lại thành một
bó, một cục, một nhúm ... một con người!
Phật không nhìn con người như là một cái “ngã” có tự tính riêng biệt,
mà chỉ là sự tụ hợp, kết tập bởi nhiều thành tố do duyên sinh. Có kết
tập thì có tan rã. Tan rã cũng không phải là mất đi mà lại trở về làm
thành tố để tạo ra những tổ hợp khác, kết tập khác, cục khác, bó khác,
nhúm khác ... Những cục, bó, kết tập, tổ hợp kia cũng không phải tự có
mà do tương tác, tương sinh, tương khắc, phối hợp mà thành. Những “gặp
gỡ” có vẻ như không rõ do đâu có thể gọi là “duyên” đó (Người đâu gặp gỡ
làm chi! Trăm năm biết có duyên gì hay không? - Nguyễn Du), thực ra có
thể là do những trường, những lực hút đẩy lẫn nhau. Thúy Kiều phải có
cái “gène” gì đó mới “kết” với Đạm Tiên và Kim Trọng, với 15 năm đoạn
trường lưu lạc.
Trong môi trường nào đó, sinh vật đó nẩy sinh, kết tập từ những thành
tố có khi vay mượn chỗ này một chút, chỗ kia một chút, như những vi
khuẩn, như siêu vi, phải gắn vào một tế bào nào đó để sinh sôi nẩy nở.
Môi trường không thuận lợi thì vi khuẩn không phát triển được. Nấm mốc
mọc tùm lum đã triệt hạ vi khuẩn, nhờ đó mà Flemming tìm ra thuốc kháng
sinh Pénicilline. Nhưng rồi lại có hiện tượng thích nghi, đề kháng, tác
động qua lại, tổ hợp qua lại, tạo ra cái mới.
Vậy “uẩn” là những thành tố, bó lại, hợp lại mà thành cái này hay cái
kia. Đã là thành tố thì không phải là toàn thể. Con người cũng vậy,
cũng gồm những thành tố Sắc Thọ Tưởng Hành Thức kết tập lại, mà chỉ
riêng sắc, lại đã do những nguyên tử C, H, O, N ... cùng với những kim
loại hợp thành, nên con người không thể có tự ngã, có tự tánh riêng biệt
để “diệu võ dương oai”. Nỗi khổ của con người là do cái ngã của mỗi cá
nhân lớn quá. Cái gì cũng của tôi, vì tôi, cho tôi
... nên bám víu; lại luôn nghĩ rằng cái của tôi, cho tôi, vì tôi ... đó
là thường hằng, vĩnh viễn nên khi mất đi, tan biến đi thì khổ não, sầu
bi. Ngay cả những người tu hành muốn thoát ngã có thể lại nặng ngã hơn
như ôm lấy chùa của ta, cốc của ta, sau khi tưởng đã thoát khỏi nhà của
ta! Bản ngã được thiết lập từ thuở sơ sinh, rồi khám phá dần cơ thể, rồi
tích lũy dần dần tạo thành hình ảnh cái tôi “self-image”, rồi cá tính
ngày càng củng cố vững chắc. Sắm cái vai lâu ngày quá mọc ra các “tính
cách” không lay chuyển nổi, tưởng cái đó là mình, hành xử theo cái đó và
cứ thế, bám víu lẩn quẩn, đã là nguồn gốc của khổ đau vì thay đổi, mất
mát, tan rã. Chính Phật cũng trải qua nhiều cái “ngã” như vậy, cái ngã
là thái tử, là con, là chồng, là cha, là vua tương lai, là người trí
thức ... rồi bỏ hết, trốn chạy lên rừng, tu khổ hạnh, ép xác, mong
thoát khổ, sau rồi thấy vô lý, không những không thoát khổ mà còn khổ
đau hơn, triệt tiêu cả trí tuệ, mới bỏ đi nơi khác, tự mình tìm kiếm một
con đường riêng cho mình, tự tìm ra phương thuốc chữa cho mình. Có tài
liệu nói ngoài 60 tuổi, Phật mới thuyết Tâm Kinh. Hơn hai mươi năm trước
đó Phật thuyết giảng những cách “chăn” tâm để giúp định tâm từ những
nguyên tắc, phương pháp rất chặt chẽ. Đây là những bước cơ bản, cần
thiết nhưng chưa đủ. Thế nhưng vẫn có người bám chặt lấy như bám mãi cái
bè khi đã qua sông. Không chỉ chấp “ngã”, chấp “tướng”, người ta còn
chấp “pháp”, ôm lấy và ngủ quên trên đó! Vậy là không thoát nổi! Bỏ cái
này để vướng cái kia! Đã đến lúc phải ra tay “đập phá” một lần nữa, may
ra ... Cái Chân Như nó sẵn có đó, nó vậy đó, không cần can thiệp, không
cần khổ đau. Và ngài cười một mình. Thành ra cứ thấy Phật tủm tỉm cười
một mình hoài. Rõ ràng thứ “thuốc” ông tìm ra đã chữa được bệnh sợ hãi
(sợ chết, sợ khổ, sợ bệnh, sợ phân ly, sợ mất mát ...), bệnh tham lam,
sân hận, si mê ... Nếu Phật không đi tu, có lẽ ông sẽ trở thành vua,
cũng sẽ có tam cung lục viện, sanh ra vài chục hoàng tử công chúa tranh
giành địa vị, sát hại lẫn nhau. Có lẽ ông cũng lo cho binh hùng tướng
mạnh và đi ... đánh nam dẹp bắc, bành trướng thế lực, đất đai, dẫn đến
giết người, cướp của các lân bang ... Tóm lại, ông là Phật nên ông chẳng
những được giải thoát những nỗi khổ đau đó mà còn ung dung tự tại, tủm
tỉm một mình. Không chỉ vậy ông còn muốn chia sẻ giúp đỡ cho người khác.
Tại sao “Ngũ uẩn”, chỉ có năm mà không phải là sáu, bảy?
Đông phương có đặc điểm lạ, gì cũng “ngũ”, “năm” mà thôi. Hình như
con số này có một ý nghĩa tượng trưng nào đó. Ta có ngũ quan là tai,
mắt, mũi, lưỡi, da, gắn bó hỗ trợ lẫn nhau. Lại có ngũ tạng: tâm, can,
tì, phế, thận là năm cơ quan quan trọng của cơ thể, không thể tách rời
được mà gắn bó với nhau rất mật thiết. Không thể bỏ cái này mà không hại
đến cái kia. Rồi có ngũ hành. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tương sinh tương
khắc. Rồi ngũ sắc, ngũ âm, ngũ vị, ngũ quả ... và cửu ngũ !
Cửu ngũ là hào dương, đứng hàng thứ năm từ dưới lên, hào chính của
các quẻ trong Dịch. “Lên ngôi cửu ngũ” là lên ngôi vua. Dịch lý ra đời
trước Phật nhiều ngàn năm, có lẽ Phật cũng có chịu ảnh hưởng. “Ngũ” do
vậy chỉ có nghĩa là cái cao nhất, quan trọng nhất, không cần nói gì
thêm, bởi chỉ có ý nghĩa tượng trưng, không nhất thiết là “5”, đếm được,
đo được.
Điều quan trọng là ý nghĩa “nhiều thành tố hợp lại” tạo ra cái “ngã”
của ta, – không có một thành tố nào tự có, tự quyết định mà tương tác
tương hợp – do “duyên” mà sinh, hết duyên thì rã – nhưng rã không có
nghĩa là mất đi mà lại trở thành các thành tố cho một duyên khác hình
thành. Lá cây rụng xuống để tan rã thành phân lại nuôi cây, lại thêm lá
mới – và cứ thế, nó vậy, không cần can thiệp, không cần khổ đau. Các
hồng cầu già tự hủy, các thành tố giữ lại trong lá lách để sản sinh các
hồng cầu khác, thay dòng máu mới. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là cách
phân tích ở thời Phật, bao hàm hai phần chính là Thân (Sắc) và Tâm (Thọ,
Tưởng, Hành, Thức). Không phải vô lý mà đặt Sắc trước các uẩn khác.
Không có Sắc thì không có các uẩn khác. Thật là phi lý khi coi thường
Sắc uẩn, coi thường thân xác, coi nó là nhơ bẩn, xấu xa, tội lỗi. Nhiều
nhà tu dạy người ta khinh bỉ xác thân, coi xác thân như cái bị thịt, bọc
da, coi cơ thể là nhơ nhớp thối tha, dòi bọ - Thực ra, mục đích cũng là
nhằm để “triệt tiêu” cái Ngã quá bám víu vào thân xác đến nỗi như anh
chàng Narcis, say mê cái vẻ đẹp của bản thân mình – say mê, tự hào về
xác thân quá đáng thì sẽ khổ đau vì bất như ý, vì già nua, vì bệnh hoạn,
vì các vòng 1, 2, 3, vì làn da, mái tóc của riêng mình – rồi suy bì,
rồi ganh tị, rồi ghen ghét, giận hờn dẫn tới buồn phiền, đau khổ thêm:
“Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm tóc dài, chập chùng lau trắng trong tay”
(TCS).
Coi thường thân xác là một sai lầm lớn. Phật đã sai lầm như vậy,
trong một thời gian dài, lúc mới tu – khi theo con đường khổ hạnh, tự
đày đọa xác thân, khinh bỉ xác thân! Không có Sắc uẩn thì cũng không thể
có Thọ uẩn. Cảm xúc, là từ những giác quan - mắt nhìn, tai nghe – mũi
ngửi, lưỡi nếm, và da xúc chạm – Tiêu diệt sắc để tiêu diệt thọ là tự
hủy diệt. Phật chắc chắn không dạy như thế. Chắc chắn ngài tìm ra một
niềm vui trên thân thể khỏe mạnh, minh mẫn, đẹp trai của mình - mà có kẻ
cho là có 32 tướng tốt. Nhưng Phật chắc đã cười có 32 tướng tốt mà ngu
si, mê muội, cũng như không!
Chắc chắn là Phật rất chăm chút thân xác mình, chẳng những chăm chút
mà còn biết nghe ngóng từng bộ phận, từng cách hoạt động của cơ thể.
Không chỉ nghe ngóng mà còn ân cần nhỏ to với nó, ngạc nhiên vì nó, cám
ơn nó. Hình như người có nói: hãy từ bi với bản thân mình rồi mới có thể
từ bi với kẻ khác. Với bản thân mình mà cứ đòi tiêu diệt, hủy diệt thì
còn mong cứu vớt ai? Sau một thời gian tu sai lầm, khổ hạnh, ngài chợt
khám phá lại thân xác mình. Khi ngứa thì ngài gãi, và không như chúng ta
vừa gãi vừa lo tính toán chuyện làm ăn, chuyện “tiêu diệt” địch thủ,
thống nhất giang hồ, muôn năm trường trị ... thì ngài vừa gãi vừa chăm
chú nghe cái sự đã ngứa của mình, vừa hít thở vừa tủm tỉm cười: cũng
chẳng khoái ru? Cũng vậy, khi đói. Ngài sẽ nghe cái đói, ân cần với nó
và sẽ ăn, có gì ăn nấy, không đòi cao lương mỹ vị – có điều khi ăn chậm
rãi, nhai nghiền kỹ lưỡng từng miếng một và nhờ đó, các thức ăn – dù là
thức gì – cũng rã tan ra thành glucid, protid, lipid, muối khoáng, và
vitamin, rồi hấp thu, rồi thải bã. Ở đây cũng lại thấy các uẩn. Các nhóm
thức ăn cũng là các Uẩn, cũng có thể gọi là ngũ “uẩn”: glucid, protid,
lipid, muối khoáng, vitamin, kết tập lại, dưới dạng thịt, cá, trứng,
sữa, đậu, mì, rau củ ... rồi rã tan ra, trong hệ tiêu hóa để cung cấp
cho cơ thể những chất cần thiết và năng lượng cho sự sống. Đạm động vật
cũng như đạm thực vật. Béo động vật cũng như béo thực vật. Có điều, đạm
và béo thực vật tốt cho sức khỏe hơn, không làm tăng cholesterol, không
gây bệnh xơ vữa động mạch, cao huyết áp, bệnh tim ... Phật biết chọn
thức ăn tốt cho cơ thể mình, làm cho cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, tâm
hồn lại nhẹ nhàng thanh thản vì không phải đi ... săn thú, không phải
nhậu nhẹt, trác táng, để sau một đêm vui là những ngày khổ đau. Nhờ ăn
vừa phải, ăn nhiều thực vật, đi bộ, thở bụng nên chắc không bị tiểu
đường, bị bón, bị trĩ, bị gút ... như phần đông chúng ta ngày nay.
Dĩ nhiên là Phật cũng tiêu hóa thức ăn cũng thải chất bã. Nhưng khi
đi vệ sinh chắc ngài không vừa đọc báo vừa theo dõi tình hình thế giới
qua tivi hay radio, vừa trả lời điện thoại, - vừa suy tính hoàn thành kế
hoạch, vượt mức chỉ tiêu - mà ngài vừa hít thở, vừa theo dõi cơn đau
bụng, cách vận hành của ruột già, cách mở cơ vòng và ngài mỉm cười thoải
mái.
Chăm chút Sắc uẩn của mình thì trước hết phải chăm sóc chuyện thở!
Sáu giờ ta mới phải ăn một lần nhưng mỗi phút thì phải thở mười lần,
hai mươi lần, dù muốn hay không. Bài học đầu tiên ngài dạy chính là
“Quán niệm hơi thở”, chìa khóa của mọi chìa khóa. Đâu có như ta bây giờ
biết vậy mà cứ bị cuốn hút đến ... quên cả thở! Dĩ nhiên là ngài không
quên vận động, tập thể dục với các tư thế giúp làm giãn cơ của Yoga.
Ngài biết lắng nghe các khớp xương cử động. Ngài khen ngợi nó, vui với
nó khi nó kêu rắc rắc, rốp rốp, vỗ về nó khi nó đau. Thỉnh thoảng mà có
bị đau lưng, cảm gió, ngài lại thưởng thức nồi lá xông, thưởng thức tô
cháo hành, giải cảm. Ngài cũng ngủ. Ngủ dễ hơn chúng ta. Ngủ say hơn
chúng ta vì không có gì để lo nghĩ. Không sợ kẻ trộm vào ăn cắp vì không
có gì để mất. Cũng ít bị chiêm bao. Ngài nằm nghiêng bên phải khi ngủ
để gan không đè lên dạ dày, để dạ dày dễ làm việc. Tóm lại, đối với cái
sắc uẩn, tức xác thân, Phật luôn quan tâm, chăm sóc, ân cần với thân xác
mình, ngài luôn luôn “chánh niệm” trong từng hoạt động của xác thân.
Đây cũng chính là bí quyết. Nhờ phương pháp chánh niệm này mà ngài
không bị chia trí, không khổ đau vì những buồn phiền, ân hận của ngày
hôm qua, không ưu tư lo lắng cho ngày mai. Ngài luôn sống trong hiện
tại. Sống trong hiện tại là sống không có thời gian, một đặc tính của
Thiên đàng hay Niết bàn vậy!
Điều quan trọng hơn có lẽ là dù ân cần, thương yêu, quý trọng thân
xác nhưng ngài biết nó chỉ là một uẩn (sắc uẩn). Nó do vô số duyên hợp
lại mà thành và rồi nó sẽ tan biến đi khi hết duyên, khi duyên dứt. Nó
tự không mà đến và sẽ trở lại không. Nó vẫn có mà là không, vẫn không mà
là có. Khi hiểu thân xác mình, hiểu được cái tạm bợ của thân xác, các
uẩn thay đổi, biến dịch, già, bệnh, chết ... Ngài hiểu đó là chuyện hiển
nhiên, đương nhiên, là chuyện bình thường, cho tất cả mọi loài, mọi
người. Cớ sao lại khổ đau?
Hiểu và thương thân xác mình thì biết ơn nó, tôn trọng nó, giữ cho nó
xanh tươi dài lâu bằng cách tưới tẩm những niềm vui, ăn những thức ăn
lành, sạch. Hiểu và thương thân xác mình thì cũng hiểu và thương thân
xác người. Hiểu cái sự đến và cái sự đi, cái duyên khởi và cái duyên
tận, cái thiếu hụt khiếm khuyết (tàn tật), cái bệnh hoạn ốm đau, thấy
mọi người cũng là ta và ta cũng là mọi người. Hiểu và thương thân xác vì
nó được cấu tạo từ tứ đại, lấy từ đâu đó, từ cha mẹ, từ ông bà, từ ngàn
năm, nhiều triệu năm trước, tổ hợp trong các gène và truyền đi. Khi đọc
các lời giảng giải kinh sách, có lẽ ta phải hiểu cụm từ “thoát vòng
sinh tử” không có nghĩa là tu thành chánh quả thì không chết nữa, không
già nữa, không bệnh nữa, mà chỉ có nghĩa là sáng suốt ra, ý thức được
cái duyên sinh, cái biến dịch, cái đổi thay, tức vô thường, vô ngã. Hiểu
như vậy rồi thì vui với nó, thản nhiên với nó không chạy trốn. Không
nguyền rủa, không sợ hãi, nghĩa là “thoát”, là vượt qua!
Có Sắc uẩn mới có Thọ uẩn. Có Thọ uẩn mới có “Tưởng uẩn”.
Tưởng có từ cảm xúc, nhận thức của giác quan, tác động lên tâm. Một lần
thấy con rắn, biết rắn độc, lần khác thấy sợi dây có dáng giống rắn thì
tức khắc cơ thể phản ứng tự vệ: xanh mặt (co thắt mạch máu ngoại biên),
toát mồ hôi lạnh, cortisol và adrénaline tiết ra, làm tim đập loạn xạ,
huyết áp tăng cao, khô miệng, co cứng cơ ... vụt chạy hoặc nặng quá thì
ngất, té cả phân, nước tiểu trong quần do tác động co thắt cơ trơn.
“Tưởng” dẫn đến tưởng tượng, vẽ vời, tạo ra thành kiến, tạo ra nghi kỵ,
ghen tuông. Những nỗi sợ hãi, lo âu, giận dữ thường là do “tưởng uẩn”.
Nếu ta chịu khó chép ra trên giấy những nỗi giận dữ, lo âu, sợ hãi của
mình, đợi một thời gian xem lại sẽ thấy hoàn toàn ngớ ngẩn, tức cười!
Vậy mà lúc đó năng lượng ùa tới khiến ta có thể phóng chạy rất nhanh
hoặc đập nát một cái gì đó không hay biết, không ngờ mình mạnh đến vậy,
khỏe đến vậy. Tưởng uẩn còn ở giai đoạn “thái độ”, chưa chuyển sang hành
động, nhưng đây đã là yếu tố rất quan trọng, nó “dẫn dắt” cho hành
động, tô điểm và xuyên tạc, hư cấu và đẩy tưởng tượng đến mức không
lường được. Con người có khả năng này (tưởng) rất mạnh: chưa có cơ sở
khoa học gì mà Jules Vernes chỉ tưởng tượng thôi cũng đã viết được những
chuyện giả tưởng 20 ngàn dặm dưới đáy biển, thám hiểm cung trăng ...
Leonardo da Vinci nghĩ ra máy bay và cách nhảy dù nhiều trăm năm trước
khi có những chiếc máy bay đầu tiên. Truyện Phong Thần chỉ là tưởng
tượng mà ngày nay khoa học dần dần thực hiện được hết. Thiên lý nhãn,
thuận phong nhĩ, đằng vân giá võ ... Tóm lại “tưởng uẩn” rất tốt, miễn
là đừng thiên kiến, đừng thổi phồng để từ đó sinh ra khổ đau khi không
được như ý.
Người nghệ sĩ, nhạy cảm với mọi “pháp” sẽ là người khó khăn với cái
tưởng uẩn này! Người trí thức cũng vậy. Thu thập tri thức, biện biệt, so
sánh, tưởng tượng! Chính vì thế các Thiền sư không ưa trí thức. “Cãi
chày cãi cối” thì giỏi mà “hành” thì dở. Nhưng khi họ vượt thoát được
cái bản ngã nặng nề của họ thì họ cũng có thể “ngộ” mau chóng hơn.
Hành uẩn có
lẽ là cái uẩn khó hiểu nhất. Mỗi nhà nghiên cứu giải thích mỗi khác.
Bản tiếng Anh có khi dịch đơn giản “hành” là hành động Actions(!) bản
Pháp dịch hành là formation. Đoàn Trung Còn dịch là impression. Thích
Thịên Siêu phân tích hành uẩn cho rằng vừa có tính trôi chảy, vô thường,
biến dịch (thiên lưu) vừa có tính tạo tác, nghĩa là nói, làm, suy nghĩ
(khẩu, thân, ý) đã bắt đầu không dừng lại ở tưởng nữa mà chuyển sang ý
chí, quyết định, hành động (Ngũ uẩn vô ngã, Nxb Tôn giáo, 1999). Từ
“Tưởng” qua “Tư” (ý chí), tức là đã bắt đầu xuất hiện hành vi rồi!
“Hành” tạo ra sự tốt, sự xấu. Còn ý tưởng mới chỉ là nghĩ suy, nhưng
như đã nói, ý tưởng rất quan trọng, cần “kiểm soát” chặt chẽ trước hết.
Vì “hành” mà “vô tâm” thì không tạo “nghiệp”! Hành mà có “tư tâm” thì
tạo nghiệp! Một đứa trẻ mới học được câu chửi thề tình cờ buộc miệng
chửi ta thì ta sẽ không giận mà thấy tức cười, thấy ngộ
nghĩnh, dễ thương! Một người điên chửi ta ta cũng cười, không giận,
nhưng một người nào khác đụng tới ta thì phải biết tay!
Hành uẩn có cả Tâm lẫn Sắc, nó là giai đoạn chuyển biến phức tạp từ ý tưởng qua hành vi. Từ nghĩ sang làm.
Nghĩ là quan trọng. Không đợi làm. Mới có suy nghĩ mà chưa biến thành
hành vi thì chưa chịu trách nhiệm về phía xã hội, nhưng với bản thân ta,
suy nghĩ xấu đã tạo ra khổ ải, trách nhiệm dài lâu, có hại rồi, suy
nghĩ tốt đã có ngay an lạc hạnh phúc rồi!
Có lẽ phần quan trọng nhất là Thức uẩn,
nên được đặt sau cùng. Vả lại cũng theo một logic: có Sắc mới có Thọ,
có Thọ mới có Tưởng, có Tưởng mới có Hành và có Hành mới có Thức. Nói
tóm lại, có Thân mới có Tâm. Gắn liền nhau, không tách rời. Cái tệ hại
lớn nhất của người trí thức là coi trọng cái trí, coi trọng cái thức hơn
cái “tâm”. Kẻ đồ tể chỉ cần buông dao ... là thành Phật. Người trí thức
còn lâu! Tâm bản nhiên vẫn có đó, còn đó như của em bé sơ sanh nhưng đã
bị che mờ đi qua thời gian. Kẻ “ngu phu” ít bị che mờ, chỉ cần chùi lau
một lớp bụi thì đủ trở lại với tâm bản nhiên. Còn người càng “trí thức”
càng bị lớp lớp dày đặc của bụi bám, không chỉ bụi, bùn đất mà còn dầu,
còn sơn ... các loại. Chùi rất khó sạch, rất lâu sạch. Lại còn cái yếu
đuối của Sắc, cái nhạy cảm của Thọ, cái phong phú của Tưởng, cái lẩn
thẩn của Hành thì càng khó mà tìm tới tâm bản nhiên. Nói khác đi, cái
Ngã của người trí thức là một cái ngã quá nặng, quá dày, quá nhiều lớp
lang. Tuy vậy, một khi trải qua thử thách họ sẽ thoát “mau” hơn, vì
không còn cái kiến thức khô cứng nữa mà đã là tuệ giác. Phật cũng là một
trí thức. Một thái tử. Một người Bà la môn.
Trong ngũ uẩn, Thức là kẻ chủ mưu, là bộ phận chỉ huy, là kẻ phân tích và tổng hợp, đánh giá, đưa ra quyết định cho hành động.
Kẻ chủ mưu, kẻ chỉ đạo này lại bị hành xử bởi những kinh nghiệm, thói
quen, khởi động ra bên ngoài (ý thức), liền bị chụp cho cái mặt nạ là
cái Ngã, cái Ta phải như vầy, như khác, mà thật ra không phải là cái Ta
thật, ta chân như. Vì vậy mà ta sống, ta hành xử như sắm một vai kịch mà
không tự biết. Nếu có “chánh niệm” ta sẽ cười chính ta như một người
xem tuồng, xem phim do mình đóng. Ở Châu Âu có những vũ hội hóa trang, ở
đó người ta chụp cái mặt nạ khác, ăn mặc khác để không ai nhận ra mình,
nhờ đó mà tạm thoát cái Ta cũ kỹ để trở lại cái ta hồn nhiên, cũng là
một cách “giải thoát”. Có hai vợ chồng sống chung nhiều năm không hạnh
phúc, cắn đắng nhau hoài, tính chuyện ly dị. Khi vào dự vũ hội hóa trang
họ tìm được người tâm đầu ý hợp, quyết định tiến tới hôn nhân, lúc bỏ
mặt nạ ra thì hóa ra là ... hai vợ chồng cũ. Thì ra ... Sắc (thân xác)
quan trọng nhưng là kẻ “hữu dũng vô mưu”, bị sai khiến bởi thức. Thức
xấu: tham, sân, si, làm khổ thân. Thức tốt: từ bi hỷ xả làm sướng thân.
Thay đổi một hành vi rất khó vì đã thành thói quen, rất khó bỏ, phải
thay đổi thái độ trước - có cái nhìn mới, khác – và phải có kiến thức
đúng đắn góp phần giúp đỡ, thêm môi trường chung quanh hỗ trợ mới có thể
thành công.
Người mới tu phải lên núi, “thoát trần”, trốn các kích thích đập vào
tai, mắt, mũi, lưỡi ... là vậy. Tu vững vàng rồi có thể “thõng tay vào
chợ”. Ăn chay cũng thành Phật, mà ăn mặn cũng thành Phật. Nhưng ăn mặn
khó thành hơn vì dễ bệnh, dễ dẫn đến nhậu nhẹt, bia ôm, massage ...
Nhưng tu mà ngon lành rồi thì không còn sợ, như Phật cũng đã từng “bị
dụ” nhiều phen mà vẫn không nao núng, sa ngã.
Tóm lại, “Ngũ uẩn” là 5 thành tố tạo ra cái Ta, Thân ta, cảm xúc ta, suy nghĩ ta, hành động ta, ý thức ta.
Cái Ta đậm nét theo thời gian làm thành cái kén nhốt cái Ta thực vào
trong đó, không thoát ra nổi. Thoát được đã thành bướm, bay lượn thảnh
thơi, an nhiên, tự tại. Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lắp chặt, dần
dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho “xứng với ta”, với vai
ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc
của khổ đau. Cái gì có “ta” trong đó thì tạo ra khổ đau. Nhà ta, của ta,
con ta, người yêu ta và thân ta ... Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát nhã
Tâm Kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương
tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quít
chằng chịt lẫn nhau – như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim,
bánh xe, con lắc ... và sinh ra tiếng “tích tắc”. “Tích tắc” vốn không
có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. Gỡ bỏ các
thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa!
Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng
mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. “Chân không”
cũng chính là “diệu hữu”. Dừng lại ở “không” đơn thuần, như một xóa bỏ,
từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.
Sắc uẩn tuy chỉ là cát bụi nhưng là một “cát bụi tuyệt vời” thân xác
tuyệt vời, từ mái tóc, làn da, mùi hương, ánh mắt, nụ cười, nhưng bám
sắc rõ ràng là một sai lầm mang đến khổ đau. Nó vô thường, nó thay đổi.
Nó phai màu, nó nhăn nhúm. Phai màu, nhăn nhúm mà là đẹp, vẫn cứ đẹp. Nó
có lão, có tử nhưng vẫn đẹp. Không có buồn vui, sướng khổ ở đây. Nó
vậy. Nó là. Còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo thành Tâm, phức tạp, ly kỳ,
nhưng không có Thân thì không có Tâm. Tâm an thì Thân an. Tâm tự rước
khổ đau thì làm cho Thân khổ đau. Thức, là chủ tể của Tâm. Thức đúng thì
Tưởng đúng, Tưởng đúng thì Hành đúng, Thọ đúng.
Tinh thần Bát Nhã giúp cho Thức trở thành đúng, thấy đúng, hiểu đúng,
biết đúng. Hành thâm Bát nhã là sự rèn luyện kết hợp giữa thân và tâm.
Huệ Năng, Tổ thứ VI, cho rằng tụng niệm Bát Nhã mà không hiểu gì về Bát
Nhã, không “sống” Bát Nhã cũng vô ích. Sống Bát nhã là sống với tuệ
giác, sống với thức “bất nhị”, vượt qua mọi chấp trước, không còn bị cản
ngại, cái thấy trở nên trong sáng hồn nhiên thì đạt sự yên bình, chớ
không phải là sự u mê, hư vô chủ nghĩa, xóa bỏ, triệt tiêu. Phàm phu
cũng là Phật sẽ thành. Khi còn mê là phàm phu, tỉnh thức là Phật. Dĩ
nhiên, có lúc là phàm phu, lúc là Phật, trong cùng một người, trong cùng
một thời điểm. Vì thế mà phải cần sửa, cần rèn, cần luyện để cái tỉnh
thức ngày càng nhiều lên để cuộc sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn và để không
còn khổ đau. Niết bàn có ngay ở đây và bây giờ.
Tâm Kinh chỉ gồm 260 chữ, mỗi chữ đều là một nhát búa khắc trên vách
núi đá cao. “Ngũ uẩn giai không” là cốt lõi của Tâm Kinh, trái tim của
trái tim và trong bốn chữ đó thì chữ KHÔNG lại là cốt lõi của cốt lõi.
Có thể nói toàn bộ Tâm Kinh gút lại trong một chữ KHÔNG (
, sunyata) đó. Tất cả các phương pháp tu tập cũng đều có mục đích
đạt đến cái Không đó. Tới được cái “chân không” là để thấy
cái “diệu hữu”, để đạt giác ngộ, giải thoát, “thoát vòng sinh tử”, “cứu
cánh niết bàn”, hoặc có thể dùng bất cứ một từ gì để ca ngợi như “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”, “A nậu Đala Tam miệu Tam Bồ đề”, “Supreme
Enlightenment”, “La plus haute et parfaite illumination” ... Tóm lại là
có thể “tán thán” đủ kiểu, đủ từ để ngợi ca cái thành tựu tu tập đạt
đến chữ Không này! Các chùa chiền còn được gọi là “Không môn” là vậy.
Osho cũng nói vậy: Không là mấu chốt của Phật giáo. Tiếng Anh không
có từ tương đương. Không là cái trống rỗng, nhưng không phải là cái
trống rỗng tiêu cực mà tích cực. Nó tựa như bầu trời trống rỗng, không
gian thuần khiết, nhưng nó có đó, mọi thứ tới trong nó và đi. Nó ở lại.
Bầu trời vô ngã. Con người tạo Ngã, sinh ra bản ngã. Bám víu lấy ngã
và phát triển ngã ngày càng mạnh mẽ, to lớn hơn và do vậy bị bao vây
càng chặt hơn, không thoát ra được.
Thế nhưng cũng không cần gắng sức loại bỏ bản ngã. Trái lại, cũng cần
phải trải qua nhiều bản ngã để đạt tới cái không, cái vô
ngã. “Câu chuyện của dòng sông” của Herman Hesse là một thí dụ: Một bản
ngã trí thức Bàlamôn, một bản ngã sa môn khổ hạnh biết nhịn đói và đợi
chờ, một bản ngã nhà buôn, người tình, người cha ... và người đưa đò bên
dòng sông biết nghe tiếng nói của dòng sông. Con đò “Bát nhã” đó đã đưa
bao nhiêu người “đáo bỉ ngạn”?. Còn kẻ chèo đò kia lòng có xốn xang một
hôm gặp lại người xưa cũng đang đi tìm đường giải thoát? Đứa con rồi
cũng phải đi lại cho trọn con đường của nó. Nó phải vậy.
That is it. C’est Çà.
Phật không dạy phải loại bỏ bản ngã. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng
Phật bi quan, yếm thế, chủ trương diệt ngã. Vấn đề là thấy được vô ngã.
Thấy chân không. Nhìn cho kỹ vào ngã, sẽ không thấy ngã, nó tự biến mất,
bởi vì nó vẫn có đó mà vốn là không. Không mà Có, Có đẹp hơn. Sự mê
muội của bản ngã như thấy sợi dây mà tưởng là con rắn, sợ điếng hồn, lúc
biết rõ thì cười ra nước mắt. Bát nhã Tâm Kinh không vòng vo mà như
nhát búa vừa phá vỡ vừa khẳng định đó vậy.