NGHĨ TỪ TRÁI TIM
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
MỘT CHÚT LỊCH SỬ
Tâm Kinh - gọi tắt của Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
(Prajnaparamità Hrdaya Sùtra) do Phật thuyết giảng lúc đã ngoài 60 tuổi
(Osho, The Heart Sùtra) cho Suriputra (Xá lợi tử) mà theo Osho, cũng
như nhiều nhà nghiên cứu khác vốn là một nhân vật nổi tiếng, có đến 5000
đệ tử, đến gặp Phật mục đích là để tranh luận. Phật đề nghị ông chờ cho
một năm. Đúng ngày hẹn, Phật mời đến để tranh luận thì ông đã quỳ xuống
xin được thu nhận làm đệ tử. Sariputra đã tới độ “muồi” cần thiết, và
Phật đã giảng Tâm Kinh cho ông. Điều Osho nói có thể là một huyền thoại,
nhưng điều chắc chắn là bản dịch Hán văn đầu tiên là của Huyền Trang
(Trần Vĩ, thường được biết với tên Đường Tam Tạng) gồm 260 chữ, xuất
hiện vào năm 649 đời nhà Đường (Suzuki, Tâm Kinh Bát Nhã trong Thiền
tông, Thiền Luận, quyển hạ, Tuệ Sỹ dịch ,NXB tp. HCM 1998). Bản lá bối
cổ còn lưu tại Nhật (thủ bản) ở chùa Hôryoji (Pháp Long tự), Yamato, mẫu
tự Sanskrit, tương truyền do Bồ Đề Đạt Ma mang vào Trung Hoa, rồi sau
đó đến Nhật. Hiện có rất nhiều bản dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Việt... và có thể coi Tâm Kinh là phần tinh yếu nhất, cốt lõi nhất của
Bộ Đại Bát Nhã gồm 600 quyển với hằng trăm ngàn bài tụng và các kinh
khác trong hệ Bát Nhã, Tâm Kinh chỉ vỏn vẹn với 260 chữ mà các nhà
nghiên cứu cho là đang làm “rúng động” cả Đông lẫn Tây phương mà có
người như thiền sư NH bảo đã hành trì trên 40 năm, ngày càng thấy những
vi diệu thâm hậu của nó..
Bản dịch của Huyền Trang có thêm 5 chữ “độ nhất thiết khổ ách” (giúp
giải thoát tất cả mọi khổ đau, ách nạn) vào ngay trong câu đầu của Tâm
Kinh, câu như một định đề, nhằm nói lên “diệu dụng” của Tâm Kinh., như
một xác quyết của Huyền Trang, người đã vượt bao gian nguy hiểm trở
trong chuyến đi thỉnh kinh – dài 17 năm trời- với một nghị lực phi
thường – (Nguyễn Hiến Lê, Ý chí sắt đá) là nhờ ở tinh thần “vô úy” của
Tâm Kinh. Suzuki nói bản Tạng ngữ có thêm câu mở đầu (cả Phạn ngữ cũng
vậy) như sau:
“Một thời, đức Thế tôn ngự tại thành Ràjagriha trên đỉnh Linh
khứu, cùng với chúng tì khưu và Bồ tát. Bấy giờ Thế tôn nhập vào tam
muội chánh giác thậm thâm. Lúc đó Đại Bồ tát Quán Tự tại
(Avalokitéshvara) đang thực hành Bát Nhã Ba-la-mật sâu xa”.
“Này Xá lợi tử, như thế Bồ tát phải tự mình thực hành trong Bát
Nhã Ba-la-mật sâu xa”. Bấy giờ Thế Tôn rời khỏi Tam muội và tán dương
Quán Tự tại Bồ Tát: “Hay thay, hay thay, thiện nam tử ! Quả vậy, phải
nên tiếp tục thực hành Bát Nhã Ba-la-mật sâu xa” (Suzuki, sđd).
Chúng ta để ý những từ “thực hành”, “phải tự mình thực hành”, “phải
nên tiếp tục thực hành” v.v...được lặp đi lặp lại nhiều lần, tưởng như
“lẩm cẩm” nhưng thực ra là để thấy rằng không thể chỉ đọc, chỉ hiểu Tâm
Kinh mà không được thực hành tới nơi tới chốn, không sống “tâm kinh” tới
nơi tới chốn. Tâm Kinh ở đây chính là một loại “chân kinh” cần phải
được rèn luyện, thực tập, thực hành, thực chứng... chớ không lý thuyết
suông, không để học hỏi, tụng niệm thuộc lòng...
Nhiều tài liệu nghiên cứu Tâm Kinh chưa nhấn mạnh đủ ý này, chỉ dừng
lại ở ý nghĩa và nặng về tranh luận ngữ nghĩa, trên bình diện triết
học, triết lý... Dĩ nhiên ý nghĩa, ngữ nghĩa từng câu từng chữ trong văn
bản cũng rất quan trọng, do vậy mà Tâm Kinh đòi hỏi vừa được hiểu thấu
đáo mà cũng vừa được hành nghiêm chỉnh.
Chắc chắn không phải vô cớ một bản kinh cô đọng chỉ với 260 chữ như
Tâm Kinh được truyền tụng hơn hai ngàn năm và được cả thế giới học Phật
cũng như trí thức Đông và Tây phương ngưỡng mộ không mang một ý nghĩa và
một hiệu quả nào đó cho cuộc sống.
Tôi nghĩ điều quan trọng không chỉ nằm trong ngữ nghĩa – mặc dù nội
dung “vi diệu” chắc phải có – nhưng ngay trong câu “linh ngữ” (thần chú)
kết thúc Tâm Kinh chắc cũng phải có một ý nghĩa thực tiễn nào đó trong
đời sống, dù lúc đầu tôi rất dị ứng với kiểu tán dương quá lố nào đại thần, đại minh, vô thượng, vô đẳng đẳng gì gì đó thật là đáng ngại!
Tôi nhớ lại hồi mới lên mười, trọ trong chùa, đêm đêm cũng nghe cô
tôi tụng “Yết đế, yết đế, bala yết đế, bala tăng yết đế, bồ đề, tát bà
ha!” tôi chỉ thấy êm tai, ngủ ngon lành mà thôi.
Rõ ràng, điều quan trọng là phải hành. Phải tự mình thực hành, tự chứng nghiệm. Và còn phải thực hành sâu xa, liên tục.
Nhưng bằng cách nào?
Câu trả lời là Thiền.
Nhưng thiền có lẽ cũng mới chỉ là bước đầu để với tới Tâm Kinh và khi
đã qua giai đoạn một này thì Tâm Kinh là một môi trường mà ta phải cố
gắng “liên tục” sống trong nó. Hành, bấy giờ là thiền quán và sống “tâm
kinh”, sống với cái nhìn mới, cái nhìn trí tuệ Bát Nhã. Thiền là điều
kiện cần nhưng chưa đủ. Bởi vì còn cần có Từ bi.
Thiền là để cho mình lắng đọng lại. Không bị lôi cuốn vào trăm ngàn
thứ chuyện lăng xăng, vọng động, không để cho cái tâm nhảy nhót như khỉ
như ngựa (tâm viên ý mã) làm cho ta mất rất nhiều năng lượng, vất vả,
lao đao. Coi bộ không dễ. Nên phải liên tục, tiếp tục cầm cương hoài
hoài. Tôi ngờ các vị Bồ Tát cũng không dám sơ hở, không dám bỏ bê. Rồi
trong Thiền mới có quán, kể cả quán sự “tự tại, an nhiên”. Dùng hơi thở
để điều hòa, tức dùng thân để chăn tâm như hình ảnh tượng trưng của một
vùng nông nghiệp: chăn trâu. Gặp trâu điên thì cũng mệt, nhưng còn đỡ
hơn bây giờ! Thời hiện đại có lẽ còn khó hơn ngày xưa nhiều vì thế giới
bị xáo động, bị toàn cầu hóa với đủ thứ truyền thông, “internet” bát
nháo, con người bị hút vào đủ thứ chuyện trên đời. Con người bây giờ
không chỉ phải chăn trâu mà còn có thể phải ... chăn nhiều con khác! Con
người bây giờ khổ hơn, thần kinh hơn, tâm thần hơn, tự tử nhiều hơn và
vô số cạm bẫy làm cho tham sân si nẩy sinh, khó mà sống tĩnh lặng, thế
nhưng chính trong cõi bát nháo đó có thể lại là điều kiện để “ngộ” nhanh
hơn chăng?
Thay đổi thái độ (cái tâm) thật không dễ. Thay đổi hiểu biết
(kiến thức) dễ hơn. Kiến thức tích lũy đầy ắp càng làm khó thay đổi
thái độ. Mất cái dao, nhìn ai cũng nghĩ sao nó giống kẻ ăn cắp dao. Nghi
thì vẽ vời tưởng tượng đủ thứ. Giận thì phừng phừng lửa đốt. Tìm đủ mọi
lý lẽ để chứng minh mình đúng, người sai. Sợ thì tay chân bủn rủn, rụng
rời ... Cũng tại tâm ta thôi. Từ cái coi trọng tri thức chuyển qua tâm
thức, con đường không giản đơn cho con người hôm nay. Cho nên mới có
chuyện kể thiền sư tiếp một giáo sư mà cứ rót tràn ly nước trà mời khách
để nói rằng kiến thức của ngài nhiều quá như ly nước đầy không chứa
thêm gì được !
Một ông bộ trưởng đi công cán về miền quê, đêm chó sủa quá không ngủ
được, trằn trọc bứt rứt mãi. Người chủ nhà nói: Chó nó không biết ngài
là bộ trưởng đâu. Nó chỉ sủa vì thấy có người lạ. Ngài cứ coi như nó hát
để ru mình. Thế là bộ trưởng ngủ thẳng đến sáng! Chỉ cần thay đổi cái
nhìn!
Tâm Kinh làm đảo lộn tất cả mọi suy nghĩ, quyết liệt phủ định, quét
sạch mọi thành kiến kể cả thành kiến về Phật, về Bồ tát, về Tứ diệu đế,
về Thập nhị nhân duyên... (Suzuki, Sđđ) Phủ định hết. Còn gì? Còn cái
Tâm cá nhân ta. Tâm đó cũng cần được quét sạch, lau sạch, gỡ sạch. Tấm
gương phản chiếu chân thật trở lại với sự hồn nhiên, trong sáng, lành
mạnh, an vui. Nhìn đời với một thái độ mới, với tình thương mới. Không
phải xuất hiện một cái Tâm mới. Tâm vẫn có sẵn đó, không phải sinh thêm,
không phải tạo ra. Chỉ cần gỡ bỏ đi những cái vướng mắc ràng buộc, che
đậy cái Tâm vốn luôn sáng trong kia. Trăng vẫn vằng vặc trên hồ, chỉ cần
sóng không dao động. Thế nhưng phải có cái nhìn mới với chính bản thân
mình trước hết, vì trước hết phải “từ bi” với mình cái đã. Phải cám ơn
thân xác, phải biết quý trọng nó. Sống vui từng phút giây hiện tại. Với
cái nhìn mới, hoa đẹp hơn, nắng tươi hơn, mưa mát hơn ... Tình yêu tuyệt
vời hơn. Bữa ăn ngon hơn. Giấc ngủ yên hơn. Vì không còn ganh đua,
không còn chen chúc, không còn tham lam, sân hận, thù địch ... thì mọi
sự nhẹ nhàng ra, thanh thản ra, thảnh thơi ra. Ngay cả nỗi sợ lớn nhất
của kiếp người là sợ chết – bên cạnh vô số những cái sợ khác như sợ
nghèo, sợ xấu xí, sợ ... thì với thái độ coi thân xác là ân huệ nhưng vô
thường, chỉ do duyên sinh, tương tác mà có thì cũng bớt đi nỗi sợ hãi
sinh diệt. Người thầy thuốc nhìn con người một cách toàn diện, coi lục
phủ ngũ tạng là tương sinh tương khắc thì điều trị không rời cái thân
với cái tâm. Ngày càng nhiều ma túy, nhiều an thần, nhiều thuốc giải lo,
nhiều thuốc ngủ ... bởi con người quá bất an thì Tâm Kinh có thể cũng
là một thứ thuốc thần diệu chăng? Vấn đề là phải “thực hành” như thế
nào, sống như thế nào, vì rất dễ lãng quên ...