NGHĨ TỪ TRÁI TIM
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
DẪN NHẬP
Tôi không còn nhớ ai là người đã mang tặng tôi cuốn “Trái tim hiểu
biết” của Nhất Hạnh (NH), hình như không phải tặng mà cho mượn đọc lúc
tôi đang nằm dưỡng bệnh ở bệnh viện An Bình, cuối năm 1997 sau khi mổ sọ
não ở BV. 115 vì tai biến mạch máu não. Bản tôi đọc lúc đó là bản
photocopy. Sau này, không rõ do “duyên” gì tôi tìm thấy bản chính ở một
tịnh xá nhỏ, đối diện nơi tôi làm việc. Bản của NH in sai nhiều, trình
bày không rõ, càng gây khó hiểu nên tôi phải tìm kiếm thêm những bản
khác để so sánh, đối chiếu, nhờ đó tìm ra bản tiếng Phạn, tiếng Hán,
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt, bản dịch, bản photo, bản chính... Có
cuốn mỏng chừng vài chục trang, có cuốn trên 300 trang về Bát nhã
Balamậtđa Tâm Kinh mà NH gọi là “Trái tim hiểu biết”. Tôi thích cách
viết đơn giản của ông. Nó đời hơn. Gần chúng ta hơn. Hoặc chỉ cần viết
Tâm Kinh (Heart Sutra) như Osho cũng đủ. Tôi muốn so sánh, đối chiếu cho
rõ nghĩa một số từ, với tôi, người không biết tiếng Phạn, tiếng Hán thì
lem nhem, tiếng Anh, Pháp thì ở các bản dịch không toát được hết ý, còn
tiếng Việt thì dễ gây hiểu lầm, ngay với chữ “Không” là chữ cốt lõi của
Tâm Kinh. Tôi không biết có cái gì đó hút tôi vào với việc tìm hiểu Tâm
Kinh, lực hút mạnh đến nỗi tôi gần như say mê... Tôi thấy nó phóng
khoáng, nó “lật đổ” tất cả những quan niệm hẹp hòi, đố kỵ; nó có khả
năng hòa đồng, khả năng giúp mọi người có trách nhiệm hơn với chính
mình, biết thương mình, thương người, thương cuộc sống, biết thưởng
thức... cuộc sống với một chất lượng cao hơn – không phải giàu hơn, có
danh tiếng hơn, thành công hơn – mà là có hạnh phúc hơn; biết tha thứ,
biết buông xả; hiểu được xã hội không làm nên bởi một cá nhân mà có sự
liên đới trách nhiệm, nó có thể giúp cho những người đang mang mặc cảm
tội lỗi thoát ra khỏi chính mình; giúp cho những người đang làm thầy
thuốc, thầy giáo, nhân viên công tác xã hội, phát triển cộng đồng, nhà
tham vấn... hiểu thêm về mình và người khác, biết tôn trọng, biết thương
yêu, thấu cảm, chân thành. Dĩ nhiên cũng như nhiều người khác, tôi hiểu
Tâm Kinh theo góc độ của tôi. Của một người thầy thuốc. Hơn thế, của
một người thầy thuốc “kiêm” bệnh nhân, đã từng bị gây mê, bị đục sọ não,
đã từng được mổ mắt, đã từng được truyền máu do loét bao tử, và bao
nhiêu thứ đã từng khác. Tôi không theo đạo nào, không mê tín dị đoan,
lúc nhỏ sống trong chùa vài năm, học văn hoá trong nhà thờ vài năm, rồi
hành nghề y trên 30 năm, làm thơ, viết báo lai rai... với đôi ba cuốn
sách nhỏ được xuất bản. Trên 30 năm hành nghề y thì hơn mười năm làm cấp
cứu nhi khoa, ngày ngày có dịp thấy những nỗi khổ đau của người bệnh và
gia đình, rồi gần hai mươi năm làm giáo dục sức khỏe chỉ mong làm vơi
ít nhiều nỗi khổ đau đó – nhưng có làm được chút gì không lại là chuyện
khác – nên đã chịu khó viết sách này sách nọ... từ “Những tật bệnh thông
thường trong lứa tuổi học trò”(1972), “Viết cho các bà mẹ sanh con đầu
lòng”(1975), “Viết cho tuổi mới lớn” lúc hãy còn trẻ...đến “Gió heo may
đã về”, “Già ơi chào bạn!...” những năm gần đây khi đã có tuổi, chủ yếu
là để tự chữa bệnh cho mình – và cũng để giúp cho những bạn bè thân
quen, những bạn đọc cùng thời, cùng lứa. Viết với tôi là một bức xúc, là
một cách “xả”! Tôi thấy nhẹ nhàng sảng khoái hơn khi được viết ra. Đó
cũng là một cách tự chữa bệnh cho mình. Nhưng nếu khi viết mà tôi biết
tôi đang viết, và tôi biết thở đúng cách thì đã tốt, trong khi tôi có vẻ
như quên thở, nín thở... Cái đó rõ ràng là không tốt cho sức khỏe, mãi
sau này tôi mới hiểu ra điều đó, khi tôi được gặp bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện, được ông chỉ dẫn thêm về cách thở cơ hoành và gần đây được đọc
thêm những tài liệu về yoga, về “thiền”, những ứng dụng trong Y học của
bác sĩ Dean Ornish và đặc biệt là phương pháp “thở chánh niệm” – mà
Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ - tôi thấy có
thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những
bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho
nhiều người mà Tổ chức sức khoẻ thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong
những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu
do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an...
Y học ngày càng phát triển, càng phân nhánh, phân tầng, càng đi vào
chi li, vào từng tế bào, vào từng phân tử... Mỗi thầy thuốc chỉ giỏi,
chỉ chuyên sâu trong chuyên khoa lẻ của mình mà quên con người như là
một thực thể toàn diện. Trong khám và chữa bệnh ngày nay, con người bị
cắt chia manh mún, trị được bệnh này thì “xì” ra bệnh khác, dùng thuốc
này thì phải cảnh giác vì có thể gây ra bệnh kia. Thế nhưng y học giúp
ta hiểu “lục phủ ngũ tạng” luôn gắn bó với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau, không tách rời nhau. Không có cái nào đứng riêng lẻ một mình mà
tồn tại. Y học còn giúp ta hiểu lẽ sinh diệt trong mỗi con người. Hàng
tỷ tế bào tự hủy diệt trong từng giây để tạo ra hàng tỷ tế bào mới. Chỉ
riêng về máu, mỗi giây đã có hằng trăm triệu hồng cầu bị hủy diệt và các
“thành tố” đã được chọn lọc, sử dụng lại để tạo ra những hồng cầu mới.
Cứ chừng ba tháng, một hệ thống máu mới đã xuất hiện, nói cách khác, một
con người “mới” đã ra đời trong mỗi chúng ta. Y học phân tử giúp phân
tích các hoạt động của từng tế bào và đã không ngớt gây cho ta hết ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác. Bản đồ gène người đã được phát hiện. đầy
đủ. Người ta ngạc nhiên thấy ruồi giấm có khoảng 60% gène người. Con
người với con người thì có đến 99,99% gène giống nhau! Khi một nhà báo
hỏi một nhà sinh học trong ngày công bố bản đồ gène người, ông đã nói
“Này, cô hãy trông cái cây ngoài kia. Nó có 70% số gène giống y như gène
của cô và tôi !”. Học y, người thầy thuốc còn có dịp mổ xẻ xác ướp,
thuộc từng làn gân, sớ thịt, biết những chất liệu gì đã cấu tạo nên;
được học về cốt học để thấy rõ sự tạo xương và hủy xương trong quá trình
phát triển, học về tế bào học, mô học, sự tập hợp và phân tán, cơ chế
tạo ra năng lượng; về di truyền học...truyền đi những hạt giống và về
sinh lý học, với tất cả những quấn quít chằng chịt của các kích thích tố
(hormones), tác động qua lại của các chất sinh hóa, tương tác của hệ
thần kinh giao cảm và đối giao cảm... Biết cả protéine, chất liệu của sự
sống đã cấu trúc từ các nguyên tố C, H, O, N mà nói cách nào đó là từ
lửa (Carbone) nước (Hydrogène), gió (Oxygène) và đất (Nitrogène). Có
phải đó là cái mà người xưa đã dùng từ “tứ đại”, đất nước gió lửa, hay
“cát bụi” để nói về “một cõi đi về”?
Thầy thuốc cũng biết giới hạn của các giác quan. Mắt chỉ nhìn trong
khoảng bước sóng nào đó, vượt ra ngoài bước sóng đó thì chịu, hết thấy.
Tai cũng vậy. Mũi cũng vậy. Có cái thua loài dơi, có cái kém loài chó...
Thế nhưng thầy thuốc thường cũng dễ tưởng mình là người biết nhiều,
học rộng (bác sĩ), dễ tự cao, tự đại... thấy mình không thể chấp nhận,
không thể nghe điều gì khác ngoài cái gọi là “khoa học”, do đó, không
dễ tiếp thu điều gì mới lạ hơn. Thầy thuốc có lợi mà cũng bất lợi là
vậy.
Từ khi hiểu biết thêm về Tâm Kinh Bát Nhã Balamậtđa, tôi thấy thương
mình hơn, thương người hơn, tôi bớt... tự mãn, tôi biết buông xả hơn,
biết cười, biết thở. Dĩ nhiên tôi vẫn thường hay quên. Phải ráng tập.
Kiên nhẫn tập. Cái cốt lõi của Tâm Kinh là thực hành,
không phải là kiến thức. Biết cũng có lợi, nhưng chỉ thỏa mãn tri thức.
Biết thì thành một trí thức, một học giả, thêm gánh nặng. Hành mới là
làm cho cái biết rõ hơn, soi sáng cái biết và giúp trở thành một “hành
giả”. Bởi vì có lẽ cuối cùng cái “vô trí”, hồn nhiên - chớ không phải
ngây ngô – như một em bé thì mới tới được chỗ an vui, nói cách khác “chỉ
có trẻ con mới vào được nước thiên đàng”. Cái nước thiên đàng đó, có
khi gọi là niết bàn, thực ra ở ngay đây thôi, ngay lúc này thôi, và ở
ngay trong ta thôi, không phải tìm kiếm đâu bên ngoài, vô ích: “Gia
trung hữu bảo hưu tầm mích”. Trần Nhân Tông nói vậy.
Người bạn – cũng là một thầy thuốc - quy y từ thuở nhỏ, khuyên tôi
không nên bước vào Tâm Kinh ngay. Phải học từ từ. Đúng vậy, nhưng cái số
lượng kinh Phật nói ra, có lẽ học đến mười kiếp chưa hết. Mà Phật nói
rằng cái nói của Phật mới chỉ là một nhúm lá trong một rừng cây. Tôi còn
ngờ rằng các học trò của Phật đã biên soạn, biên tập lời Phật rất khác
nhau. Cái đống kinh sách vô tận kia thiệt ra... chỉ để cho người ham
học, muốn trở thành học giả, nhà nghiên cứu..., bởi vì trong nhiều kinh,
Phật nói chỉ cần học một chút cũng tốt lắm rồi. Một câu, một chữ cũng
đã quá đủ. Sự giác ngộ có thể như một ánh chớp, tốc độ còn hơn tốc độ
ánh sáng. Mà cái “hành” mới thật là lý thú. Bởi vì người ta không thể
chỉ biết về thở, người ta phải thở. Cũng như người ta không thể chỉ biết
về thiền, người ta phải thiền. Phải trải nghiệm. Mỗi hơi thở vào thở
ra, trung bình 8 – 10 giây, đã có bao nhiêu triệu hồng cầu được sinh ra
và bao nhiêu triệu đã mất đi? Và có phải mất đi là để được sinh ra? Và
cái mới nhờ đó cứ liên tục. Liên tục vô thường. Liên tục chằng chịt.
Liên tục quấn quít. Cái này cái nọ cái kia cái khác. Mà cũng chỉ vậy. Rã
rồi hợp lại. Sóng vỗ bờ. Thủy triều lên xuống. Trăng tròn khuyết. Vật
chất thành năng lượng – và ngược lại. Nhưng chẳng có cái gì mất đi,
chẳng có cái gì sinh ra. Những Einstein, Lavoisier đó cũng đã “chứng
ngộ” qua con đường khoa học của họ. Khi trái táo rơi thì Newton “giác
ngộ”. Ông cứ để cho trái táo rơi. Và thấy cái điều chưa ai thấy. Phật
giảng dạy cả 49 năm trời, để rồi nói chả giảng dạy cái gì cả! Cái gì
cũng sẵn có đó rồi! Mà làm sao giảng dạy cho người khác được? Mỗi người
phải là thầy và là học trò của chính mình thôi!
Tôi tự nhiên mà khoái Tâm Kinh. Có thể là có cái “duyên” nào đó. Sau
cơn mê, mổ xong tôi tỉnh dậy. Cười một mình. Ngu ơi là ngu. Đáng đời ơi
là đáng đời. Rồi tôi lạ lẫm nhìn ánh nắng chiếu qua khung cửa, lạ lẫm
nghe tiếng chim hót. Lạ lẫm thấy lá thông lắc lư trong gió. Lạ lẫm nghe
người này người kia nói. Nhiều người đồn đãi là tôi đã chết. Nhưng có
thể tôi đã sống qua một kiếp khác. Một cơn mơ. Rồi ai đó tặng tôi Tâm
Kinh. Tôi có vẻ hiểu được. Có thể không tròn trịa. Méo mó có cái hay của
méo mó. Tâm Kinh là một chiếc lá nhỏ trong nhúm lá mà Phật trao truyền,
cầm trong tay, đưa cho ta. Một cái lá cây? Không có tứ đại, ngũ uẩn
sao? Không có trăng sao nhật nguyệt sao? Không có khủng long và ruồi
giấm sao? Cái dải ngân hà kia không phải là có cấu trúc nguyên tử giống y
như hạt cát sao? Phật nói Tâm Kinh khi đã ngoài 60 tuổi, khi đã có gần
ba mươi năm giác ngộ, giảng dạy cho người ta tìm đường giải thoát. Lúc
đã già, đã lớn tuổi, hình như Phật ít nói hơn. Có lúc không thèm nói gì
hết, chỉ tủm tỉm cười. Cười một mình. Rồi ngài nói cho Sariputra một
bài giảng “có vẻ quái lạ, bác hết, quét sạch hết những ảo tưởng của con
người, của mọi người” (NH, Trái tim hiểu biết). Phật mỉm cười giữa chốn
trang nghiêm, giữa lúc mọi người đang há hốc chờ đón từng lời vàng ý
ngọc. Ngài nhìn quang cảnh ngơ ngác đó và mỉm cười. Có một kẻ cũng cười
theo, vì hiểu ý ngài, có lẽ cũng vì thấy được cái ngơ ngác đó của mình,
của mọi người... Phật bèn trao ngay y bát, “truyền ngôi” tức khắc cho
cái lão biết cười, biết chế giễu chính mình đó. Đó là ông Ca-diếp. Cái
cười đó là cái “giáo ngoại biệt truyền”, “bất lập văn tự”...
Vậy sao còn bảo phải học từ từ, học cho hết những bước căn bản, rồi lên cấp 2, cấp 3, đại học ... để phì cười được như Phật?
Còn cái ông Sariputra đó, thực ra cũng là chính ta thôi. Tại sao
không? Nếu bây giờ bất cứ chuyện gì xảy ra làm ta buồn, ta khổ, ta giận,
ta lo ... làm cho mặt mày ta xanh lè lại hay đỏ bừng lên, làm cho tim
ta đập loạn xạ, làm cho tay chân ta bủn rủn, run rẩy hay co cứng, làm
cho huyết áp tăng vọt lên, làm cho miệng ta đắng chát lại hay toát mồ
hôi lạnh, mắc tiểu liên tục... thì ta có thể nói. “Chẳng phải đã qua
rồi, qua rồi, qua hết rồi, qua bờ bên kia rồi ư?”. Vậy thì, việc gì mà
không tìm hiểu Tâm Kinh? Việc gì mà không thực hành Tâm Kinh? Việc gì mà
không tủm tỉm một mình?