NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VỀ NHÂN QUẢ
DÙNG SÚNG BẮN VÀO CHÙA
Chuyện này do anh
Nguyên, phó viện trưởng đại học Tây Nguyên và Đại Học Tổng Hợp kể tại sân
thượng Việt Nam Phật Quốc Tự - India, khi đoàn đang uống trà vào lúc 16 giờ 30
ngày 12 tháng 11 năm 2010.
Vào những năm
1977-1978 Tây Nguyên vẫn chưa yên hẳn vì mặt trận Fulro và 1 số lính cách mạng
vẫn còn đang hoat động. Sau thời kỳ chiến tranh một số lính đi tuần, mỗi khi đi
ngang qua chùa miếu là các anh hay xả đạn bắn bừa vào chùa chiền nơi linh
thiêng, một phần là do thú vui, một phần vì sợ có kẻ núp trong đó. Một số sĩ
quan chỉ huy có tâm khuyên không nên bắn súng vào những nơi linh thiêng tâm
linh đó, khi được khuyên thì các chú lính trẻ cũng dạ dạ vâng vâng… nhưng khi
không có các cấp trên đi chung thì họ vẫn xả súng bắn vào chùa, miếu, bắn rồi
cười đùa rồi cho đó là chỗ thờ Phật, Trời mê tín dị đoan.
Sau khi mặt trận
Fulro ở Tây Nguyên hoàn toàn tan rã, các chú lính này được trở về đời sống
thường dân, một số thì được thăng chức, một số thì được cử vào các công sở ban
nganh khác. Khoảng 10 năm sau, anh Nguyên nhớ lại những đồng đội, anh đến thăm
họ. Than ôi, từng người lần lượt đã chết trong những tai nạn thảm thiết không
sao ngờ đến được, nhắc đến rất đau lòng. Ông bà xưa đã dạy nhân nào quả đó, gieo
gió thì gặp bão.
PHÁ ĐÌNH
CHÙA MIỄU BỊ CHẾT THÊ THẢM
Câu chuyện này được
kể vào lúc cùng đoàn các nước uống trà ngắm hoàng hôn tại Việt nam Phật Quốc Tự
- India vào lúc 10 giờ ngày 12 tháng 11 năm 2010.
Anh Hùng sinh ra và
lớn lên tại Hà nội, anh đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử nơi đất Thăng Long
nghìn năm này. Sau khi Hà Nội được giải phóng, một số người đã hiên ngang đập
phá chùa chiền, những nơi tôn nghiêm thờ phượng, họ còn chiếm luôn đất chùa làm
của riêng. Rồi năm tháng trôi qua, anh Hùng đã quan sát thật kĩ những con người
một thời đã từng tham gia đập phá chùa chiền, tất cả điều bị chết trong những
tai nạn thật khủng khiếp. Tai nạn xảy ra hết sức lạ lùng mà mọi người không ngờ
là như vậy.
Như có người đi qua
cầu thì bị gãy, rồi bị cây nhọn đâm chết giống như cá bị đâm để nướng. Cây cầu
này hằng ngày có hàng trăm người qua lại mà chẳng có ai bị chết, chỉ có anh này
đi qua thì lại xảy ra tai nạn kinh hoàng như vậy.
Còn những người
chiếm đất chùa đem bán cho kẻ khác kiếm được rất nhiều tiền cuộc sống trở nên
giàu có phong lưu thì một ngày kia như thường lệ họ đi tập thể dục, bách bộ
trên hè phố, không biết vì lí do gì có một chiếc xe tải mất tay lái lao lên
trên hè phố cán chết 2 ông bà đứt cả đầu, nhưng thân thể vẫn còn nguyên vẹn
không bị gì hết. Gia đình này lại phải gánh chịu thêm một bi kịch nữa, tang lễ bố
mẹ chưa xong thì con cái của ông bà này vì tranh giành của cải tài sản mà đánh
nhau dữ dội khi quan tài chưa được an táng. Những người dân ở gần nhà thì cho
rằng họ phải trả quả báo trong đời này không cần đến đời sau vì gây quá nhiều
nghiệp quả, nhất là việc đi chiếm đất chùa rồi bán.
TRẢ NGHIỆP SÁT SANH
(
Lời kể của Ni Sư Giác Liên, Trụ trì chù Phước Hải, Vĩnh Long)
Năm 1958, có cậu Hiếu
bị tật bẩm sinh, mặt đưa ra phía sau lưng, đầu lắc lư, tay chân cong quẹo không
đi được, bò lết tại chợ Trà Vinh ăn xin.
Lạ một điều là ngày nào cậu cũng khóc la: Bà con ơi, đừng sát sanh! Tôi
là con bò nè …! Người ta giết tôi, dòng họ tôi chết hết rồi … Tiếng khóc của
cậu rống lên như bò bị thọc huyết.
Rất nhiều người biết
lai lịch của cậu Hiếu. Ông nội của cậu ở
Ba-si, Ba-xe thuộc tỉnh Trà Vinh chuyên nghề làm thịt bò bán ở chợ, giàu có dư
ăn. Có một ngày ông cột con bò cái định khuya làm thịt, mai bán chợ sáng. Ngay đêm hôm đó ông mơ màng thấy người đàn bà
đến khóc nói: xin ông đừng giết tôi, để tôi sinh con rồi ông hãy giết.
Đêm ấy ông thấy
hiện tượng ấy 3 lần, ông nói cùng vợ. Bà khuyên ông không nên làm thịt con bò
này, nhưng ông không nghe. Khuya hôm đó, như thường lệ, ông đập đầu con bò. Con
bò này la lớn hơn những con bò trước, nó chống cự, giãy giụa đến đứt dây thừng,
và đến khi gần chết, đầu nó cứ mãi lắc lư.
Cũng ngay đêm hôm
đó, con dâu ông sinh đứa cháu nội trai dị tật: sứt môi, mắt lộ, đầu quay ra sau
lưng, chân lại ở trước. Ông lo chạy chữa thuốc thang cho cháu tốn hao cả tài
sản vẫn không hết. về phần gia đình ông thì cả nhà mang trọng bệnh kỳ lạ, sau
đó chết hết. Tôi nghiệp đứa bé chỉ mới
mười tuổi dị tật phải đi ăn xin, đầu cứ lắc lư, không quên tự xưng mình là Bò.
ÂM MƯU CHIẾM
DỤNG TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
(
Lời kể của Ni Sư Giác Liên, Trụ trì chù Phước Hải, Vĩnh Long)
Ông Bảy là người
giàu có ở Trà ôn. Đất của ông cò bay thẳng cánh. Ông góa vợ từ lâu, thường ra
chợ Trà Ôn, kết thân cùng ông Tỷ bán tạp hóa. Ông Bảy thích vợ ông Tỷ, ông Tỷ
biết ý ông Bảy nên bàn với vợ : “Ông Bảy đã 80 tuổi rồi, chẳng sống bao lâu,
nếu em là vợ của ông ấy, khi ông ta chết, tất cả tài sàn của ổng sẽ là của em…”
Lúc đầu vợ ông Tỷ
không thuận, nhưng vì chồng thiếu nợ ông Bảy quá nhiều, nên bà quyết định tạm
xa chồng con một thời gian … để thực hiện mưu này.
Ông bà Tỷ đã thỏa
thuận xong, sau đó lập mưu kế ra tòa ly dị. Tòa xử Bà Tỷ được chia gia tài là
tiệm tạp hóa và có trách nhiệm nuôi con. Ông Tỷ thì được số tiền lớn và có cuộc
đời tự do.
Như mưu kế đã lập, sau
khi ly dị ông Tỷ, bà Tỷ được ông bảy cưới chính thức làm vợ. Đám cưới tổ chức
rất linh đình, đãi tiệc suốt ba ngày ba đêm, lớn nhất Trà Ôn. Mời cả chính
quyền địa phương tham dự. Bà con hàng xóm đi xem đám cưới rất đông, vì người
đàn bà tái giá đặc biệt chỉ 40 tuổi lấy ông chồng giàu 80 tuổi.
Cưới được vợ, Ông
Bảy phấn khởi hủy luôn số tiền mà ông Tỷ nợ trước kia. Bà Tỷ còn nói với ông
Bảy là trả lại tiệm tạp hóa cho ông Tỷ để ông
nuôi con, Bà có tự do hạnh phúc với ông Bảy.
Bảy ngày sau, thật
không ngờ, bà Tỷ trúng gió chết. Mới đám cưới tiếp tục đám tang.
Tang lễ cho bà Tỷ
xong, ông Bảy bắt đầu kiện ông Tỷ để lấy lại tiệm tạp hóa, vì ông Bảy bây giờ
là chồng chính thức trên danh nghĩa của bà Tỷ. Tòa xử ông Bảy thắng kiện. Ông
Bảy đến đến chợ Trà Ôn lấy lại tiệm tạp hóa, đuổi ông Tỷ ra ngoài!
Ông Tỷ mưu khá sâu
nào ngờ sự việc đảo ngược, khí uất trào dâng, mất vợ mất luôn cửa tiệm, cha con
lang thang khổ sở không có mái nhà che thân. Ông loạn tâm thần, lâu lâu lại đến
đạp cửa tiệm tạp hóa và miệng nói nhảm mãi câu chuyện cùng vợ mưu tính của
mình. Ông Tỷ cười khóc trong cơn điên loạn, và xin ăn tại chợ Trà Ôn cho đến
khi chết. Câu chuyện quả báo này, vẫn còn được nhắc đi nhắc lại tại địa phương
cho đến ngày nay.
SƯU TẬP DA
THỊT …
Truyện này do chị
Nga kể lại tại sân thượng VNPQT vào ngày 12/11/2010.
Chị làm việc trong
một bệnh viện ở Hà Nội. Chị nhớ rất rõ, có một vị bác sĩ T. rất nổi tiếng, vị
bác sĩ này chuyên ghép da mặt người này sang người khác rất thành công. Ông hay
có thói quen là rất thích đi lột da của các trẻ sơ sinh đã chết hoặc những người
đã chết. Ông tẩm thuốc rồi đem vào phòng lạnh để khi nào có người cần thì ông
ghép, nhưng phải trả cho ông một số tiền hậu hĩnh, nhờ vậy ông có rất nhiều
tiền và nhiều người biết đến không những ở Việt Nam mà nổi tiếng khắp nơi trên
thế giới.
Gia đình ông sống
rất hạnh phúc. Ông có được 1 đứa con gái vừa đẹp lại thông minh cũng nổi tiếng
ở Hà Nội. Lúc Cô bé mới 13 tuổi chưa biết yêu là gì vậy mà không biết bao nhiêu
chàng trai lớn nhỏ săn đuổi, tán tỉnh và chọc ghẹo. Một hôm trên đường đi học về
nhà, cô bị một đám thanh thiếu niên chặn đường trêu ghẹo. Cô hốt hoảng định bỏ
chạy thì trong đám có một thanh niên tạt vào mặt cô một chai axit, cô đau đớn
bỏ luôn tập sách ngoài đường chạy khắp nơi trong làng kêu cứu. Dân làng nghe
tiếng cầu cứu vội chạy tới xem thì bọn thanh thiếu niên kia đã trốn đi đâu hết.
Thấy vậy bà con dân làng gọi xe đưa cô bé đến bệnh viện cấp cứu. Vào phòng cấp
cứu các y tá, nhân viên làm trong bệnh viện mới phát hiện đó là đứa con gái duy
nhất của vị bác sĩ T. đang nổi tiếng ở Hà Nội, cho nên tất cả nhân viên bác sĩ
chăm sóc cô bé rất tận tình, sau đó thì gọi điện báo tin cho vị bác sĩ đó biết.
Khi ông đến nơi, thấy con gái mình bị phỏng quá nặng ông chết lặng cả người, lập
tức ông đưa con mình vào phòng đặc biệt, đem những tấm da tốt nhất mà ông gìn
giữ từ lâu để ghép cho con gái mình. Việc cấy ghép không thành công lắm vì có
chỗ ghép được còn có chỗ không thành, thế là ông đưa con gái mình đến những
bệnh viện Âu Mỹ để chữa trị, mất rất nhiều thời gian và tiền của, nhưng con gái
ông không thể bình phục được như xưa, nhất là tinh thần, cô bé sống trong nỗi
sợ hãi, lo âu, trầm mặc. Hằng ngày cô bé phải gánh chịu từng cơn đau đớn do
những nơi cấy ghép da mới mà không biết là da của ai thay vào. Có thể nói đó là
một tai nạn to lớn đã đến với vị bác sĩ nổi tiếng ấy.
6 NGƯỜI CON GÁI CỦA VỊ LÃNH ĐẠO TÔN GIÁO
LÀM NGHỀ BÁN MÌNH
Chuyện này do cô
Diệu An ở Pháp kể lại, nhân dịp phái đoàn tu tập ở Việt Nam Phật Quốc Tự -
India từ ngày 01/11 đến 01/12/2010. Cô kể vào lúc 13h ngày 06/11/2010 tại
VNPQT.
Sau ngày 30/04/1975
gần nhà cô Diệu An ở Phú Nhuận Sài Gòn, có Một gia đình sống kín đáo nhưng họ
rất phong lưu. Gia đình có sáu người con gái đều đẹp và học giỏi. Sáu cô học một
ngôi trường mà trước ngày 30/04/1975 chỉ có những người giàu có mới đủ điều
kiện gửi con mình vào học, vì học phí rất cao, học phí đối với một học sinh còn
cao hơn một viên chức hạng trung bình. Có thể nói gia đình họ phải có một gia
tài lớn lắm !
Vào thời đó trai gái
được đi học trường Tây nằm ngay trung tâm Sài Gòn có thể xem là người giàu có
và có đạo đức. Những trường này nổi tiếng về cách đào tạo giáo dục khá kỹ lưỡng
và chu đáo được chính phủ Pháp tài trợ từ lớp 1 đến 12, sau khi học sinh học
xong trường này ra tìm việc rất dễ dàng vì các công ty luôn săn đón và mức
lương cũng khá cao, còn học sinh nào học xong muốn tiếp tục con đường học tập thì
đi ra nước ngoài học cao hơn. Phần lớn những người du học đều thành công tốt
đẹp, chứ ít có ai học xong các trường này ra mà thất nghiệp cả. Học xong trường
này bằng cấp rất có giá trị ở các nước Tây phương cũng như tương đương với bằng
cấp của nước Pháp mà không cần phải thi lại.
Trở lại câu chuyện
6 người con gái gần nhà cô Diệu An. Khi cha các cô bị phát hiện là linh mục của
nhà thờ ở Biên hòa Đồng Nai. Sự việc đó có một thời gian gây chấn động ầm ĩ ở Sài
Gòn và vùng Biên Hòa, các con chiêng trong Đạo đã quyết liệt tố cáo và đòi trục
xuất vị linh mục đó. Thế rồi nhờ sự khéo léo của giáo hội và tòa thánh, lần lần
câu chuyện ấy cũng trôi vào lãng quên, 6 cô con gái chỉ sống với mẹ mà không
thấy mặt cha, từ đó mọi người càng chú ý đến 6 cô hơn. Mỗi ngày mỗi cô càng lớn
thì càng xinh đẹp hơn, cho nên thu hút rất nhiều chàng trai…Nhưng rồi mọi người
trong xóm đều bàng hoàng kinh ngạc khi biết 6 cô này đều làm nghề bán mình hay
người dân quê thường gọi là làm đĩ mà xã hội Việt Nam bao đời rất khinh khi. Câu
chuyện thương tâm này mỗi ngày mỗi lan rộng và mọi người cứ bâng khuâng tự hỏi,
với trình độ, trí thức như vậy thì nguyên nhân nào thúc đẩy 6 cô gái đi vào con
đường mà chẳng ai muốn vào. Có phải đây là định luật nhân quả cha mẹ làm các
con phải gánh chịu?
PHÍ PHẠM ĐỒ
ĂN TRẢ NGHIỆP CHẾT ĐÓI
Chuyện này do chị Lê
Thị Hoa trong phái đoàn của Úc kể lại. Đây là chuyện có thật xảy ra ngay trongchính
gia đình chị. Những kỉ niệm từ khi chị mới 4 tuổi cho tới nay chị nhớ rất rõ
mặc dù đã gần 50 năm trôi qua, nhưng sự thật về những câu chuyện nhân quả xảy
ra trong gia đình chị thì không bao giờ phai nhạt. Chị kể lại mà thỉnh thoảng
ngưng lại vì đôi dòng nước mắt cứ tuôn chảy, có lẽ vì những nghiệp báo thương
tâm xảy ra trong gia đình chị năm xưa.
Nhà chị có 6 anh
em, 2 trai , 4 gái. Gia đình vừa đủ sống không thiếu thốn chi hết. Ba chị
thường đi làm về trễ, nhiều lúc ba chị bị bạn bè rủ đi nhậu tới khuya mới về, thế
là đồ ăn do má chị để lại cho ba hôm sau đều bị ôi thiu, vì thời đó nhà chị
chưa có tủ lạnh nên đồ ăn không thể để lâu được. Mỗi khi đồ ăn để lại bị ôi
thiu má chị phải đem đi đổ với vẻ mặt buồn phiền, khi đổ má chị thường kêu lên
“trời ơi…trời ơi” rồi đổ. Cử chỉ hành động này kéo dài nhiều năm nhiều tháng. Sau
khi chị lớn lên thì gia đình ly tán, ba thì đi lấy vợ khác có thêm 7 người con,
cuộc sống với má mới và 7 người con vô cùng vất vả, cơm không đủ ăn áo không đủ
mặc, đời sống nghèo đói hiện ra rất rõ ràng trên từng khuôn mặt mỗi người trong
gia đình. Lúc đó, chị mới 19 tuổi mà phải bước chân vào đời làm thuê, làm mướn
để kiếm sống, dành dụm được chút ít nhưng thấy hoàn cảnh của ba thiếu thốn trăm
bề nên chị cầm lòng không đặng, dù không có nhiều tiền nhưng chị vẫn âm thầm
giúp đỡ ba, nhưng phải thật khéo léo vì sợ dì và mấy đứa con làm khó Ba. Mỗi
tuần chị đều mua thịt, gạo đến cho Ba, lần nào đến thăm chị đều cho ba chị 20
đồng, má mới 30 đồng để dì khỏi phân bì. Nhưng khi Dì quay mặt đi thì chị nhanh
tay nhét vào túi ba thêm 50 đồng nữa, phòng hờ khi Dì có lấy của Ba 20 đồng thì
Ba vẫn còn 50 đồng mà xài. Thỉnh thoảng các anh em than đói nhà không còn gạo, thế
là chị phải sang nhà bên mượn đỡ để anh em sống tạm qua ngày. Cuộc sống túng
thiếu của gia đình ba chị mỗi ngày trầm trọng hơn không thấy dấu hiệu khá lên. Một
hôm chị đến thăm ba thì thấy ba đang nhai các mắt mía của người ta bỏ. Chị hỏi
tại sao ba lại ăn những thứ này? Ba chị đáp ăn để sạch miệng. Sau này chị mới
biết vì quá nghèo đói nên ăn mắt mía mà sống qua ngày. Cuối cùng ba chị chết trong
cảnh nghèo đói thật đau khổ!
Má chị thường nói
có lẽ lúc trước đồ ăn để cho ba mày ổng không ăn làm cho ôi thiu rồi đổ đi cho nên
bây giờ phải trả quả báo chết trong sự nghèo đói. Chị kể tới đây thì khóc sụt
sùi trong khi xe đang chở phái đoàn trên những đoạn đường gồ ghề của xứ Ấn. Chị
nói thêm về người anh thứ 2 của chị cũng bị nghèo đói, bệnh tật chết trong nỗi
cô đơn vì tính bỏn xẻn với chính gia đình và các người khác. Anh thứ 2 rất
thông minh, bặt thiệp khó ai trong gia đình chị sánh bằng. Sau khi lập gia đình,
anh làm ăn rất khá, tiền của dư dả xây cất nhà cửa khang trang 5, 6 lầu. Tiền
bạc vô như nước thế mà anh chưa bao giờ giúp đỡ ba má hay anh em trong gia đình
dù đang gặp khó khăn, không ai có thể ăn được của anh dù 1 đồng. Anh chỉ biết
gom góp của người khác cho mình và gia đình anh, anh không cần quan tâm đến đau
khổ của ai cả. Tuy anh rất giàu có, nhưng cái gì có lợi thì anh tìm cách đưa về
cho gia đình Anh, dù đó là anh em ruột hay bất cứ người nào khác, không bao giờ
anh biết giúp đỡ dù chuyện nhỏ nhặt. Đối với mọi người anh đối xử rất tệ hại. Càng kể chị càng thấy đau lòng cho 1 con người
đặc biệt này.
Ngay khi ba chị
chết anh tự động đến trại hòm và tự đặt mua hòm loại tốt nhất, đẹp nhất để về
lịm ba nhưng anh lại bắt chị trả tiền. Chị không đồng ý và chỉ lấy loại hòm
hạng nhì, chị chấp nhận trả tiền. Đến khi làm đám cho ba, anh gọi thợ chụp hình
đến để chụp ảnh cũng nói chị trả tiền. Lần này chị không trả thì anh lại có cử
chỉ hành động không hay. Những năm 1978 tình hình kinh tế đất nước Việt nam còn
nhiều khó khăn, mặc dù thời điểm ấy anh rất giàu, tiền của dư thừa nhưng anh không
bao giờ giúp đỡ ai kể cả anh em trong gia đình mình. Sau khi chị vượt biên sang
nước Úc vật lộn với cuộc sống đất khách quê người không ai thân quyến, suốt 25 năm
sống ở xứ người, đời sống từ từ ổn định. Khi chị trở về lại Việt nam sau 25 năm
xa cách, nhìn đất nước đổi thay chị thấy lòng vui vui. Những con người trước
kia rất nghèo thì nay đã trở nên giàu có cuộc sống ổn định ấm no.Nhưng người
anh thứ 2 của chị năm xưa giàu có thì nay lại trở thành một người không mái nhà
che thân vì nhà cửa tiền bạc của anh đã bị vợ anh cướp đoạt và đuổi anh ra khỏi
nhà.
Chị về tìm những
người thân năm xưa, tìm nhiều nơi hỏi nhiều người mới biết anh thứ 2 đang nằm
nhà thương vì bị bệnh lao thời kì thứ 3. Gặp được mặt chị anh khóc nức nở như một
đứa trẻ con mất mẹ. Anh nói với chị bây giờ anh mới thấy quả báo của đời người,
đúng là quả báo nhãn tiền xảy ra ngay trong gia đình anh.
ĂN HIẾP VÀ CƯỚP CỦA HÀNG XÓM
Có một gia đình khá
đặc biệt dữ tợn gần nhà chị, không thấy mặt mũi chồng bà đâu cả chỉ biết bà có
2 gái, 5 trai, đứa nào cũng ngang ngược hung dữ như bà. Chị còn nhớ khi còn rất
nhỏ chị đang làm con cá thì bà đi ngang mắng con gái gì mà không biết làm cá, đồ
hư quá…Chị rất ngạc nhiên, tự nhiên bị bà này mắng chửi vô cớ. Ở trong xóm
người nào cũng bị bà bắt nạt, la mắng. Ai cãi lại thì bà cùng mấy đứa con hung
dữ kéo tới hành hung, chửi bới, quấy rầy, kể cả đe dọa với nhiều hình thức khác
nhau. Chị đã chứng kiến nhiều lần bà và đám con bà đã dùng dao, mã tấu kiếm
người khác mà gây sự. Phần lớn mọi người điều muốn có cuộc sống bình yên, kiếm
cơm lo cho gia đình nên cắn răng nhẫn nhịn với hành động ngang ngược thô bạo
của bà. Nếu sống độc thân không có gia đình thì mọi người đã lên tiếng và phản
kháng lại với bà và mấy đứa con rồi. Lúc đó chị nghĩ bà này và mấy đứa con có
ngày cũng lãnh quả báo cho sự ngang tàng hung dữ của mình.
Chị nhớ rất rõ mấy
người chở củi từ miền Tây lên đậu gần nhà bà, bán xong phải trả tiền cho bà và
mấy đứa con, những người mua củi cũng phải trả như vậy, bà gọi đó là tiền hoa
hồng. Người bán người mua cũng phải trả tiền hoa hồng cho bà vì bà đã đút lót
tiền bạc cho công an, cảnh sát, chính quyền địa phương nên bà và mấy đứa con tự
tung tự tác lộng quyền như vậy. Sự lộng hành của bà chỉ được 6 năm thì bà qua
đời, nguyên nhân cái chết cũng thê thảm không được bình thường. Thế là sau cái
chết của bà, những thảm kịch lại từ từ xảy ra trong gia đình của bà sau năm
1975. Mọi người vượt biên, bà tìm cách chiếm đoạt đất đai nhà cửa để giành cho
con út bà ở, còn nhà chính thì bà cho con thứ 2 bà ở, mấy đứa còn lại thì có vợ
con đùm đề phải ở nhà thuê. Thế là mấy đứa kia hợp lại yêu cầu 2 thằng kia phải
bán 2 căn nhà để chia tài sản nếu không bán bọn nó sẽ cầm dao mã tấu tới xử lý.
Còn mấy đứa dâu và con cháu thì đem bà ra nguyền rủa, sao bà có thể phân chia
không đồng đều công bằng như vậy…Thằng út là khôn lanh nhất nó tìm cách bán căn
nhà rồi chờ nửa đêm nọ nó dẫn vợ con trốn đi nơi khác sinh sống nên không bắt
nó phân chia tài sản được. Chỉ còn thằng thứ 2 nên mấy thằng kia tập trung bắt
nó phải bán ngay không để nó trốn đi như thằng út được. Ba đứa qua nhà hàng xóm
nhờ đến làm chứng là căn nhà kia là tài sản chung của gia đình họ, nhưng trong
xóm không 1 ai dám đứng ra làm chứng vì sợ liên lụy trả thù, trả oán.
Thời gian cứ lặng
lẽ trôi, thằng thứ 2 cũng tìm cách đúc lót chính quyền và cũng bán được căn nhà
rồi cùng vợ con trốn đi biền biệt không ai biết tin tức. Mấy đứa còn lại không
lấy được đồng nào từ 2 căn nhà đó nên cùng nhau chửi bởi nguyền rủa bà không
lời nào tả xiết. Thời gian trôi đi đời sống của họ càng ngày càng túng thiếu
đói khổ, và cuối cùng con cháu của bà có đứa phải mang tù tội, bị giam cầm, gia
đình tan nát, có đứa thì bị tai nạn giao thông, rồi lại tật nguyền.
Đó là quả báo hiện
tiền ngay trong thời hiện tại mà chị đã chứng kiến theo dõi gần 12 năm.
HỐT VÀO MÀ
KHÔNG CHO RA
Sau đây là câu chuyện
sự thật 100 phần trăm xảy ra ở tu viện miền Trung Việt nam, được một người tin
nhân quả và tin Phật kể lại.
Có một ni sư lớn
tuổi, cũng có thể gọi là sư Bà. Sư Bà tu khá lâu nên được mọi người biết và
ngưỡng mộ. Sư Bà này rất tự hào là mình dòng dõi vua chúa, tôn thất, tôn tằng
tôn nữ… Bà rất bặt thiệp thông minh, cho rằng mình học cao hiểu rộng hơn mọi
người. Bà được mọi người cung phụng hầu hạ nên được rất nhiều người biếu tặng
thức ăn và những đồ cao cấp. Ai biếu tặng bao nhiêu bà cũng nhận và đem cất vào
phòng làm của riêng, chưa bao giờ bà cho chúng trong chùa một hộp sữa, một chai
nước tương hay một hũ chao… Thỉnh thoảng bà gọi con cháu đến chơi và đưa đồ người
ta biếu Bà và kêu đem về nhà. Lấy hoài mấy đứa cháu Bà cũng ngại nên người nhà
và con cháu chỉ lâu lâu mới ghé thăm thôi. Một điều nữa vô cùng quan trọng, bà
đợi đến trưa mọi người không ai để ý, bà nhờ người kêu mấy người thương nhân ở
dưới chợ lên để bán những đồ biếu tặng. Có người ngại đồ cúng của chùa nên
không mua hoặc từ chối. Nhưng cũng có một số người vẫn mua vì giá quá rẻ. Bà có
đủ loại đồ cao cấp như sữa Ensure do nước ngoài sản xuất dành cho người già giá
trên 200.000 đồng, vậy mà bà chỉ bán vài chục ngàn một lon lấy tiền để dành. Mỗi
bữa ăn bà được thị giả bưng vào phòng riêng một mâm thức ăn đầy đủ, vậy mà ngày
nào bà cũng chạy ra phòng ăn của đại chúng lấy thêm thức ăn. Mọi người đều thấy
ngạc nhiên nhưng không ai dám nói vì sợ bị sư bà trừng phạt. Sự việc kéo dài
khá nhiều năm ngày nào cũng vậy, đồ ăn do chị hậu cần đem lên ăn không hết để
thừa, nhưng ngày nào bà cũng phải lấy thêm. Ăn không hết bà đem phơi khô để dành.
Nhiều quá hôi thúi không có chỗ để, lâu lâu bà đem ra thùng rác đổ. Việc này có
rất nhiều người tận mắt chứng kiến, nhưng không ai dám nói. Tuy được chăm sóc
rất chu đáo, quà người ta biếu cũng khá nhiều, nhưng tình hình sức khỏe của sư
bà ngày càng yếu đi, đúng là hốt vào
nhiều mà không chịu cho ra nên trái với quy luật tự nhiên hay có thể nói là quả
báo .
Nhiều đệ tử thân
thích thấy bà ốm quá sức khỏe không tốt nên gửi tiền thêm cho chị nấu bếp để làm
thêm vài món đặc biệt để Sư Bà ăn có sức khỏe. Không bao lâu, việc đó sư bà
phát hiện, vì mỗi bữa ăn có những món lạ. Bà cho người gọi chị nhà bếp lên hỏi
mới biết những món đó chỉ nấu riêng cho Sư bà dùng. Bà đề nghị chị nhà bếp
không được nấu nữa, vì Sư Bà sợ phải trả thêm khoản tiền. Hiểu ý nên chị nhà
bếp thưa Sư Bà yên tâm, tất cả các món nấu cho Sư Bà đã có người tài trợ. Nhưng
bà vẫn không chịu, vì Sư Bà nghi ngại sợ phải trả thêm tiền. Không biết vì sao
tiền của thì nhiều nhưng sức khỏe của Bà ngày một yếu đi, bà không bao giờ chia
sẻ hay giúp đỡ kẻ khác dù là ai, trừ dòng họ bà con thân yêu của Sư bà mà thôi.
Câu chuyện hốt vào
mà không cho ra còn nhiều đoạn hấp dẫn, có dịp có thêm tin tức xác thực, chúng tôi
sẽ kể tiếp vì cuộc đời của Sư Bà chưa kết thúc.