Phần 3.11. PHƯƠNG PHÁP HỌC PHẬT
I. DẪN NHẬP
Chữ
Pháp trong đạo Phật có rất nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp thì “Pháp” là tất
cả kinh, luật, luận gọi là “ba tạng” ghi lại những lời Phật dạy trong
45 năm Ngài còn ở đời giáo hóa; theo nghĩa rộng nhất thì “Pháp” chỉ tất
cả sự vật hữu hình vô hình, thuộc vật chất hay tâm linh, cụ thể hay trừu
tượng, có thực hay bịa đặt như lông rùa, sừng thỏ. Pháp còn ám chỉ niết
bàn Phật chứng, chân lý tối hậu hay “tri kiến Phật” mà Phật đã đạt, như
trong từ ngữ “pháp nhãn ly trần vô cấu” hay con mắt pháp thanh tịnh.
Pháp cũng còn có nghĩa là phép tắc lý đương nhiên của sự vật, tương tự
chữ “đạo” mà ngài Huệ Năng dùng “Sắc loại tự hữu đạo, cácbất tương phòng
não” nghĩa là mỗi loài tự có cái đạo hay cái lý, cái pháp của nó, như
ong kiến biết làm tổ, hoa biết nở, chim bay cá ìội, cò trắng quạ đen vân
vân không thể đổi khác. Nhưng còn một nghĩa nữa cũng rất quan trọng của
danh từ “pháp”, đó là nghĩa “phương pháp”.
Hôm
nay chúng ta sẽ chú trọng đến ý nghĩa này của Pháp, đó là Phương pháp
học Phật, hay cách tu hành, cách chuyển hóa cuộc đời đau khổ
thành
an vui, đó mới là vai trò quan trọng nhất của Pháp. Nếu Pháp chỉ là ba
tạng giáo điển Phật dạy, thì người không tin Phật sẽ không đếm xỉa. Hoặc
dù có tin nhưng không biết chữ, bận làm ăn buôn bán cũng không đọc
được. Nếu Pháp chỉ là Niết bàn Phật chứng, là chân lý tối hậu, thì phàm
phu chúng ta đang còn lăn lộn giữa bụi trần cũng vô phương mó tới. Còn
nếu Pháp là cál lý đương nhiên của mọi sự vật thì ta sẽ nghĩ rằng lý
đương nhiên của con người sống giữa đời là phải bon chen, ăn miếng trả
miếng, cái nghiệp của ta đã là như vậy thì tu hành nào có lợi ích gì.
Nhưng khi nói Pháp là phương pháp, là cái chìa khóa mở cửa hạnh phúc,
chuyển đau khổ thành an vui, luyện cát ra vàng ròng, thì bất luận là
người theo đạo nào, muốn hết khổ được vui, đều cần phải có nó.
II. NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG SAI CHÌA KHÓA PHẬT PHÁP
Khi đã xác định ý nghĩa chữ Pháp là chìa khóa, ta mới thấy có nhiều lốí hành xử như sau.
1. Liệng mất chìa khóa
Có
khi giảng sư nói thẳng chân lý Phật dạy trong kinh điển, như nói hết
thảy pháp không sinh không diệt không dơ không sạch. Hoặc về giới sát
sinh, thì nói không được giết hại từ người cho đến sinh vật nhỏ nhít như
muỗi mòng sâu kiến. Một số Phật tử nghe không hiểu nên đâm chán, ngủ
gục; một số khác thấy Phật Pháp quá cao siêu mà mình quá tệ, đã lỡ sát
sinh quá nhiều đâm ra mặc cảm bỏ cuộc.
Đó là thái độ liệng xâu chìa khóa vì thấy vô dụng đối với mình.
2. Dùng không đúng cách
a. Pháp không hợp trình độ:
Khi
định nghĩa Pháp là phương pháp thì có rất nhiều, tùy thời, tùy người,
tùy việc mà vận dụng. Nhiều khi một phương pháp thích hợp với giảng sư
lại không hợp với Phật tử trình độ tu hành còn thấp kém, ví dụ câu “Dâm
phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” rất thích hợp để đem nói cho
một vị tu hành đã hết lầm lỗi, nhưng quá chấp trước vào sự thanh tịnh,
không màng đến chuyện xuống núi lợi sinh hành đạo. Nhưng nếu nói cho một
bợm nhậu nghe thì không còn sửa đổi gì y được nữa. Bởi thế, Phật pháp
còn gọi là pháp bất định, cũng như thuốc trị bệnh có nhiều thứ và liều
lượng khác nhau, dùng không đúng bệnh và đúng lượng thì chẳng những bệnh
không khỏi mà còn thêm hại.
b. Người nghe cố chấp:
Có
nhiều Phật tử nghe Pháp rồi chấp chặt vào pháp ấy xem như chân lý duy
nhất đúng, mà không xét đúng cho hạng người nào, đối tượng nào. Lỗi
không ở giảng sư mà ở người nghe. Có một gia đình nọ cha mẹ không biết
gì đến Phật pháp nhưng cô con gái lại thường theo bạn bè đi chùa nghe
pháp. Sau một thời gian nhờ thấm nhuần Pháp, cô tha thiết xin cha mẹ
xuất gia. Cha mẹ lúc đầu không cho, nhưng cô gái một mực năn nỉ, cuối
cùng ông bà phải xiêu lòng cho con xuất gia. Vào chùa xong, cô gái lại
còn dụ được cha mẹ đi nghe pháp. Rủi thay trong thời pháp mà ông bà được
nghe lần đầu tiên đó, có một câu làm cho họ đắc ý: “ở đâu tu cũng được,
không cần phải vào chùa”. Họ bèn lôi cổ cô con về lại nhà.
Lại
có giảng sư dạy rằng không phải cứ ăn chay, niệm Phật mới là tu. Dĩ
nhiên giảng sư nói không sai, nhưng cũng không đúng hẳn. Thế mà có một
Phật tử ăn chay trường ba mươi năm, nghe thế bèn về ngã mặn.
Như
thế dấy là sự tai hại của việc nói pháp cho công chúng khi có quá nhiều
trình độ, nhiều chấp trước bất đồng. Cho nên trong kinh Kim Cang, sau
khi đã dạy rất nhiều, Phật dạy: “Như Lai không có nói gì cả”. Để chúng
ta đừng bám vào lời Ngài, xem là chân lý duy nhất đúng, mà không xét lời
Ngài đang nói nhắm vào hạng người nào, cốt trị căn bệnh gì. “Tin ta mà
không hiểu ta chính là phỉ báng ta đó”. Phật đã từng dạy.
Thái
độ trên đây là “thực hành theo Pháp mình đã nghe một cách vội vàng,
không suy xét”. Đó là thái độ của người kém trí tuệ, có lòng tin mù
quáng thành ra tự hại mình và còn làm cho thầy mang tiếng xúi bậy. Khi
tu hành không được kết quả thì lại mất lòng tin một cách oan uổng. Chẳng
khác nào Phật đưa cho cái chìa khóa, mà không mở được cửa vì xoay chìa
không đúng cách. Hoặc có khi xoay chìa đúng, cửa sẵn sàng mở nhưng thay
vì đẩy ra, ta lại kéo vào thì cũng không xong!
3. Ngã chấp
Còn
một thái độ thứ ba cũng không kém tác hại, là bác bỏ ngay lời giảng dạy
vì không hợp gu của mình. Đây là thái độ nóng nảy của người muốn chóng
có kết quả, xem phương pháp tu của Phật dạy thật quá lâu lắc không thiết
thực, rồi đi theo những thầy tà bạn ác để mau đắc thần thông. Khi biết
mình bị lừa thì đã quá muộn.
4. Thờ chìa khóa
Một
thái độ thứ tư là người nghe pháp xem như một bùa chú linh nghiệm, cất
kỹ để hộ thân thay vì xem Pháp như những chỉ giáo để sống trên
đời.
Chẳng khác nào kẻ đang bị giam giữ, được cái chìa khóa để mở cửa nhà
giam, nhưng lại lầm cho đó là bùa chú để hộ thân, bèn suốt ngày săm soi,
đặt lên bàn thờ, lâm râm tụng niệm “Nam mô chìa khóa, nam mô chìa
khóa...” Nhờ lòng tin tưởng ấy, người tù cũng cảm thấy đỡ khổ khá nhiều
nhưng sao bì được với việc sử dụng chìa khóa để mở cửa nhà tù mà ung
dung bước ra.
III. VĂN TU TU
Biết
pháp còn phải biết cách vận dụng pháp thì mới thực sự có lợi ích, cũng
như có chìa khóa còn phải biết cách mở. Chúng ta học Pháp là học chân lý
Phật dạy, nhưng còn phải biết những phương pháp để thực hành chân lý ấy
tùy từng giai đoạn và nơi chốn. Trong sự học Pháp, Phật đã dạy ba
phương pháp học là VĂN, TƯ và TU.
VĂN là
nghe giảng, đọc sách, thảo luận với bạn đạo để hiểu cho thấu đáo và
rộng rãi lời Phật dạy. Nhưng nghe không cũng chưa đủ. Có người đi nghe
giảng suốt đời, thuộc lòng Phật pháp và đọc tụng những kinh điển cao
siêu nhưng vẫn chứng nào tật ấy, chẳng có gì tiến bộ trong đời sống hàng
ngày, lại còn mắc thêm chứng kiêu mạn cho ta đây kinh gì cũng biết. Đấy
là hạng Phật tử làm sưu tập chìa khóa mà không sử dụng, chất chìa khóa
đầy nhà thì chỉ thêm choán chỗ.
TƯ
là suy nghĩ cân nhắc đắn đo về những pháp mình đã nghe, đi sâu vào Pháp
bằng tâm ý của mình chứ không chỉ bằng lỗ tai và cái miệng. Có tư duy
thiền định mới thấm được những lợi ích sâu xa của Pháp ngoài các lợi ích
nhỏ nhoi như cứu bệnh, tăng thêm tài lộc, thăng quan tiến chức... Có
một nhóm quân nhân Phật tử thường họp nhau thảo luận Phật pháp mỗi tuần
một đề tài. Hôm ấy đề tài là “Tại sao anh tin Phật?”. Rất nhiều ý kiến
được đưa ra, đa số thuộc về những linh ứng mà bản thân đương sự đã được
hưởng mỗi khi gặp gian nguy trong đời, đại loại như, “Tôi tin Phật vì
một dạo gia đình chạy giặc nửa đêm đến một khúc sông lớn, giặc đuổi sau
lưng; cả gia đình thành tâm niệm Bồ tát Quan âm thì bỗng xuất hiện một
chiếc thuyền trên đó có ông già mặc áo trắng râu bạc ghé vào bờ đưa tất
cả qua sông. Vừa lên bờ nhìn xuống toan tìm ông già để trả tiền thì
không thấy gì nữa, cả thuyền và người đều biến mất...”
Thực
cũng khá hấp dẫn, người nghe có người cảm động có kẻ không tin. Nhưng
có một lời phát biểu làm cho mọi người phá lên cười là của một Phật tử:
“Tôi tin Phật vì ngài bảo đừng tin Ngài”. Đấy là một người thực sự có
suy tư về Pháp và thấm nhuần được những lợi ích sâu xa của Pháp. Phật
dạy đừng vội tin lời Ngài, mà nghe xong phải suy nghĩ cho chín chắn coi
đúng không cái đã. Có những Pháp không đúng trong lúc này mà lại đúng
vào lúc khác, nên người học cần phải có sự sáng suốt nhận định theo hai
chiều: khế lý và khế cơ. Pháp mình nghe được phải đúng chân lý đã đành
nhưng còn trình độ của mình nên thực hành như thế nào cũng cần xét đến.
Ví dụ với người đang hành nghề đồ tể hay đánh cá khi nghe giới “không
được sát sinh”, thì cần trước hết tìm xem điều ấy có đúng không. Khi đã
thấy là đúng, nhưng mình chưa bỏ được thì nên thực hành theo từng giai
đoạn, như đầu tiên làm “diệu hạnh” nghĩa là kiêng sát sinh vào những
ngày vía Phật, ngày rằm, vân vân rồi từ từ giảm việc sát sinh khi không
phải vì mưu sinh mà vì muốn làm giàu. Và cuối cùng, có thể đổi sang nghề
khác. Đó là cách tu tuần tự. Tất cả các giới pháp khác cũng vậy, phải
xét trình độ mình có thể theo Pháp đến mức nào, và cố thực hành dù ở mức
thấp nhất. Như thế là biết cách xoay xở để sử dụng cái chìa khóa Phật
pháp để dần dần thoát vòng nghiệp chướng. Trong kinh Bách Dụ, Phật có kể
chuyện một người khát nước gần chết nhưng khi gặp một con sông thì lại
không chịu uống, bảo rằng nước nhiều quá làm sao tôi uống cho hết được,
và cuối cùng phải chết khát bên dòng sông. Đấy là thái độ người nghe
Pháp thật nhiều mà không thực hành, vì cứ nghĩ Pháp Phật quá sâu rộng
cao xa mà mình quá kém cỏi.
Một khía cạnh thứ ba của việc học Pháp là TU TUỆ,
nghĩa là áp dựng Pháp vào đời sống hàng ngày sau khi chọn lựa những gì
thích hợp cho trình độ mình. Đôi khi thầy dạy một điều rất cao mình phải
biết là mình chưa đạt tới trình độ ấy, chưa áp dụng được, nhưng đừng
vội phủ nhận vì một thời gian sau, nếu tinh tiến tu hành sẽ có lúc mình
đạt đến chỗ ấy. Ngày xưa ở Tây Tạng có một ông vua rất hâm mộ Phật pháp,
mời một pháp sư nổi tiếng về kinh đô giảng cho cả triều đình. Pháp sư
này tu Bát nhã đã chứng Tính không nên giảng toàn về Không, tứ đại ngũ
uẩn giai không, phàm thánh giai không, sinh tử niết bàn cũng giai không,
tội phúc cũng giai không... Vị vua nghe Pháp sư giảng xong rất thích
thú nhưng đồng thời cũng thấy thật nguy hiểm để cho ông này sống, vì ông
nói quá hay, nếu để ông giảng cái Không ấy cho thần dân thì không còn
ai tu hành gì nữa... Và vua cũng muốn thí nghiệm coi pháp sư có thực
chứng Tứ đại giai không không hay chỉ nói nơi lỗ miệng. Bèn đem pháp sư
ra xử trảm.
Pháp
sư quả đã thực chứng tính không nên trước cái chết ông không biến sắc.
Sau đó vua thỉnh một vị thầy khác về kinh đô giảng Pháp, vị này lúc đầu
nói về nhân quả nghiệp báo, làm lành gặp lành làm ác gặp dữ, bởi thế cần
phải làm lành lánh dữ, nếu muốn gặp lành không muốn gặp dữ. Ai cũng
muốn lành thế mà lại làm ác, không ai muốn gặp dữ thế mà ít ai chịu làm
điều lành, vì mâu thuẫn như thế nên thế gian này đầy những rối ren đau
khổ. Muốn làm lành lánh dữ cần phải có trí tuệ phân biệt cho đúng cái gì
thực là lành, cái gì thực là dữ. ông vua nghe pháp này rất lấy làm hài
lòng, bèn hỏi: “Thế thì tính không có phải là Phật pháp hay không? Hay
đó là chủ thuyết tà ngụy?”. Vị pháp sư này tâu: “Tâu bệ hạ, tính không
mới là cốt tủy của Phật pháp. Sau khi đã thuần thục trong việc bỏ ác làm
lành, vua phải an trú tâm vắng lặng không vướng bận quả báo, thì mới là
điều lành tối thượng. Nếu còn vướng một điều lành nào thì cũng chưa
thực sự giải thoát, vì sẽ ham hưởng quả báo ở cõi trời, nghĩa là vẫn còn
quanh quẩn trong tam giới”. Sau một thời gian tu tập vua mới thấm ý
nghĩa Tính không này, và vô cùng ân hận vì đã lỡ giết mất một bậc minh
sư.
Đấy
là tai hại của việc nghe pháp mà không tư duy tu tập và vội vàng kết
luận về pháp mình đã nghe, không suy xét trình độ bản thân mình.
IV. KẾT LUẬN
Khi
nghe Pháp tối thượng về Tính không, ta nên cẩn thận suy xét lời giảng sư
nói, rồi chiêm nghiệm coi mình tu hành đã đến trình độ đó hay chưa. Nếu
chưa, thì khoan làm theo nhưng phải thấy được đấy là pháp tối thượng để
không mất hướng mục tiêu giải thoát. Vì Pháp chung quy chỉ là ĐƯỜNG LỐI
GIẢI THOÁT. Giải thoát là hết chấp trước. Nhưng có nhiều cách chấp. Khi
còn phàm phu ta chấp vào ăn mặc ở, vào sắc thanh hương vị xúc, nên khởi
sự ta phải tu hạnh từ bỏ, thiểu dục tri túc, nghĩa là tu GIỚI. Đó là
chặng đầu của giải thoát. Khi giới hạnh thanh tịnh, cảm thấy tâm yên ổn
không có gì ân hận, tâm được định tĩnh, mới thấy rõ cái gì là thiện cần
làm cái gì là ác cần tránh. Đó là chặng gíữa của con đường giải thoát.
Nhưng còn vướng bận về thiện ác, còn ôm giữ quả báo nghĩa là còn ngã
chấp thì cũng chưa thực sự giải thoát, nên cần phải buông xả, đạt đến VÔ
NIỆM VÔ TRÚ VÔ TƯỚNG như lời dạy của tổ Huệ năng thì mới là giải thoát
thực sự, tức là khai mở tri kiến Phật để thấy được Tính không:
“Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhá trần ai?”
Nghe
như vậy, có người khởi lên ý nghĩ “tôi cần phải buông xả” thì lại là
một sự trói buộc khác. Cho nên, cứ theo nguyên tắc là tất cả ác nên
tránh, tất cả lành nên làm, rồi tùy khả năng mà làm lành lánh dữ nhưng
trong tâm không nghĩ đến quả báo. Khi nào đúng thời tiết nhân duyên, thì
giải thoát tự đến, như cứ chăm sóc cây cối thì đúng kỳ sẽ có hoa trái,
chứ không phải muốn mà được Nhưng việc tu tâm có hơi khác ở chỗ, ta có
thể thấy được tiền vị của Niết bàn, trong khi tu nhân ta đã thấy được
cái quả lấp ló. Muốn thực nghiệm, hãy buông bỏ mọi mong cầu, ngay cả
mong cầu giải thoát, không nghĩ thiện không nghĩ ác, để tâm hoàn toàn
vắng lặng mà vẫn tỉnh táo. Trạng thái VÔ NIỆM ấy là tin tức về bản lai
diện mục, về niết bàn. Nhưng một niệm sau đó muốn kéo dài giây phút ấy
ra tức là đã lọt vào tam đồ lục đạo.