10-Ý NGHĨA QUY Y QUA BA CHẶNG ĐƯỜNG TU TẬP
I.
Có ba chặng đường đến giác ngộ: Nhân thiên (con đường nhỏ hay chặng
một), Thanh văn, Duyên Giác (con đường trung hay chặng hai), Bồ tát (con
đường lớn hay chặng ba). Ở mỗi chặng, động lực tu tập một khác, có thể
tóm tắt trong hai yếu tố: Sợ hãi và mong cầu. Chặng một, động lực tu
hành là sợ đọa ba ác đạo, mong được phước báo trời người. Chặng hai, sợ
đến cả phước báo cõi trời người vì bấp bênh, vì vô thường chi phối. Bởi
thế nỗi sợ hãi của Thanh văn là sợ sinh tử luân hồi, và mong cầu của
Thanh văn là mong cầu giải thoát. Chặng ba là Bồ tát đạo thì thấy cầu
giải thoát cho riêng mình chưa đủ, trong khi bao nhiêu chúng sinh như
cha mẹ bà con mình đang ngụp lặn trong biển khổ. Do vậy Bồ tát khởi tâm
đại bi mong cứu vớt tất cả, và muốn thực hiện điều này thì phải cầu
thành Phật mới đủ trí tuệ và phương tiện để cứu giúp chúng sinh như Phật
Thích Ca đã làm. Vậy mong cầu ở chặng ba là cầu thành Phật, muốn thế
phải phát Bồ đề nguyện và lập Bồ đề hạnh. Con đường của Bồ tát đạo bị bế
tắt khi mà hành giả thối tâm bồ đề, trở lại mong cầu tự độ, giải thoát
riêng mình vì thấy đường còn xa thăm thẳm. Nỗi lo sợ của người theo đuổi
chặng ba chính là sợ chính mình thối thất tâm bồ đề .
II.
Vì ở mỗi chặng mục đích tu hành một khác, nên đức tin đối với Tam bảo
cũng khác. Chặng một như đứa con khi còn bé được cha thương yêu che chở.
Nó nhìn cha như một vị thần ban phước vì nó xin cái gì được đáp ứng cái
ấy. Hình ảnh người cha ở giai đoạn này đối với con trẻ là một thần
tượng, một đấng toàn năng. Chặng một xem Phật cũng như vậy, tin tưởng
tuyệt đối vào năng lực cứu khổ của Ngài: Công thức quy y của đệ tử năm
giới tại gia là quy y Phật bất đọa địa ngục... Ta có niềm tin chắc rằng
Phật sẽ cứu ta khỏi nỗi khổ địa ngục, ta sẽ không rơi vào đó một khi ta
đã quay về nương tựa ngài và thay đổi cách hành xử cho thích đáng với
một Phật tử tại gia là giữ 5 giới đã thọ. Pháp ở chặng này là lối sống
điều độ phải chăng của một con người lương thiện. Tăng ở chặng này là
người đại diện cho Phật để dìu dắt chúng sinh.
Chặng
hai (con đường của tiểu thừa hay Thanh văn Duyên giác) thì sự quy y và
niềm tin Phật giống như đứa con đã thành niên tin cha. Thái độ hoàn toàn
ỷ lại thần quyền của thuở bé không còn nữa, bây giờ nó xem cha như một
bậc thầy, một tấm gương, một người mà nó có thể thỉnh thoảng quay về hỏi
ý kiến mỗi khi làm ăn thất bại. Nhưng phần nhiều nó thích tự lập, không
muốn cha xía vào cuộc đời riêng tư của nó lúc không cần thiết. Vai trò
bậc thầy, người cha ở giai đoạn này thật tế nhị, rất dễ đỗ vỡ nếu cung
đàn lỗi nhịp về phía bậc thầy, người cha, hoặc về phía người con, đệ từ.
Lỗi nhịp khi cha, thầy xía vào đời đứa con hay đệ tử lúc nó chưa sẵn
sàng đón nhận sự dạy bảo, lỗi nhịp khi người đệ tử đối dỉện với một giáo
lý vượt quá trình độ của mình (như trường hợp trong kinh Pháp Hoa, phẩm
Tựa, năm ngàn Tỳ kheo đã bỏ pháp hội đi ra lúc Phật sắp tuyên thuyết
viên đốn giáo của Đại thừa) hay khi người con, người đệ tử quá kiêu căng
hoặc quá tự ty mặc cảm. Những người con, đệ tử nhìn sự sáng chói của
cha hay thầy mình bằng nhiều thái độ khác nhau. Có kẻ hãnh diện vì được
làm con hay đệ tử của một bậc thầy, người cha lỗi lạc, và khi tự xưng
tôi là con hay đệ tử của vị này vị kia, người ta cảm thấy mình cũng oai,
cũng dự phần vào sự sáng chói của cha hoặc thầy mình. Đây là một thái
độ nặng ngã chấp, vì khen thầy mình cha mình thì cũng không khác gì tự
khen mình. Một hạng con hay đệ tử lại thường tìm cách chống đối và ưa
nói ngược lại cha, thầy, bất kể họ nói ra điều gì: Một kiểu ganh tị ngấm
ngầm phát sinh từ ngã chấp. Hạng con, đệ tử thứ ba thì hoàn toàn khâm
phục sự sáng chói của bề trên và tự cho mình thấp thỏi không sao với tới
nên tránh xa thầy một khoảng cách an toàn, trở thành người ngoại cuộc
do tự ti mặc cảm. Cả ba thái dộ vừa kể không thái độ nào là thái độ của
một Thanh văn đệ tử. Hai thái độ đầu nặng ngã chấp và mặc cảm tự tôn,
được ví như cái bình lật úp không chứa đựng được gì vượt ngoài “cái tôi”
của mình. Thái độ của người con hay đệ tử đầy tự ti mặc cảm thì giống
như cái bình bị lủng lỗ, cũng không chứa đựng được pháp.
Thanh
văn đệ tử, những người ở chặng hai của con đường tu tập thì nhìn Phật
với thái độ của một vị lương y cứu cấp kịp thời, một người cho ăn đúng
lúc mình đang đói. Pháp đối với họ như thuốc cấp cứu, Tăng như bạn đồng
bệnh trong phòng hồi sức. Khi một người còn dư thời giờ để nghiên cứu
hết triết thuyết này đến thư tử nọ, là họ chưa bước vào chặng đường hai:
họ còn ở ngoài ngưỡng cửa, như một người khách hàng trong siêu thị xem
hết món này đến món khác mà chưa quyết định mua món nào. Thanh văn trái
lại là người đã thấy được nổi khổ sinh tử một cách quyết liệt cấp bách
như thấy lửa đang bốc cháy lan tới mình, không còn thì giờ để lý luận.
Kinh thường lấy ví dụ con voi sa lầy: Một con voi đang khát cháy cổ chợt
trông thấy một ao đầm nước trong mát liền lội xuống ngâm mình và uống
nước thỏa thích. Nhưng chưa đã được cơn khát thì nó nhận ra rằng cả bốn
chân nó đang từ từ lún xuống sình lầy càng lúc càng sâu. Càng vùng vẫy
nó càng lún sâu thêm: nó đâm hoảng sợ quên cả cảm giác thoải mái của
nước mát quanh mình và trong cổ họng. Nó chỉ còn nghĩ tới cái chết gần
kề.
Thái
tử Tất Đạt Đa ngày xưa có lẽ cũng đã từng cảm thấy những nhức nhối của
cuộc tồn sinh theo kiểu ấy, nên mặc dù đang sống trong nhung lụa, ngài
đã âm thầm từ giã ra đi tìm đạo giữa đêm khuya, và đã thành đạo ngay
giữa lòng đời đau khổ. Khi thấy rõ sự bất toại ý của cuộc đời, thì chính
sự bất toại ý ấy trở thành diệu dược giúp ta thoát ly. Thử tưởng tượng
một người có nhiều khát vọng ước mơ. Họ sẽ ra sao nếu không thỏa mãn một
ước mơ nào cả? Và họ sẽ ra sao nếu tất cả những ước mơ của họ đều được
thỏa mãn? Có lẽ hai tình trạng ấy không khác nhau mấy chút: còn lại vẫn
là một nỗi chán chường bất mãn thường xuyên. Nhà thơ Bùi Giáng đã viết:
Trời đất lạnh và lòng anh không thỏa
Gửi hồn đi phương hướng hút heo ngàn
Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ
Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian?
Thanh
văn là người thấy được rằng đời khổ không phải vì ta không thỏa mãn
được các dục, mà khổ chính là các dục. Thấy được như vậy gọi là pháp nhãn ly trần vô cấu đã phát sinh, ngay
tại chỗ họ được giải thoát: cơn bệnh hóa thành diệu dược là ở chỗ đó.
Vai trò đức Phật ở chặng đường này không còn là vị thần ban phúc kéo ta
ra khỏi địa ngục, mà là tấm gương sáng giúp ta thấy rằng giải thoát có
thể thực hiện ngay giữa lòng đời đau khổ. Và giải thoát đây đồng nghĩa
với ly dục.
Ở
chặng đường cuối là Bồ tát đạo, vai trò đức Phật và sự quy y lại mang ý
nghĩa sâu xa hơn nữa. Trở lại với ví dụ thái độ con nhìn cha hay trò
nhìn thầy: người con ở chặng này đã an thân lập mạng, tự thấy có nhiệm
vụ phải giúp đỡ cha già để đền ơn giáo dưỡng. Và giúp đỡ đây có nghĩa là
làm sao cho gia tài cha để lại đừng bị hư hao. Bao nhiêu kho tàng châu
báu cha khó nhọc làm ra, bây giờ trao hết về tay Bồ tát như người con
cả. Nếu không có Bồ tát thì sẽ không có Thanh văn, không có Duyên giác,
cỗ xe làm người làm trời (nhân thiên thừa) cũng không luôn. Thế gian sẽ
chìm trong màn đêm u ám. Bởi thế Bồ tát đóng vai trò trọng đại trong sự
mất còn của Phật pháp. Có Bồ tát là có tất cả không Bồ tát là không còn
gì. Đại thừa giáo đặt nặng việc thọ Bồ đề tâm giới là vì lẽ đó. Có thọ
Bồ đề tâm, lập nguyện Bồ đề và hành hạnh Bồ tát mới là đi đúng quỹ đạo
của Phật.
Phát
tâm Bồ đề có nghĩa là xác nhận khả năng giác ngộ sẵn có nơi mình và tất
cả mọi người, và nguyện phát triển khả năng ấy đời đời kiếp kiếp cho
đến khi hoàn toàn gìác ngộ như Phật, để có khả năng và phương tiện cứu
giúp tất cả Căn bản của sự phát tâm bồ đề là lập 4 thệ nguyện rộng lớn
căn cứ trên tứ diệu đế.
Vì nỗi khổ chúng sinh vô biên, nên con lập nguyện lớn cứu tất cả khổ, (khổ đế).
Phiền não tham sân si (nơi con và mọi người) là vô cùng tận, nên con lập nguyện lớn đoạn trừ cho hết, (tập đế).
Có vô số phương pháp cứu khổ, con lập nguyện lớn học cho hết, (đạo đế).
Chỉ có thành Phật mới mong cứu giúp chúng sinh thoát tất cả khổ, nên dù Phật đạo cao siêu diệu vợi, con nguyện sẽ đạt thành, (diệt đế).
Khi
phát bốn thệ nguyện rộng lớn ấy là ta đặt mình trên đường đi của chư Bồ
tát, nên ở chặng này, vai trò của Phật Bồ tát là vai trò của người bạn
lành (thiện tri thức); pháp là tất cả cuộc đời với khổ đau an lạc thành
công thất bại sống chết nhục vinh. Tăng là cộng dồng những người cùng
chung bồ đề nguyện.
Mật tông chia con đường Đại thừa làm hai: Đại thừa và Kim cang thừa hay Tối thượng thừa, nhưng
chung quy Kim cang thừa chỉ là con đường tắt của đại thừa. Thành Phật
ngay trong đời này, bằng chính thân xác này. Kim cang thừa đặt nặng nghi
lễ, nên có lễ Abhisekha thường được dịch nhiều cách: quán đảnh, nhập
môn, điểm đạo hay gia trì. Trong lễ này, hành giả được cho uống và rưới
đầu bằng một thứ nước phép; người thọ giới xem như đã uống vào thứ nước
cam lồ bất tử. Kể từ giờ phút ấy giới tử được trao một sứ mệnh thiêng
liêng. Thế giới như được mở rộng ra thành pháp giới trùng trùng vô tận,
hành giả được đẩy vào khoảng không bao la để tự túc tự cường, trở về với
chính mình và với vũ trụ thay vì bám lấy một thần tượng như ở hai chặng
đường trước. Theo nghĩa đó thì nói lễ nhập môn không đúng bằng xuất
môn: người thọ giới được trao truyền một thứ nguy hiểm chết người nên
chưa đủ sức để đón nhận, đó là tự do tuyệt đối. Cho nên, cần nói rằng
không ai có thể thọ giới Kim Cương thừa nếu chưa trải qua hai giai đoạn
dưới đó là Thanh văn và Bồ tát.
Danh từ gia trì (empowerment)
có lẽ hay hơn cả: hành giả Kim cương thừa hay đại thừa cấp cao, khi thọ
giới này là được sự tiếp sức của chư Phật Bồ tát để bay ra ngoài vũ trụ
vô biên vì họ có thể rớt xuống vực thẳm bất cứ lúc nào. Chư Phật Bồ tát
khi ấy sẽ đóng vai trò của người bạn lành duỗi tay nâng đỡ.