TIẾN TRÌNH CHẾT
(Trung ấm Pháp Tính)
Viết theo giải thích của Sogyal Rinpoche về Tử thư Tây Tạng
Tiến
trình chết được giải thích cặn kẽ trong nhiều kinh sách Tây Tạng. Cốt
yếu nó gồm hai giai đoạn tan rã: một sự tan rã bên ngoài, khi các căn và
tứ đại phân tán, và một sự tan rã bên trong, thuộc về các ý tường và
cảm xúc thô và tế. Nhưng trước hết chúng ta cần hiểu rõ những thành phần
của thể xác và tâm thức ta, những thứ sẽ phân tán vào lúc chết.
Toàn
thể sinh tồn của ta được quyết định bởi các đại chủng: đất, nước, lửa,
gió và khoảng không. Nhờ các đại chủng này mà thân thể thành hình và tồn
tại, và khi chúng phân tán thì chúng ta chết. Chúng ta quen thuộc với
những đại chủng bên ngoài, những thứ định đoạt cách thế chúng ta sống,
nhưng điều đáng chú ý là những đại chủng bên ngoài này tác động ảnh
hường lên các đại chủng bên trong cơ thể ta như thế nào. Và tiềm năng
cùng tính chất của năm đại chủng này cùng hiện hữu trong tâm chúng ta.
Khả năng của tâm thức để làm nền tảng cho mọi kinh nghiệm là cái khả
năng của đất (nên thường có danh từ tâm địa); tính tương tục, dễ thích
nghi của nó là nước (dòng tâm thức); tính sáng suốt, khả năng nhận thức
của nó là lửa (ánh sáng trí tuệ); tính chuyển động liên tục của nó là
gió (tâm viên ý mã); và tính trống rỗng vô giới hạn của nó là hư không
(bầu trời tâm thức).
Truyền
thống Mật tông Tây tạng nêu lên một giải thích về thân xác hoàn toàn
khác với lối giải thích mà chúng ta vẫn quen thuộc. Đây là một hệ thống
tâm vật lý, gồm một mạng lưới năng động với những huyệt đạo vi tế,
“khí” hay nội khí, và tinh thần. Những thứ này Phạn ngữ gọi là nadi,
prana và bindu (tinh khí thần); Tạng ngữ gọi là tsa, lung và tiklé.
Chúng ta quen thuộc với một thứ tương tự trong y học và châm cứu Trung
Quốc là các kinh mạch và khí huyết.
Thân
người được các bậc thầy ví như một đô thị, các kinh mạch giống như
đường sá, khí như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch vi tế
trong thân thể, nhưng có ba kinh mạch chính: trung ương, chạy dọc cột
sống, và kinh mạch bên trái và phải chạy hai bên kinh mạch trung ương.
Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số điểm để
làm thành một dãy “gút”. Dọc theo kinh mạch chính có một số “luân xa”
chakras, trung tâm năng lượng từ đấy những kinh mạch phân ra như những
cọng dù. Qua những kinh mạch ấy “khí” tuôn chảy, còn gọi là nội khí. Có
năm khí gốc và năm khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc nâng đỡ một đại chủng và
chịu trách nhiệm về một vận hành của cơ thể con người. Những khí ngành
ngọn giúp cho các giác quan hoạt động. Những khí nào chảy qua tất cả các
kinh mạch khác ngoài kinh mạch giữa, đều được gọi là bất tịnh vì gợi
lên những mẫu tư duy nhị nguyên, tiêu cực Những khí ở huyệt đạo trung
ương được gọi là “khí của trí tuệ”.
“Tinh
chất” chứa đựng trong các huyệt đạo. Có tinh đỏ và trắng. Chỗ chứa
chính thức của tinh trắng là cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn.
Trong
thực hành yoga cao cấp, hệ thống này được hành giả quán rất rõ. Bằng
cách làm cho khí vào trong huyệt đạo trung ương nhờ năng lực thiền định
một hành giả có thể trực nhận ánh sáng căn bản hay “Điểm Linh quang” của
tự tính tâm. Điều này làm được vì tâm thức cỡi trên khí. Bằng cách
hướng tâm về một chỗ đặc biệt nào trên cơ thể mình, hành giả có thể đưa
khí đến đấy. Với cách ấy hành giả đang mô phỏng cái điều xảy ra lúc
chết: khi những gút trong các huyệt đạo dược bung ra, khí chảy vào huyệt
đạo trung ương, và hành giả đốn ngộ tức thì.
Sự
kết hợp của 5 uẩn sẽ tan rã khi chúng ta chết. Tiến trình chết là một
tiến trình duyên sinh phức tạp, trong đó những nhóm thuộc các khía cạnh
tương quan trong thân và tâm ta phân tán đồng thời. Khi phong đại biến
mất thì những thân hành và các giác quan suy sụp. Những luân xa hay
trung tâm năng lượng sụp đổ, và vì không có những luồng gió nâng đỡ
chúng, nên các đại chủng liên tiếp tan rã từ thô nhất đến tế nhất. Kết
quả là mỗi giai đoạn của quá trình tan rã đều có hiệu quả vật lý và tâm
lý trên người sắp chết, và được phản chiếu bằng những triệu chứng vật lý
bên ngoài cũng như kinh nghiệm tâm lý bên trong.
SỰ TAN RÃ BÊN NGOÀI
Sự
tan rã bên ngoài xảy ra khi các giác quan và tứ đại phân tán. Điều trước
tiên chúng ta có thể ý thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế
nào. Sẽ đến một lức khi nằm trên tử sàng, ta không thể hiểu được một
lời nào của mọi người xung quanh, dù vẫn nghe giọng nói của họ. Đây là
dấu hiệu nhĩ thức đã ngưng hoạt động. Ta nhìn một vật trước mắt, mà chỉ
có thể thấy hình dạng lờ mờ, không rõ chi tiết. Đấy là dấu hiệu nhãn
thức đã suy. Tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Đó là giai
đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã.
Bốn giai đoạn tan rã kế tiếp đi kèm với sự tan rã của bốn đại:
1. Địa đại tan rã
Thân
xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ không còn chút
năng lực nào; không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì Ta
không còn giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như mình đang té xuống,
đang nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát.
Kinh điển mô tả nó như là một trái núi khổng lồ đang ép xuống, và ta
đang bị nó nghiền nát. Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế
nào. Ta có thể yêu cầu dỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết chăn trên
người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta
hóp lại và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó
mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh.
Tâm ta dao động, nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào hôn trầm. Đấy là những
dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại, và khả năng của thủy đại bây
giờ rõ rệt hơn. Bởi thế “Dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm ta lúc đó
là, ta thấy một hình ảnh chập chờn.
2. Thủy đại tan rã
Chúng
ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi miệng ta
bắt đầu chảy nước. Đôi khi có nước mắt chảy ra, và ta có thể mất hết sự
tự chế. Lưỡi ta cứng lại, môi thụt vào, không còn chút sắc máu, miệng và
cổ họng bế tắc. Những lỗ mũi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước.
Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh. Khi thọ
uẩn phân tán, thì những cảm giác của thân yếu dần, khi khổ khi vui, lúc
nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất mãn, cáu tức, và nóng nảy. Một
vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong đại dương hay
cuốn trôi trong dòng nước lớn.
Thủy
đại đang tan rã vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng
nâng đỡ tâm thức. Bởi thế “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một
đám mờ như khói cuộn.
3. Hỏa đại tan rã
Miệng
và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu
mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh
đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay
tiêu hóa bất cứ thứ gì. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa
sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con bè bạn, hay nhận
ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái gì bên ngoài, vì âm thanh
và cái thấy lẫn lộn.
Hỏa
đại dang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho
tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thể
dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như
những con đom đóm.
4. Phong đại tan rã
Khi
gần chết, càng lúc ta càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết
hầu, ta khởi sự thở hào hển. Những hơi thở vào càng lúc càng ngắn và
khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt trợn trừng, ta nằm bất động.
Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dã, không biết gì về thế giới
bên ngoài. Ta khởi sự có những ảo giác. Nếu bình sinh đã tạo nhiều
nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những ám ảnh và
những giây phút kinh hãi trong đời bây giờ quay lại, có khi ta cố la lên
vì kinh hoàng. Nếu đã sống một đời hiền thiện có lòng tử tế, xót
thương, thì ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỉ lạc, và
“gặp” những bạn bè thân yêu hoặc những bậc giác ngộ. Với những người đã
sống đời lương thiện, thì khi chết có sự an bình thay vì hãi sợ.
Điều
đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập
hợp lại trong “khí nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế “dấu hiệu bí
mật” là (người chết) thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Hơi thở vào càng
nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong
“kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu lần lượt tụ
lại, gây nên ba hơi thở hắt ra cuối cùng. Rồi thình lình, hơi thở chúng
ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự
sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”.
Nhưng những bậc thầy Tây tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn
tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở
bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng hai mươi phút.
Nhưng không có gì chắc chắn, và toàn thể tiến trình này có thể xảy ra
rất nhanh.
SỰ TAN RÃ BÊN TRONG
Trong
quá trình tan rã ở nội tâm, ở đấy những tâm trạng và cảm xúc từ thô đến
tế tan rã, ta gặp bốn tầng lớp tâm thức vi tế. Ở đây tiến trình chết
phản ảnh ngược lại với tiến trình đầu thai. Khi tinh huyết cha mẹ gặp
gỡ, tâm thức ta do nghiệp thúc đẩy, bị kéo vào. Trong thời kỳ phát triển
bào thai, tinh chất của cha, một hạt nhân “trắng và phúc lạc” an trú
trong luân xa trên đỉnh đầu, trên cùng của huyệt đạo trung ương. Tinh
chất người mẹ, một hạt nhân “đỏ và nóng”, an trú trong luân xa được nói
là dưới rốn chừng bốn ngón tay. Chính từ nơi hai tinh chất này mà những
giai đoạn kế tiếp của sự tan rã xảy ra. Với sự biến mất của ngọn gió giữ
nó tại đấy, tinh chất màu trắng đi xuống huyệt đạo về phía trái tim.
Bên ngoài có tướng màu trắng hiện ra như “một bầu trời trong sáng dưới
ánh trăng”. Bên trong, ý thức chúng ta trở nên vô cùng sáng suốt, và tất
cả những tâm trạng do sân giận, gồm 33 thứ, đi đến chấm dứt. Giai đoạn
này gọi là “Xuất hiện”. Rồi tinh chất của mẹ bắt đầu đi lên qua huyệt
đạo trung ương, khi ngọn gió giữ nó nguyên chỗ đã biến mất. Tướng bên
ngoài là một màu “đỏ” như mặt trời chiếu trên nền trời trong. Bên trong,
có một cảm giác phúc lạc phát sinh, và những tâm trạng do tham dục, gồm
40 thứ tất cả, ngưng hoạt động. Giai đoạn này gọi là “Tăng trưởng”.
Khi
hai tinh chất đỏ trắng gặp gỡ ở tim, tâm thức được kèm theo trong ấy.
Tulki Urgyen Rinpoche, một bậc thầy lỗi lạc ở Nepal, nói: “Kinh nghiệm
ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau”. Bên ngoài, chúng ta thấy
xuất hiện một màu “đen”, giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong
màn đêm dày đặc. Tướng bên trong là một trạng thái tâm thức không có tư
tưởng. Bảy trạng thái tâm do ngu si và vọng
tưởng đi đến chấm dứt. Điều này được gọi là “Thành tựu”. Khi chúng ta
tỉnh lại, ánh sáng Căn bản lóe lên như một bầu trời vô nhiễm không mây
mù. Đôi khi đấy gọi là “tâm với ánh sáng của sự chết”. Đức Dalai Lama
nói: “Tâm thức này là tâm thức sâu xa nhất. Chúng ta gọi nó là Phật
tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Dòng tương tục của tâm thức này
kéo dài ngay cả đến khi thành Phật quả”.
Người
ta thường ví trạng thái trung ấm sau khi chết với hình ảnh một người nữ
tài tử đẹp ngồi trước tấm gương soi. Buổi trình diễn cuối cùng của nàng
sắp bắt đầu, nàng đang đánh son phấn và kiểm soát lại một lần cuối toàn
thể dáng dấp mình trước khi bước ra sân khấu. Cũng thế, vào lúc chết
bậc thầy khai thị cho ta tinh yếu của giáo lý trong tấm gương của tự
tính tâm và trực chỉ cho ta trọng tâm của sự tu tập. Nếu bậc thầy
không hiện diện, thì những bạn đạo có duyên với ta nên có mặt để giúp ta
nhớ lại.
Người
ta bảo thời gian tốt nhất để khai thị là sau khi hơi ra đã ngưng, và
trước khi “nội khí” vận hành bên trong chấm dứt; mặc dù bảo đảm nhất là
bắt đầu khai thị trong tiến trình chết, trước khi các giác quan hoàn
toàn suy sụp. Nếu bạn không có cơ hội gặp thầy ngay trước khi chết, thì
phải thụ giáo và tập cho quen với những chỉ dẫn này trước.
Những
hành giả thượng thặng về Dzogchen, đã hoàn toàn trực nhận tự tính tâm
trong suốt đời họ, nên khi chết, họ chỉ cần tiếp tục an trú trong trạng
thái Tính giác, khi làm cuộc chuyển tiếp qua sự chết. Họ không cần
chuyển di tâm thức vào một vị Phật nào hay cõi Phật nào, vì họ đã thực
chứng tâm giác ngộ của chư Phật ngay trong chính họ. Cái chết đối với họ
là giải thoát tối hậu – cao điểm của sự chứng đắc, tột đỉnh của một đời
tu tập. Tử thư Tây tạng chỉ có vài lời này để nhắc nhở một hành giả như
vậy: “Thưa thượng nhân, bây giờ ánh sáng Căn bản đã ló dạng. Hãy nhận
ra, và an trú trong sự tu tập”.
THỜI GIAN CỦA ÁNH SÁNG CĂN BẢN
Ánh
sáng căn bản xuất hiện; đối với một hành giả, nó kéo dài bao lâu vị ấy
an trú không tán loạn trong tự tính tâm. Nhưng đối với phần đông, nó kéo
dài không lâu hơn một búng tay, và với vài người, nó kéo dài “khoảng
chừng một bữa ăn”. Phần đông người tuyệt nhiên không nhận ra ánh sáng
Căn bản, mà thay vì thế, rơi vào một trạng thái ngất xỉu có thể kéo dài
ba ngày rưỡi. Sau đó thần thức mới thực sự rời khỏi thể xác.
Mặc
dù mọi rối ren mờ mịt của chúng ta đã chấm dứt lúc thân ta chết, song
thay vì quy phục, đón nhận ánh sáng, thì vì sợ hãi và vô minh, chúng ta
lùi lại, và theo bản năng, bám lấy những gì ta đã từng bám giữ. Đấy
chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta lợi dụng thời điểm mãnh liệt này
làm cơ hội giải thoát. Padmasambhava nói: “Tất cả hữu tình đã sống và
chết vô số lần. Chúng đã nhiều lần kinh nghiệm ánh sáng khôn tả này.
Nhưng vì bị bóng tối vô minh làm mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận
trong sinh tử”.
Khi
ánh sáng Căn bản ló dạng, thì vấn đề then chốt sẽ là mức độ an trú tự
tính nơi ta, mức độ hợp nhất bản chất tuyệt đối và đời sống hàng ngày
nơi ta, và mức độ thanh lọc tâm phàm tình nơi ta, để thể nhập trạng thái
trong sáng nguyên ủy.
MẸ CON GẶP GỠ
Có
một phương pháp theo đó chúng ta có thể sẵn sàng chuẩn bị để nhận ra khi
Ánh sáng Căn bản xuất hiện vào lúc chết. Đấy là phương pháp thiền tối
thượng gọi là “hợp nhất giữa hai ánh sáng”, hay còn gọi là “Sự tan hòa
giữa Ánh sáng Mẹ và Ánh sáng Con”.
Ánh
sáng Mẹ là cái tên mà ta đặt cho ánh sáng Căn bản. Đấy là bản chất nội
tại của mọi sự vật nằm bên dưới toàn thể kinh nghiệm của ta, và thể hiện
trong vẻ sáng ngời nguyên vẹn của nó vào lúc ta chết.
Ánh
sáng Con, còn gọi là ánh sáng Đạo lộ, là tự tính của tâm ta, cái mà nếu
được thầy khai thị và chúng ta trực nhận, thì ta có thể dần dần an trú
nó nhờ thiền định, và hội nhập nó vào sự sống hàng ngày. Khi sự hội nhập
đã được toàn triệt, thì sự trực nhận cũng toàn triệt, và sự chứng ngộ
xảy đến.
Mặc
dù Ánh sáng Căn bản là bản chất nội tại của tâm ta và là bản chất của
mọi sự vật, song ta không nhận ra nó, thành thử nó hầu như bị khuất lấp
Ta có thể ví Ánh sáng Con như là cái chìa khóa mà bậc thầy trao cho ta
để mở cánh cửa nhận thức, để nhận ra được Ánh sáng Căn bản, mỗi khi gặp
cơ hội.
Hãy
tưởng tượng bạn phải đi đón một người bạn chưa từng quen biết. Nếu bạn
không có một tấm ảnh của người ấy, thì có thể người ấy đã đi qua mà bạn
không thấy. Nhưng khi đã có tấm ảnh thì bạn có thể nhận ra người ấy ngay
khi thấy họ.
Một
khi tự tính tâm đã được khai thị cho bạn, và bạn đã trực nhận, tức là
bạn có chìa khóa để trực nhận lần khác. Nhưng, cũng như bạn phải giữ tấm
ảnh và nhìn nó luôn luôn, để có thể nhận ra người kia khi gặp họ; cũng
vậy, bạn phải tiếp tục an trú sự trực nhận tâm bản nhiên (tự tính tâm)
qua sự thường xuyên thực tập. Khi ấy sự trực nhận trở thành thâm căn cố
đế nơi bạn, thành một phần của bạn, đến nỗi gặp là nhận ra ngay không
cần bức ảnh. Vậy, sau khi thực hành sự trực nhận bản tâm đã thuần, thì
vào lúc chết, khi Ánh sáng Căn bản xuất hiện, bạn có thể nhận ra nó và
hòa nhập với nó một cách tự nhiên “như con thơ sà vào lòng mẹ”, như các
bậc thầy ngày xưa đã nói, hay như gặp bạn cố tri, hay như sông chảy vào
biển.
Sự
chấm dứt tiến trình tan rã và xuất hiện Ánh sáng Căn bản, đã mở ra một
chiều không gian hoàn toàn mới mẻ. Một cách giản dị để giải thích điều
này là so sánh với cách đêm chuyển thành ngày. Giai đoạn cuối của tiến
trình tan rã khi chết là kinh nghiệm màu đen của giai đoạn thành tựu. Nó
được mô tả “giống như bầu trời trùm trong màn đêm u tối”. Sự sinh khởi
Ánh sáng Căn bản là như ánh sáng trong bầu trời trống rỗng không mây
ngay trước lúc bình minh. Bây giờ, dần dần mặt trời pháp tính bắt đầu
lên cao trong vẻ tráng lệ huy hoàng của nó, thắp sáng mọi đường cong của
trái đất ở mọi hướng. Tia sáng của tính giác xuất hiện một cách tự
nhiên và tỏa ra thành ánh sáng và năng lượng.
Cũng
như mặt trời lên trong bầu trời trong sáng trống rỗng, sự xuất hiện ánh
sáng của bardo pháp tính cũng sẽ nổi lên từ không gian lan khắp của Ánh
sáng Căn bản. Cái tên chúng ta đặt cho sự trình diễn của âm thanh, ánh
sáng và màu sắc này là “hiện diện tự nhiên”, vì nó vẫn luôn luôn hiện
diện trong tâm, trong sự “trong sáng nguyên ủy”, vốn là nền tảng của
nó. Điều thực sự xảy ra là một tiến trình hiển bày, trong đó tâm và bản
chất căn để của nó dần dần trở nên rõ rệt. Bạt đô pháp tính là nột giai
đoạn trong tiến trình ấy. Vì chính qua bối cảnh ánh sáng và năng lượng
này mà tâm hiển thị trạng thái thuần tịnh nhất của nó là Ánh sáng căn
bản, để tiến đến sự hiển hiện của nó thành hình dạng trong bạt đô kế
tiếp, nghĩa là bạt đô tái sinh.
Một
điều rất đáng chú ý là vật lý học tân thời cũng đã chứng minh rằng khi
tra tầm vật chất đến chỗ cùng cực, thì nó được hiển bày dưới dạng một
biển năng lượng và ánh sáng. Nhà vật lý David Bohm nhận xét: “Dường như
thể vật chất là ánh sáng được cô đọng lại, được làm cho đông lại... tất
cả vật chất là một kết tinh của ánh sáng thành những mẫu mực di chuyển
qua lại với tốc độ trung bình chậm hơn tốc độ ánh sáng”. Vật lý học tân
thời cũng khám phá ánh sáng có nhiều phương diện: “Nó đồng thời là năng
lượng và cũng là thông tin – nội dung, hình dáng, cơ cấu. Nó là tiềm
năng của mọi sự”.
Bạt
đô pháp tính có 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn trình bày một cơ hội khác nữa
để giải thoát. Nếu cơ hội này không được bắt lấy, thì giai đoạn kế tiếp
sẽ mở ra. Sự giải thích ở đây về bạt đô pháp tính bắt nguồn từ mật điển
Dzogchen, trong đó nói rằng chỉ nhờ pháp tu cao cấp đặc biệt gọi là
Togal, người ta mới có thể hiểu ý nghĩa thực sự của bạt đô pháp tính.
Ngay cả trong Tử thư Tây tạng, vốn cũng thuộc giáo lý Dzogchen, chuỗi
liên tục bốn giai đoạn này cũng chỉ nói mơ hồ, hầu như hơi ẩn mật, và
không xuất hiện trong một cơ cấu trật tự rõ ràng.
Tuy
nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng danh từ chỉ có thể cho một vài khái niệm
về những gì có thể xảy ra trong bạt đô pháp tính mà thôi. Chúng vẫn chỉ
là khái niệm, khi mà hành giả chưa kiện toàn pháp môn Togal. Đến khi ấy
thì những gì nói sau đây sẽ trở thành một kinh nghiệm cá nhân không thể
chối cãi.
1. Hư không tan thành ánh sáng
Trong
bạt đô pháp tính, ta mang một cái thân bằng ánh sáng. Giai đoạn đầu của
bạt đô này là khi “hư không tan thành ánh sáng” .Thình lình ta ý thức
dến một thế giới âm thanh, ánh sáng và màu sắc. Tất cả những hình dạng
quen thuộc thường ngày đã hòa tan thành một phong cảnh ánh sáng lan
khắp. Ánh sáng này rực rỡ chói chang, trong suốt và nhiều màu, không bị
giới hạn bởi một chiều hướng nào, lóng lánh và luôn luôn chuyển động. Tử
thư Tây tạng gọi nó “giống như một ảo giác trên đồng trống trong hơi
nóng mùa hè”. Màu sắc của nó là biểu hiện tự nhiên của thể tính tứ đại
trong tâm: hư không màu xanh, nước trắng, đất vàng, lửa đỏ, và gió lục.
Những
tướng sáng chói chang ấy trong bạt đô pháp tính an trú lâu mau hoàn
toàn tùy thuộc mức độ an trú pháp môn Togal. Chỉ khi thực sự làm chủ
pháp môn này ta mới có thể ổn định kinh nghiệm ấy và sử dụng nó để đạt
giải thoát. Nếu không, bạt đô pháp tính chỉ lóe lên như một làn chớp,
mau đến độ ta không ngờ nó đã xẹt tới nữa. Cần phải nhấn mạnh một lần
nữa rằng chỉ một hành giả Togal mới có thể có sự trực nhận vô cùng quan
trọng này, đó là, những biểu hiện ánh sáng chói lọi này không hiện hữu
ngoài “tự tính giác” của tâm.
2. Ánh sáng tan thành Nhất thể: Cảnh giới Chư thiên
Nếu
người chết không thể nhận ra đấy là biểu hiện tự nhiên của Tính giác –
Rigpa, thì những quang sắc giản đơn khi ấy khởi sự hòa vào nhau, cô đọng
lại thành những điểm sáng hay những trái cầu bằng ánh sáng đủ cỡ, gọi
là tiklé. Trong những trái cầu sáng này, “những mandala chư thần an lạc
và phẫn nộ” xuất hiện, khi những trái cầu khổng lồ bằng ánh sáng tụ lại,
dường như chiếm trọn cả không gian.
Đây
là giai đoạn thứ hai, gọi là “ánh sáng tan thành nhất thể”, trong đó ánh
sáng xuất hiện dưới hình dạng những đức Phật hay chư thiên đủ cỡ, đủ
màu sắc hình dạng, cầm những đồ phụ tùng khác nhau. Ánh sáng họ chiếu ra
thật chói chang làm lòa mắt, âm thanh thì ghê rợn như ngàn tiếng sấm
sét nổi lên, còn những tia sáng thì như những tia laser đâm thủng mọi
sự.
Đấy
là “bốn mươi hai thần an lạc và năm mươi tám thần phẫn nộ” mô tả trong
Tử thư Tây tạng. Những vị này xuất hiện trong một giai đoạn vài “ngày”, ở
trong những cảnh giới (mandala) đặc biệt của họ gồm từng nhóm năm. Hình
ảnh này chiếm trọn bầu trời bên trong tâm thức ta với một cường độ mãnh
liệt mà nếu ta không nhận ra thực chất của nó, thì nó có vẻ đe dọa ghê
gớm. Ta bị ngốn ngấu trong nỗi sợ hãi kinh hoàng, và ta ngất xỉu.
Từ
chính ta và từ những vị thần ấy, có những chùm tia sáng nhỏ nhiệm tỏa
ra, hòa tâm ta với chư thiên. Vô số trái cầu sáng xuất hiện trong những
tia sáng càng tăng thêm rồi “cuộn lại”, khi tất cả chư thần đều tan vào
trong tâm ta.
3. Nhất thể tan thành Trí tuệ
Nếu ta vẫn chưa nhận ra được và an trú, thì giai đoạn kế tiếp mở ra, gọi là “nhất thể tan thành trí tuệ”.
Một
chùm tia sáng nhỏ nhiệm khác tuôn phát từ tim, và một ảo tượng khổng lồ
mở ra; tuy nhiên từng chi tiết vẫn sáng sủa rõ ràng. Đây là sự trình bày
những khía cạnh khác nhau của trí tuệ, hiện ra một lượt dưới dạng những
tấm thảm trải ra bằng ánh sáng và trái cầu sáng rực rỡ:
Đầu
tiên, trên một tấm thảm ánh sáng màu xanh lục, xuất hiện những trái cầu
sáng màu xa-phia xanh, gồm những nhóm năm. Phía trên đó, trên một tấm
thảm ánh sáng trắng, xuất hiện những trái cầu sáng chói lọi trắng như
pha lê. Trên nữa, trên một thảm ánh sáng vàng nhạt, xuất hiện những trái
cầu sáng màu vàng ròng, và trên nữa, một thảm ánh sáng đỏ nâng đỡ những
trái cầu sáng đỏ màu hổ phách. Trên tất cả là một trái cầu ánh sáng rực
rỡ như một cái lọng tỏa ra làm bằng lông chim công.
Sự
trình diễn những quang sắc sáng chói này là biểu hiện của năm trí: pháp
giới thể tính trí, giống như hư không cùng khắp; đại viên cảnh trí, bình
đẳng tính trí, diệu quan sát trí và thành sở tác trí. Nhưng vì trí
Thành sở tác chỉ kiện toàn được vào lúc giác ngộ, nên nó chưa hiện ra ở
đây. Bởi thế mà không có thảm ánh sáng màu lục và những trái cầu sáng,
tuy thế nó nội tại trong tất cả màu sắc khác. Điều được biểu hiện ở đây
là tiềm năng giác ngộ của ta. Thành sở tác trí chỉ xuất hiện khi ta
thành phật.
Nếu
bạn không đạt giải thoát ở đây nhờ an trú không tán loạn vào tự tính
tâm, thì những tấm thảm ánh sáng và những trái cầu sáng trong đó, cùng
với tự tính bạn, tất cả sẽ tan vào trong trái cầu sáng như cái lọng lông
chim công.
4. Trí tuệ tan thành Hiện diện tự nhiên
Điều
này báo hiệu giai đoạn cuối cùng của bạt đô pháp tính, “trí tuệ tan
thành hiện diện tự nhiên”. Bây giờ, toàn thể thực tại trưng ra trong một
cuộc trưng bày vĩ đại. Trước hết trạng thái thanh tịnh nguyên ủy xuất
hiện như một bầu trời mở rộng không mây. Rồi chư thần an lạc và phẫn nộ
xuất hiện, tiếp theo là những cảnh giới chư Phật, và dưới đó là sáu cõi
luân hồi. Tính cách bao la vô hạn của cảnh tượng này thực hoàn toàn
ngoài sức tưởng tượng thông thường của chúng ta. Mọi khả năng đều được
trình bày: Từ trí tuệ và gịải thoát cho đến mê mờ và tái sinh. Trong lúc
ấy, ta tự thấy mình có những khả năng nhận thức và trí nhớ sáng suốt,
chẳng hạn, với sự sáng suốt hoàn toàn, các giác quan không bị trở ngại,
ta sẽ biết các đời trước và đời sau, thấy suốt tâm địa người khác, và có
tri kiến về cả sáu nẻo luân hồi. Trong một thoáng, ta có thể nhớ lại
một cách sống động tất cả những giáo lý đã được nghe, và cả những giáo
lý chưa từng nghe cũng thức dậy trong tâm ta.
Toàn
thể cảnh tượng này sẽ tan biến trở lại vào tinh chất sơ nguyên của nó,
như một cái lều sụp đổ khi những sợi dây của nó đã bị cắt đứt.
Nếu
ta có được sự an trú bền vững để nhận ra những hiện tượng ấy là “tia tự
chiếu” từ Tính giác của tự tâm, thì ta sẽ được giải thoát. Nhưng nếu
không có kinh nghiệm của pháp tu Togal, ta không thể nào nhìn những vị
thần “sáng chói như mặt trời” ấy. Thay vì thế, ta đưa mắt nhìn xuống lục
đạo theo khuynh hướng tập quán nhiều đời trước. Chính những hình ảnh
lục đạo mà ta nhận ra, sẽ dụ dẫn ta trở lại vào lưới mê .
Trong
Từ thư Tây tạng, những thời kỳ nhiều “ngày” được dành cho những kinh
nghiệm về bạt đô pháp tính. Đây không phải là những ngày dương lịch hai
mươi bốn tiếng đồng hồ, bởi vì trong phạm vi pháp tính, chúng ta đã hoàn
toàn vượt ra ngoài mọi giới hạn thời không. Những “ngày” này là “ngày
thiền quán”, và ám chỉ thời gian mà chúng ta có thể an trú không tán
loạn trong tính giác của tâm, hay trong trạng thái nhất tâm. Nếu không
có thực tập an trú vững vàng trong thiền định, thì những ngày ấy có thể
ngắn như một chớp nhoáng, và sự xuất hiện chư thần an lạc và phẫn nộ sẽ
mau chóng đến độ ta không thể ghi nhận được.
Một
gợi ý khác để nhìn bạt đô pháp tính là, hãy xem nó như thế giới nhị
nguyên được hiển bày trong hình dạng thuần tịnh tối hậu của nó. Chúng ta
được đưa ra phương tiện để giải thoát, song đồng thời chúng ta cũng bị
dụ dẫn bởi tiếng gọi của những bản năng và tập quán. Ta kinh nghiệm năng
lực thuần tịnh của tâm linh, mà đồng thời cũng kinh nghiệm sự rối ren
mờ mịt của nó. Dường như thể ta đang được nhắc nhở phải làm một quyết
định, phải chọn lựa giữa đường này hay đường kia. Dĩ nhiên, chúng ta có
được cái quyền chọn lựa ấy hay không, còn tùy thuộc vào mức độ tu tập
của ta trong lúc sống.