PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Hoang Phong biên soạn và chuyển ngữ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2012
(ấn bản thứ hai)
NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA LÁ CỜ PHẬT GIÁO
Phật giáo là một tôn giáo khiêm tốn, chú trọng vào tâm linh
và trí tuệ, nhắm vào mục đích giải thoát con người khỏi thế giới biến
động và khổ đau. Phật giáo không chủ trương tranh giành uy quyền, củng
cố thế lực hay bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Vô thường
này. Phật giáo cũng không xem nặng hình thức màu mè và biểu tượng, như
vậy thì lá cờ Phật giáo đã giữ vai trò gì và vị trí của nó như thế nào
trong bối cảnh của Đạo Phật ngày nay. Suốt hơn hai ngàn năm trăm năm
lịch sử Đạo Pháp, lá cờ Phật giáo đã xuất hiện từ lúc nào và ở đâu, ý
nghĩa của nó là gì ?
Nguồn gốc lá cờ Phật
giáo
Lá cờ Phật giáo ta thấy ngày nay ra đời vào năm 1880 ở Tích
Lan (Sri Lanka). Người có ý kiến mang đến cho Phật giáo một lá cờ là một
cựu đại tá quân đội Mỹ : Ông Henry Steel Olcoott.
Ông Olcoott đặt chân đến Tích Lan lần đầu tiên vào năm 1879,
và ngay sau đó ông trở nên hết sức say mê Phật giáo. Năm 1880 ông trở
lại Tích lan và trình lên Ủy ban Phật giáo Colombo đề nghị tạo
cho Phật giáo một lá cờ. Hình thức và màu sắc của lá cờ xuất phát từ trí
sáng tạo của ông Olcoot, dựa vào sáu vòng hào quang của đức Phật và các
màu sắc của cầu vồng. Lá cờ cũng tượng trưng cho Lục đạo, tức sáu
đường tái sinh hay sáu thể dạng của tất cả chúng sinh trong cõi luân
hồi.
Lá cờ được chính thức chấp nhận trên đất Tích lan vào dịp
Phật đản ngày 28 tháng 4, năm 1885. Tuy nhiên mãi đến ngày 25 tháng 5,
năm 1950, trong lần hội nghị Phật giáo quốc tế ở thủ đô Colombo (Tích
lan), với 26 quốc gia tham dự, lá cờ ngũ sắc mới được chính thức và nhất
trí chấp nhận, nói lên sự thống nhất của Phật giáo thế giới.
Ngày nay, một lá cờ chung cho toàn thể Phật giáo - biểu
tượng của Hòa bình, Từ bi và Trí tuệ, không phân biệt màu da và chủng
tộc, không phân biệt giữa con người và tất cả những sự sống khác - đã
phất phới trên lãnh thổ của hơn 50 quốc gia trên thế giới. Ngày 24 tháng
2, năm 1951, tỳ kheo Tô Liên, đại diện Ủy ban Phật giáo thế giới tại
Việt Nam, đi dự hội nghị Colombo đã đích thân đem lá cờ quý báu này về
cho quê hương chúng ta.
Hình thức lá cờ
Lá cờ hình chữ nhật, chia đều thành sáu phần theo chiều dọc.
Màu sắc gồm các màu của cầu vồng, nhưng chỉ có năm màu được chọn : xanh
dương, vàng nhạt, đỏ, trắng, màu cam (hay vàng nghệ), sọc thứ sáu của lá
cờ tượng trưng cho sự tổng hợp của các màu vừa kể. Vì thế, sọc thứ sáu
lập lại tất cả năm màu, nhưng xếp theo chiều ngang.
Tài liệu liên quan đến lời đề nghị nguyên thủy của ông H.S.
Olcoott giải thích về lá cờ do ông đề nghị quả thật là khó tìm. Có thể
các tài liệu này vẫn còn được lưu giữ trong văn khố của Tích lan (?).
Bài viết này dựa vào một số tư liệu gần đây của Tây phương. Trong các
tài liệu ấy, cách giải thích về màu sắc có vẻ kém mạch lạc hoặc dùng
những từ không phù hợp với Đạo Pháp cho lắm. Sau đây là tóm lược ý nghĩa
tượng trưng của các màu sắc :
1) Màu xanh dương tượng trưng cho « Thiền định ».
2) Màu vàng nhạt tượng trưng cho sự « suy nghĩ đúng », có
thể là « Chính tư duy » (?) trong Bát chính đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho « sinh lực tâm linh » (?).
4) Màu trắng tượng trưng cho « đức tin » (?).
5) Màu cam hay màu nghệ tượng trưng cho « trí thông minh »
(?), cũng có thể đây là « Trí tuệ » (?).
6) Màu thứ sáu, tổng hợp của các màu vừa kể, tượng trưng cho
« hành vi không kỳ thị ».
Các tài liệu trên đây cũng có thể đã căn cứ vào các lời đề
nghị của ông Olcoott (?). Dù sao, lá cờ cũng chỉ là một biểu tượng, và ý
nghĩa mà ta gán cho nó là do nơi chúng ta. Ý nghĩa của lá cờ sẽ được
luận bàn rộng hơn trong phần thứ hai của bài viết.
Henry Steel
Olcoott, ông là ai ?
Ít nhất H.S. Olcoott cũng không phải là một người hoàn toàn
vô danh. Ông sinh ngày 2 - tháng 8 năm 1832 tại New Jersey (Hoa
kỳ) trong môt gia đình Tin lành rất kỷ cương và ngoan đạo. Ngay từ ngày
còn nhỏ cha mẹ ông đã khuyến khích ông quan tâm đến những vấn đề tâm
linh. Cha của ông là một thương gia, nhưng vào năm 1951 thì gia đình bị
phá sản, và ông phải rời bỏ đại học. Sau một thời gian gián đoạn học
hành và sống nhờ họ hàng ở tiểu bang Ohio, ông trở lại đại học và trở
thành một chuyên gia canh nông. Ông viết báo và khảo cứu khoa học. Lấy
vợ năm 1860, sinh được bốn con, nhưng sau đó hai vợ chồng lại ly dị vào
năm 1874.
Khi nội chiến ở Mỹ xảy ra, ông gia nhập quân đội liên bang,
giữ những chức vụ hành chính khá quan trọng. Đến năm 1865, ông xin xuất
ngũ và quay ra học luật rồi trở thành luật sư. Ông lại tiếp tục viết
báo.
Bà Helene Petrovna BLAVATSKY (1831-1891) Ông Henry Steel OLCOOTT (1832-1907)
Năm 1874 đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc đời của ông.
Năm đó đã 42 tuổi, ông gặp một người phụ nữ rất lạ lùng và đặc biệt và
hai người kết bạn với nhau. Đó là bà Helene Petrovna Blavatsky, một phụ
nữ gốc người Nga, thuộc một gia đình thật quý phái – có lẽ còn quý phái
hơn cả gia đình của Nga hoàng lúc bấy giờ. Bà rất quan tâm đến những vấn
đề thần bí, đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới, kể cả Ấn độ và Tây
tạng và viết khá nhiều sách. Bà Blavatsky và ông Olcoott cùng với một
người bạn nữa là William Quan Judge đứng ra thành lập hội Thông thiên
học, một truyền thống bao gồm tất cả các tôn giáo. Ông Olcoott được bầu
làm chủ tịch của hội này.
Năm 1878, trụ sở chính của hội Thông thiên học được chuyển
từ Mỹ về Adyar, một vùng ngoại ô của tỉnh Madras ở Ấn độ. Trụ sở này vẫn
còn hoạt động cho đến ngày nay. Nhưng điều đáng nêu lên hơn hết là ông
Olcoott và bà Blavatsky đến Tích lan ngày 16 tháng 5, năm 1880, và được
dân chúng thủ đô Colombo tiếp đón rất trọng thể vì họ đã được biết đến
ông hoặc đã nghe danh ông từ trước. Ngày 25 tháng 5, ông Olcoott và bà
Blavatsky đã đến quỳ gối trước một tượng Phật khổng lồ tại đền Wijananda
và xướng lên bằng tiếng Pa-li những câu thệ nguyện về Tam quy
(quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng) và Ngũ giới (không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói xằng bậy, không say sưa), để xin
được quy y.
Dư luận thời bấy giờ thường gán cho ông cái biệt danh là «
người Phật giáo da trắng ». Thật vậy ông là một trong những người Mỹ đầu
tiên đã quy y. Sau đó, mặc dù ông đến Tích lan nhiều lần, và mỗi lần chỉ
lưu lại trong một thời gian ngắn, ông đã thành lập được nhiều đại học
Phật giáo, chẳng hạn như các Đại học Ananda và Nalanda, các trường Cao
đẳng Phật học Dharmaraja và Visakha Vidyalaya…, tổng cộng gần 400 trường
Phật học. Ông giúp người Tích lan phục hồi truyền thống Phật giáo, chống
lại ảnh hưởng ngoại lai do thực dân Anh du nhập vào Tích lan. Ngoài ra,
ông còn cổ động cả phong trào chống lại thực dân Anh trên phần đất này.
Tháng 7 năm ấy, tức năm 1880, ông rời Colombo như một vị anh hùng của
dân tộc Tích lan. Sau đó ông quay trở lại vào những năm 1881, 1882 và
1884. Năm 1884, khi rời Tích lan ông đến thẳng Luân đôn và đòi chính
quyền Anh phải thực thi sáu điều khoản ông đưa ra trong mục đích bênh
vực người Phật giáo Tích lan bị ức hiếp và bị hạn chế sinh hoạt Phật sự
ngay trên quê hương của họ. Chính quyền Anh quốc chỉ chấp nhận hai điều
khoản mà thôi. Việc kể lại những tình tiết trên đây chỉ có mục đích duy
nhất trình bày nhiệt tâm của ông Olcoott đối với Đạo Phật nói chung và
đối với người Phật giáo Tích lan nói riêng mà thôi. Chẳng những ông có
công bênh vực và giúp hồi phục nền Phật giáo Tích lan mà còn mở đường
cho Phật giáo trên đất Mỹ nữa.
Ông H. S. Olcoott và Ngài Sumangala, một vị cao tăng
Tích lan trong Ủy ban Phật giáo Colombo
Ông mất ngày 17 tháng 2, năm 1907 tại Adyar. Người ta đã đắp
lên người ông một lá cờ Mỹ và một lá cờ Phật giáo rồi mang đi hỏa táng.
Từ đó đến nay, 17 tháng 2 đã trở thành một ngày lễ của Tích lan. Học
sinh, sinh viên cùng với các nhà sư, cầm cờ Phật giáo đi diễn hành, đặt
vòng hoa và lễ vật dưới chân đài tưởng niệm ghi nhớ công đức của ông.
Ngày nay, một đường phố lớn ở Colombo mang tên ông.
Ý nghĩa của
lá cờ Phật giáo
Cách giải thích các màu sắc của lá cờ như đã trình bày trong
phần trên đây dựa vào một vài tài liệu bằng Pháp ngữ. Trong một số tài
liệu bằng Anh ngữ thì cách giải thích có khác hơn đôi chút, tuy vẫn
thiếu mạch lạc và không thống nhất. Sau đây là cách giải thích thường
thấy :
1) Màu xanh dương tượng trưng cho Từ bi.
2) Màu vàng tượng trưng cho Trung đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho Đạo đức.
4) Màu trắng tượng trưng cho Đạo Pháp vượt ra khỏi
không gian và thời gian.
5) Màu cam tượng trưng cho Trí tuệ.
6) Màu tổng hợp (màu thứ sáu) tượng trưng cho Sự thật
tuyệt đối.
Vì lý do có nhiều khác biệt trong ý nghĩa tượng trưng của
màu sắc như đã trình bày, do đó chúng ta cũng không nên quá chú trọng và
câu nệ vào cách giải thích từng màu. Ta hãy xem lá cờ Phật giáo tượng
trưng cho ánh hào quang của Phật là đủ. Kinh sách kể rằng khi đức Phật
đạt được Giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề thì thân của Ngài trở nên sáng
ngời, tia sáng toả rộng trên đầu của đức Phật, tạo thành một hào quang
sáu màu rạng rỡ.
Lá cờ được chia thành sáu phần hay sáu sọc theo chiều dọc,
tượng trưng cho sáu thể dạng của chúng sinh, tức Lục thú hay
Lục đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, A-tu-la và thiên). Sọc
thứ sáu, tổng hợp của năm màu, tượng trưng cho sự hòa đồng, không phân
biệt giữa tất cả chúng sinh. Chẳng những lá cờ Phật giáo không mang tính
cách kỳ thị về quốc tịch, màu da và chủng tộc giữa con người, mà còn chủ
trương tôn trọng và hòa đồng tất cả mọi hình thức và dạng thể của sự
sống.
Ta cũng có thể xem lá cờ Phật giáo là ánh sáng của cầu vồng.
Màu sắc trên lá cờ là màu sắc của cầu vồng. Đối với Phật giáo Tây tạng,
cầu vồng tượng trưng cho Báo thân (Sambhogakaya), tức hiện thân
của Phật, hình tướng của Phật.
Sau hết, tất cả mọi người đều tìm thấy một chút màu cờ của
quốc gia mình trên lá cờ ngũ sắc của Phật giáo. Lá cờ Phật giáo không
kéo lên để phân định hay đánh dấu một lãnh thổ nào cả, nó chỉ có thể kéo
lên ở một nơi thật rộng lớn, một giang sơn không biên giới, vượt khỏi
mọi sự tranh giành. Giang sơn đó là giang sơn của Từ bi và rộng lượng,
của yêu thương và hy vọng. Giang sơn đó rộng lớn và mênh mông như không
gian.
Lá cờ Phật giáo cũng không tượng trưng cho một chủ thuyết
hay một niềm kiêu hãnh nào cả. Lá cờ Phật giáo là biểu hiệu của Hoà
bình, không hề nhuốm một giọt máu nào, dù là giọt máu của một sinh vật
nhỏ nhoi và tầm thường nhất. Lá cờ Phật giáo được kéo lên để nhắc nhở
chúng ta hãy hy sinh tất cả cho sự an vui và hạnh phúc của nhân loại và
tất cả chúng sinh.
Lá cờ ấy cũng không kêu gọi và không khích động ta phải xông
lên để đương đầu với một kẻ thù nào cả. Đối với người Phật tử,
thì kẻ thù nguy hiểm và khó chế ngự nhất là kẻ thù đang ngự trị trong
tâm thức ta, đang ẩn nấp trong thân xác ta. Kẻ thù trong tâm thức là
Vô minh, hận thù, tham lam và bám níu ; kẻ thù ẩn nấp trong thân xác
là những bản năng thú tính của ta.
Kết luận
Một lá cờ nói chung, chỉ là một biểu tượng và ta có thể gán
cho nó bất cứ một ý nghĩa nào ta muốn. Đối với lá cờ Phật giáo, rất có
thể ta cũng nhìn thấy nó mang nhiều màu sắc vui mắt mà xem như một vật
trang trí ở cổng chùa, trước cửa nhà hay trên bàn thờ Phật.
Tuy nhiên biết đâu rằng, đến một lúc nào đó, khi ta nhìn lá
cờ Phật giáo, tâm thức ta bỗng nhiên sẽ bừng lên ánh hào quang của Phật,
rạng rỡ và muôn màu.
Khi nhìn thấy lá cờ, đột nhiên ta sẽ quán nhận được tất cả
sáu thể dạng của chúng sinh : từ ngạ quỷ, quỷ đói đến súc sinh, từ con
người đến thánh nhân và thiên nhân, không phân biệt, không ghét bỏ,
không hận thù hay ganh tỵ. Tất cả đều cùng ta đang quờ quạng trong bóng
đêm, như đang bước đi trong một giấc mộng du. Thế rồi tâm thức ta bị
khích động mãnh liệt bởi lòng Từ bi vô biên và ta ước mong gieo rắc tình
thương của ta trên khắp sáu nẻo của luân hồi.
Hoặc cũng có thể khi nhìn lá cờ Phật giáo, tâm thức ta bỗng
thấy cả một cầu vồng chan hòa ánh sáng, nối liền tâm thức ta và tâm thức
của Phật.
Chỉ khi nào thực hiện được như thế, thì có lẽ lúc ấy ta mới
mong có đủ sức mạnh để hiểu được hết ý nghĩa thật sự của lá cờ Phật giáo
là gì.
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc) 20.05.07