PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Hoang Phong biên soạn và chuyển ngữ
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2012
(ấn bản thứ hai)
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Tác gỉa: Heinz Bechert
Chuyển ngữ: Hoang Phong
Vài lời giới thiệu của người dịch :
Đại Học Phật giáo Âu châu trong
bức thư hàng tháng (số 28 tháng 12, năm
2010) gởi cho các thành viên có giới thiệu quyển sách "Le Monde du
Bouddhisme" ("Thế giới Phật giáo") do hai Giáo
sư Heinz Bechert và Richard Gombrich chủ
biên (nhà xuất bản Thames & Hudson, Paris, 1998). Bức thư cũng trích
dẫn và
giới thiệu một bài viết trong quyển sách này mang tựa đề là "Phật giáo
trong thế giới tân tiến ngày nay" của Giáo sư người Đức Heinz Bechert.
Dưới
đây là phần chuyển ngữ lời giới thiệu của Đại Học Phật giáo Âu châu và
bài viết
của Heinz Bechert.
Lời giới thiệu của
Đại Học Phật giáo Âu châu về bài viết của Giáo sư Heinz Bechert :
Phật giáo
"tân tiến", Người Á châu
"tây phương hóa Phật giáo" ra sao...
Trong vài thập niên gần đây chủ đề "Tây phương hóa Phật giáo"
(occidentalisation) được người Tây phương mổ xẻ rất nhiều, thế nhưng người ta lại
không biết rằng thông điệp của Đức Cồ-đàm Thích-ca Mâu-ni đã bị biến đổi trước khi
du nhập vào thế giới Tây phương chưa đầy một thế kỷ nay...
Một trào lưu Phật giáo đổi mới tại Á châu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX gọi
là "Phật giáo canh tân" ("modernisme bouddhique") có thể xem
như là một hình thức " Phật giáo tin lành " (protestantisme
bouddhisme) thế nhưng một số lớn các các điểm đổi mới ấy lại rất phù hợp với quan niệm của chúng ta [người Tây phương] đối với Phật giáo. Công trình của các
người khởi xướng [Phật giáo tại Tây phương] mang
chủ đích trước hết là tạo ra cho Phật giáo một hình ảnh hoàn toàn tương phản với
các tôn giáo Thiên chúa tại Âu châu ; các quốc gia Á châu cũng nhân biến chuyển
đó biến Phật giáo của mình thành một "dụng cụ" tuyệt vời chống lại
các nhà truyền giáo Thiên chúa trong đám thực dân Anh và Pháp, và đồng thời tạo
ra một nền móng giáo lý mang tinh thần quốc gia trên toàn thể Á-châu...
Vào đầu thế kỷ XX, tác động của phong trào này tạo ra ảnh hưởng mạnh trong
các quốc gia Á châu và cả Âu châu, đã góp phần không nhỏ vào sự bành trướng chung
của Phật giáo sau khi được "tây phương hóa" [thành
một phương tiện chống lại các tôn giáo hữu thần]. Ngày nay sự bành trướng
đó vẫn đang tiếp diễn, mặc dù không mấy ai chú ý - đấy cũng là một bằng chứng
cho thấy một sự thành công nào đó ! [vì sự bành trướng
Phật giáo đã trở thành một sự kiện hiển nhiên]. Chúng tôi mời người đọc
tìm hiểu lịch sử và vài khía cạnh chính yếu của sự bành trướng Phật giáo qua bài
viết của Giáo sư đại học Heinz Bechert trong quyển sách trên đây mà ngày nay đã
tuyệt bản.
Bài viết của
Giáo sư Heinz Bechert
Bối cảnh Lịch sử
Sự bành trướng của Phật
giáo nói chung đã chấm dứt cách nay khoảng một ngàn năm khi các đạo quân xâm lược
Hồi giáo tràn vào A-phú-hãn (Afghanistan) và Tây bắc nước Ấn. Sau biến cố đó dù
Phật giáo gặt hái được một vài thành công khi truyền bá sang Mông cổ và một vài
lãnh thổ thuộc các sắc tộc nhỏ trong các vùng phía bắc và trung bộ Á châu, thế
nhưng Phật giáo mất ảnh hưởng tại nhiều nước Á châu khác. Tại Ấn độ, Phật giáo
hoàn toàn biến mất vào năm 1500 dưới sự tàn phá khủng khiếp của các đạo quân xâm
lược Hồi giáo vào thế kỷ XII, các nhóm Phật giáo lẻ tẻ còn sót lại cũng dần dần
bị Ấn giáo đồng hóa. Vào cùng thời kỳ này Phật giáo cũng bị loại khỏi vùng phía
đông Turkestan (Sinkiang - Tân cương), và vùng
này cũng lọt vào tay người Hồi giáo. Hồi giáo cũng bành trướng sang Mã lai và
Nam Dương (Inđônêxia) khiến cho Phật giáo biến mất tại các nơi này. Kể từ đầu
thế kỷ XVII có thể nói là đảo Java hoàn toàn trở thành một lãnh địa của Hồi giáo.
Với cao trào đánh chiếm
thuộc địa, trên sân khấu lịch sử hiện ra một kẻ thù mới (nouvel ennemi) của Phật
giáo : đó là các nhà truyền giáo Thiên chúa đổ bộ khắp nơi vào đầu thế kỷ XVI.
Thật ra người ta cũng không biết được nhiều những gì xảy ra phía sau sự liên kết
chặt chẽ giữa quyền lợi của đám người đánh chiếm thuộc địa và các hoạt động của
các nhà truyền giáo, vì thế chúng ta cũng chỉ nêu lên trường hợp của xứ Tích
lan làm thí dụ điển hình. Tại đây người Bồ-đào-nha bắt buộc tất cả dân chúng
ven biển trong vùng chiếm đóng của họ phải theo Thiên chúa giáo. Sau đó kể từ năm
1636 người Hòa-lan lại tiếp tục công trình cải đạo do người Bồ-đào-nha để lại
và áp dụng cùng một chính sách từ trước, bắt buộc dân chúng phải theo Tin lành
giáo, đồng thời đàn áp người Phật giáo, Ấn giáo và cả Thiên chúa giáo. Một số
người Thiên chúa giáo phải bỏ trốn vào các vùng trung tâm của đảo thuộc vương
quốc Kandy, vì
nhà vua của vương quốc này là một người Phật giáo chủ trương tự do tôn giáo đúng
với giáo lý Phật giáo từ ngàn xưa. Sau này khi người Hòa-lan ban bố tự do tôn
giáo cho dân chúng của họ vào cuối thế kỷ XVIII, một phần lớn người dân trên đất
Tích-lan cũng nhân cơ hội này để quay về với Phật giáo và Ấn giáo là các tôn
giáo của tổ tiên họ.
Vào thế kỷ XIX người Pháp
và người Anh chiếm cứ toàn bộ các vùng phía nam Á châu và hầu hết các quốc gia Đông
nam Á, chỉ trừ vương quốc Siam
(trở thành Thái-lan). Những người đô hộ không trực tiếp xen vào các vấn đề tôn
giáo trong các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng. Thế nhưng trong giai đoạn đầu của
phong trào đánh chiếm thuộc địa, người Anh sử dụng chính sách ưu đãi những người
cải đạo theo Thiên chúa giáo bằng cách ban cho họ một loạt đặc quyền ... Do đó sinh
ra trong xã hội một giai cấp "ưu tú" chạy theo các giá trị và phong cách
sống của những người đô hộ mới.
Sự vực dậy của Phật giáo trong giai đoạn thứ nhất
Mặc dù các biện pháp khuyến
dụ cải đạo trên đây được áp dụng, số người Phật giáo theo Thiên chúa giáo thật
hiếm hoi. Vào cuối thế kỷ XIX, xu hướng chạy theo các giá trị truyền thống Tây
phương mất hết ảnh hưởng và một làn sóng mới quay về với văn hóa dân tộc bắt đầu
phát sinh trong giới học thức và trưởng giả, các phong trào dành lại chủ quyền
quốc gia theo đó cũng được hình thành. Nước Tích-lan giữ vai trò quan trọng nhất
trong phong trào trên đây. Tại quốc gia này Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại bất
chấp những đợt tấn công tôn giáo ào ạt của người đô hộ Tây phương. Bắt đầu từ năm
1865, nhiều cuộc tranh luận được tổ chức giữa các nhà sư Phật giáo và các cố đạo
Thiên chúa giáo nhằm mục đích so sánh giá trị của hai tôn giáo. Một tập sách tựa
đề là "Cuộc tranh luận lớn tại
Panadura" [một thị trấn phía nam Colombo]
được phát hành năm 1873 ghi lại nội dung cuộc tranh luận giữa nhà sư Mohottivatte
Gunananda Thera đại diện cho Phật giáo và các mục sư David de Silva và F. Sirimanne
đại diện cho Thiên chúa giáo được xuất bản, đánh dấu một khúc quanh giữa Phật
giáo Thiên chúa giáo tại Tích-lan. Ngay trong năm đó tập sách được dịch ra tiếng
Anh và được một người Mỹ là ông J.M. Peebles tại Battle
Creek thuộc tiểu bang Michigan
phát hành. Quyển sách gây được sự chú ý của đại tá Henry Steel Olcott
(1832-1907) người đã hợp tác với bà Blavatski (tên bà khi còn con gái là Hélèna
Petrovna Hahn von Rottenstern, 1831-1891) thành lập hội Thông thiên học. Thông
thiên học khác với Phật giáo trên rất nhiều điểm, thế nhưng nhờ uy tín rất lớn
của hai vị sáng lập nên hội Thông thiên lôi cuốn được nhiều người Mỹ và Âu châu,
một loạt sách do Thông thiên học phát hành sau khi thành lập mang tựa đề "Phật giáo thần bí" cũng đã góp phần
không nhỏ vào sự thu hút đó.
Bà Héléna Petrovna và đại tá Henry Steel Olcottsáng lập viên hội "Thông thiên học". Chính ông
Olcott là người sáng tạo ra lá cờ Phật giáo ngày nay và được các tập thể Phật giáo trên
toàn thế giới sử dụng
Bà Blavatski và đại tá Olcott viếng
thăm Tích-lan năm 1880 và chuyến du hành này đã đánh dấu giai đoạn hồi sinh của
Phật giáo tân tiến trên hòn đảo này. Cuộc viếng thăm Tích lan của hai người Tây
phương tiếng tăm, vốn ngưỡng mộ và có cảm tình với Phật giáo, đã mang lại sự phấn
khởi cho người Phật giáo địa phương, vào một thời điểm mà Thiên chúa giáo gần
như hùng cứ trên toàn thế giới. Olcott thiết lập Hội Thông thiên học tại
Tích-lan với chủ đích bảo vệ Phật giáo và đồng thời ông mở các trường học phật
giáo chuyên giảng dạy về giáo lý nhà Phật.
Trong thời kỳ phục hưng đầu tiên này
của Phật giáo xuất hiện một số nhân vật đáng chú ý, chẳng hạn như David Hewavitarne
(1864-1933) [người Tích-lan] được nhiều người
biết đến dưới pháp danh Anaganka Dharmapala. Hewavitarne sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo tại Tích-lan, theo
học một trường trung học Tin lành Anglican. Vào thời bấy giờ không có trường Phật
giáo cho cấp trung học vì áp lực của các cơ quan truyền bá Thiên chúa giáo, các
cơ quan này xem những truyền thống lâu đời của Phật giáo như những thứ hỗn tạp và
cuồng tín. Ít ra tình trạng này cũng xảy ra trong giai đoạn đầu của chế độ thuộc
địa. Kinh nghiệm tuổi trẻ của cậu bé Hewavitarne lưu lại trong lòng cậu sự ghét
cay ghét đắng bất cứ thể dạng nào của sự "man rợ thiên chúa giáo"
("barbarie chrétienne").
David Hewavitarne, thường được biết
đến hơn dưới pháp danh Anagarika Dharmapala, người sáng lập Phật giáo
"canh tân" tại Tích-lan, là sáng lập viên của Hội Maha-bodhi Society,
và cũng là người hồi phục truyền thống tu tập "vipassana" dành cho
người thế tục
Hewavitarne
tìm gặp đại tá Olcott khi ông đến Tích-lan năm 1880. Năm 1889 Hewavitarne tháp
tùng Olcott đi Nhật bản, cuộc viếng thăm này đánh dấu mối bang giao đầu tiên giữa
Phật giáo Nhật bản và Phật giáo Tích-lan trong thời kỳ lịch sử cận đại. Khi
Dharmapala [tức Hewavitarne] viếng Bồ-đề Đạo-tràng
(Bodh-Gaya) vào năm 1891, ông rất đau lòng trước cảnh hoang tàn đổ nát của thánh
tích thiêng liêng nhất của Phật giáo và quyết tâm vận động trùng tu di tích lịch
sử này. Vào cùng năm đó Dharmapala thành lập "Hội Bodh-Gaya Mahabodhi"
tại Colombo ; đấy là hội Phật giáo quốc tế đầu tiên được thành lập nhằm mục
đích kết hợp người Phật giáo thuộc tất cả các quốc gia trên thế giới và biến Bồ-đề
Đạo-tràng thành một biểu tượng sùng kính và thiêng liêng. Năm 1892 Hội Maha
Bodhi, tên gọi phổ biến của Hội Bodh-Gaya Mahabodhi, thiết lập trụ sở trung
ương tại Calcutta [Ấn độ] giúp đỡ người Ấn quay
về với Phật giáo.
Thánh tích Maha-bodhi (Đại Giác ngộ) tại Bồ-đề Đạo-tràng
(Bodh-Gaya)ảnh chụp trước khi trùng tu (vào năm 1870) và sau khi trùng
tu
Sự hình thành của Phật giáo Tây phương
Trong hai mươi năm cuối
cùng của thế kỷ XIX, Phật giáo trở thành một tôn giáo lớn mạnh tại nhiều quốc
gia [Tây phương] mà trước đây không lâu Phật
giáo trong các quốc gia ấy chỉ là một ngành nghiên cứu hoàn toàn mang tính cách
sử học. Thật vậy một số tư tưởng gia độc lập [các triết
gia không ngả theo một xu hướng tôn giáo hay phong trào nào của Âu châu]
rất thán phục các giá trị tư tưởng Phật giáo. Sáng chói nhất phải nói là triết
gia người Đức là Schopenhauer (1788-1860). Đối với Schopenhauer Phật giáo là tôn
giáo tốt nhất vượt lên trên tất cả các tôn giáo khác, hơn hẳn đạo Bà-la-môn vốn
chủ trương phân chia giai cấp trong xã hội và còn cao hơn nữa đối với Thiên chúa
giáo chủ trương các tư tưởng ngụy biện (idées
fallacieuses) về một vị Trời và các giới luật đạo đức quá tồi tệ bất kể đến loài
súc vật. Schopenhauer cho rằng triết học của ông phù hợp với giáo lý của Đức Phật.
Mặc dù sự hiểu biết của Schopenhauer được căn cứ vào các nguồn tư liệu Phật
giáo thiếu sót và không được chính xác của tiền bán thế kỷ XIX, thế nhưng tư tưởng
triết học của ông và Phật giáo mang nhiều khía cạnh tương tợ nhau. Khi nghiên cứu
sâu xa triết học của Schopenhauer người ta có cảm giác như đấy là một thứ giáo
lý Phật giáo nhưng còn mang nhiều khiếm khuyết. Kể từ cuối thế kỷ XIX triết học
của Schopenhauer được đại chúng ưa chuộng. Sự ngưỡng mộ của ông đối với Phật giáo
góp phần không nhỏ vào sự quảng bá các tư tưởng Phật giáo do ông chủ xướng, ông
cho rằng Phật giáo không phải chỉ là một chủ đề nghiên cứu suông mà còn là một
cách sống và suy tư mà con người có thể tìm thấy chính mình trong đó.
Arthur Schopenhauer và
Edwin Arnold
Tại Anh quốc, Edwin
Arnold (1832-1904) xuất bản vào năm 1879 một tập thơ mang tựa đề "La Lumière de l'Asie, ou la grande
renonciation : la vie et la pensée de Gautama, prince de l'Inde et fondateur du
Bouddhisme, telle qu'elle est racontée en vers par un bouddhiste indien"
("Ánh sáng của Á châu hay sự từ bỏ
thế tục trọng đại : cuộc đời và tư tưởng của vị Cồ-đàm, một hoàng thân Ấn độ
sáng lập ra Phật giáo, theo những lời tường thuật bằng thi ca của một người Phật
giáo Ấn độ"). Đại tá Olcott thì cho xuất bản quyển "Le cathéchisme bouddhique selon le canon de
l'Église du Sud" ("Giáo lý
Phật giáo theo kinh sách của trường phái phương Nam")
tại Colombo vào
năm 1881. Quyển sách này sau đó được xuất bản lần đầu ở Mỹ tại Boston vào năm 1885. Ba năm
sau một tác giả người Đức tên là Friedrich Zimmermann xuất bản một quyển sách
dưới bút hiệu Subhadra Bhikshu tựa là : "Cathéchisme bouddhique : introduction à l'enseignement du Bouddha
Gautama" ("Giáo lý Phật
giáo : tìm hiểu giáo huấn của Đức Phật Cồ-đàm"), ngay sau đó quyển sách
được dịch ra mười thứ tiếng khác nhau. Tác giả cho biết là ông cố gắng trình bày
Phật giáo đúng theo giáo lý chính thống của Đức Phật bằng cách loại bỏ các thêm
thắt do các nhà tu uyên bác sau này ghép thêm vào trong mục đích thổi phồng những
lời giảng dạy của Đức Phật, đồng thời ông cũng loại bỏ những chuyện mê tín và
tưởng tượng của đại chúng làm rườm rà thêm những lời giáo huấn của Đức Phật. Tóm
lại sự hiểu biết về Phật giáo của những người Tây phương đầu tiên được căn cứ vào
kinh sách Pa-li đúng theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada).
Các kết quả nghiên cứu khoa
học vượt bực do các chuyên gia về Phật giáo thực hiện trong khoảng hai mươi lăm
năm sau cùng của thế kỷ XIX đã góp phần
tích cực vào việc đánh giá lại các nguồn tư liệu xưa của Phật giáo. Các cuộc
nghiên cứu sâu rộng đầu tiên được một nhà bác học người Pháp là Eugène Burnouf
(1801-1852) thực hiện và quyển sách nổi tiếng nhất của ông là "Introduction à l'histoire du Bouddhisme
indien" ("Tìm hiểu lịch sử
Phật giáo Ấn độ") phát hành vào năm 1844. Hầu hết các công cuộc nghiên
cứu Burnouf được căn cứ vào kinh sách tiếng Phạn của Đại thừa và đồng thời ông
cũng dịch bộ kinh "Saddhadharmapundarika"
tức là "Kinh Hoa sen" [Diệu pháp liên hoa kinh] vào năm 1852. Tuy nhiên các
học giả Tây phương suy ra được lịch sử chính thống của Đức Phật và giáo lý của
Ngài là nhờ vào các công cuộc tra cứu toàn bộ hệ thống kinh điển Pa-li. Hai học
giả góp phần lớn nhất vào các công cuộc nghiên cứu trên đây là một người Anh Thomas
Williams Rhys Davids (1843-1922) và một người Đức Hermann Oldenberg (1854-1920).
Từ trái sang phải : Eugene Burnouf,
Thomas Williams Rhys Davids và Hermann Oldenberg
Hai quyển sách "Buddhism, Being and Sketch of the Life and
Teaching of Gautama, the Buddha" (Phật
giáo: Con người, Tiểu sử và Giáo lý của Đức Phật Cồ-đàm") (1877) của
Rhys Davids và "Buddha : Sein Leben, Seine Lehre, Seine Gemeinde"
("Đức Phật : Cuộc đời, Giáo lý và
Tăng đoàn của Ngài") (1881) của Oldenberg đánh dấu thời kỳ nghiên cứu
đầu tiên của Phật giáo tân tiến. Oldenberg đồng thời cũng điều khiển một ban dịch
thuật và xuất bản toàn bộ Luật tạng (Vinaya Pitaka) gồm năm quyển
(1879-1883). Công trình nghiên cứu và dịch thuật của ông đã góp phần không nhỏ
vào việc nghiên cứu Phật giáo xưa dựa
vào các nguồn tư liệu vẫn còn được xem là căn bản và giá trị nhất cho đến nay.
Năm 1881 Rhys Davids thành lập Hội kinh điển Pa-li ("Pali Text
Society") tại Anh quốc với mục đích dịch thuật và phát hành các kinh điển Pa-li
và các tập sách bình giải của học phái Phật giáo Nguyên thủy (Theravada). Trong
khoảng thời gian hoạt động đầu tiên kéo dài suốt ba mươi năm, hiệp hội này nhờ
sự cộng tác thêm của nhiều học giả từ các nước khác đã xuất bản được nhiều tập kinh
quan trọng thuộc kinh điển Pa-li.
Vào khoảng năm 1990 trở
về sau này các người Phật giáo Tây phương thuần thành ngày càng đông đảo
hơn và
tỏ ra rất tích cực. Người Phật giáo đầu tiên gia nhập Tăng đoàn là một
người
Anh tên Allan Bennett McGregor (1872-1923). Trước đó ông tham gia một
nhóm chủ
trương sự huyền bí (occultisme - occultism) thế nhưng sau đó từ bỏ và
sang Tích-lan
tu học. Năm 1902 ông được thụ phong tỳ kheo tại Akyab Miến điện, pháp
danh là
Ananda Metteyya. Hai năm sau tại Rangoon
[thủ đô Miến điện] Anton Gueh (1878-1957) một
danh tài vĩ cầm người Đức cũng gia nhập Tăng đoàn với pháp danh
Nyanatiloka, ông
là người Âu châu thứ hai xuất gia. Ông rất uyên thâm về Phật pháp lại tu
tập rất
chuyên cần do đó ông được nhiều người trên
thế giới biết đến. Ông trải qua phần lớn cuộc đời còn lại tại Tích-lan.
Vào năm
1911 ông được cử làm trụ trì một ngôi chùa trên đảo Polgasduwa gần
Dodanduwa [thuộc vùng bờ biển phía nam của Tích-lan]. Nhiều người
Âu châu kéo nhau đến Tích-lan xin quy y với ông, trong số các đệ tử của
ông có
một người lừng danh nhất pháp danh là Nyanaponika, là một nhà bác học
Phật giáo
vẫn còn sống và vô cùng tích cực [thật ra thì Nyanaponika
đã mất vào năm 1994, tức hai năm trước khi quyển sách của Heinz Bechert
được xuất
bản].
Bên trái : Allan Bennett Mcgregor (pháp danh Ananda
Matayya) Bên phải : Anton Gueth (pháp danh Nyanatiloka)
Bắt đầu từ năm 1897, Anagarika
Dharmapala thành lập các tổ chức Phật giáo đầu tiên tại Âu châu, đấy là các chi
nhánh của hội Maha Bodhi Society. Sau đó ông lên đường sang Mỹ theo lời mời của
một người Phật giáo Hoa-kỳ là Paul Carus. Năm 1903, Karl Seidenstüker một học
giả có tiếng nghiên cứu kinh sách Pa-li đứng ra thành lập tại Leipzig hiệp hội
Phật giáo đầu tiên tại nước Đức, mang tên là "Buddhistischer Missionsverein
für Deutschland" ("Hiệp hội các tu sĩ Phật giáo Đức quốc"). Cùng
năm đó, một vị tỳ kheo người Anh là Ananda Mettayya đã nhắc đến trên đây, thành
lập một hội Phật giáo quốc tế lấy tên là "Buddhasasana Samagama" tại
Rangoon, chi nhánh của hội này mọc ra khắp nơi trong nhiều quốc gia khác. Hội
Phật giáo đầu tiên của Anh quốc mang tên là "Hội Phật giáo Anh quốc và Ái-nhĩ-lan",
được thành lập tại Luân đôn vào năm 1907 và người chủ tịch đầu tiên là T.W.
Rhys Davids, hội tồn tại đến năm 1926. Phần lớn các hiệp hội Phật giáo Âu châu không tồn tại lâu dài vì thế các
nhóm Phật giáo rải rác còn cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa.
Phật giáo tân tiến ngày nay
Như chúng ta thấy trên đây
có một sự liên hệ chặt chẽ nào đó giữa sự hồi sinh của Phật giáo Đông phương và
các đợt du nhập của Phật giáo vào Tây phương. Sự liên hệ đó không phải chỉ mang
tính cách tổ chức mà đúng hơn tượng trưng cho một khuynh hướng diễn đạt mới của
Phật giáo dưới hình thức một hệ thống tư tưởng có thể gọi là "Phật giáo canh
tân" ("Modernisme Boudhisme"). Phật giáo Á châu vào đầu thế kỷ
XIX cho thấy vô số hình thức khác nhau cả về tư tưởng lẫn phương pháp tu tập,
qua những hình thức đó Phật giáo pha lẫn với các truyền thống lâu đời và các ảnh
hưởng văn hóa địa phương. Dựa vào các kết quả khảo cứu thực hiện trong suốt thế
kỷ XIX căn cứ vào các tư liệu xưa nhất, các học giả đã biên soạn lại phần giáo
lý có thể xem là chính thống nhất của Đức Phật. Các học giả và các người Phật tử
tân tiến phát hiện lại Phật giáo "chính thống" dưới thể dạng của một
hệ thống tư tưởng triết học, hệ thống đó hướng vào một mục đích duy nhất là giúp
loại bỏ khổ đau và giải thoát con người ra khỏi chu kỳ tái sinh. Các truyền thống
lâu đời, các phép mầu và tất cả các chuyện khác mà các tư tưởng gia hiện đại không
thể chấp nhận được đều phải xem là các thứ thêm thắt hoặc là các khía cạnh thoái
hóa của Phật giáo trên suốt dòng lịch sử tiến hoá.
Phật giáo nhờ thế mà đã
trở thành một phương thức suy tư mang tính cách duy lý. Mọi người đều biết là Đức
Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy
sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập và thiền định để kiểm chứng
hiện thực. Do đó các người Phật giáo tân tiến định nghĩa Phật giáo như "tôn
giáo của lý trí" với hậu ý chống lại các tôn giáo khác chủ trương sự tin
tưởng mù quáng vào các giáo điều (religions de la croyance aveugle en des
dogmes) như Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Do thái giáo. Các người Phật giáo tân
tiến chỉ trích các khái niệm về Trời và linh hồn do các tôn giáo Tây phương quảng
bá và cho rằng đấy là những gì không phù hợp với lý trí và cách nhìn thực tế về
thế giới chung quanh.
Tôi chỉ xin kể ra đây
ba trong số rất nhiều tác giả viết về chủ đề Phật giáo tân tiến : Anagarika
Dharmapala một tác giả rất nổi tiếng đã viết nhiều tiểu luận sau đó được gom lại
và xuất bản vào năm 1965 dưới tựa đề "Return
to Righteousness" ("Quay về
với Đạo đức") ; học giả Nhật bản Hajime Nakamura trong quyển "The ways of Thinking of Eastern Peoples"
("Cách suy nghĩ của người Đông
phương") (Honolulu, 1964) giải thích thật cao siêu các tư tưởng Phật
giáo, cách giải thích của ông rất phù hợp với thời đại ngày nay và đã chinh phục
được uy tín trên toàn thế giới ; và triết gia K.M. Jayatilleke (1920-1970) của đại
học Paradeniya của Tích-lan là một trong những người giải thích triết học Phật
giáo xưa mạch lạc nhất dựa vào cách tiếp cận của triết học hiện đại.
Sự canh tân Phật giáo dù
sao cũng không phải là một phong trào thuần nhất. Không có gì hoàn toàn, một số
yếu tố cổ truyền vẫn còn tồn tại trong một vài đường hướng canh tân của Phật giáo.
Hơn nữa sự canh tân Phật giáo tại một số quốc gia Nam Á châu như Tích-lan và nhất
là Miến điện ngay từ giai đoạn khởi đầu đã gắn liền với các vấn đề chính trị và
xã hội. Cải cách xã hội do đó cũng là một trong các mục tiêu của Phật giáo canh
tân tại các nước trên đây. Anagarika Dharmapala qua các bài viết đầu tiên của
ông và một số các nhà lãnh đạo Phật giáo khác tại Á châu đã thổi phồng quá đáng
trong mục đích khẳng định Phật giáo như là một tôn giáo dân tộc với hậu ý giúp Phật
giáo tìm lại "vị trí của nó" trong cộng đồng quốc gia và xã hội. Họ
chứng minh cho thấy để cai trị thuộc địa thực dân tìm đủ mọi cách hủy diệt Phật
giáo, và nổ lực phục hưng tôn giáo của họ là một cách tham gia tích cực vào công
cuộc tranh đấu dành lại nền độc lập cho xứ sở.
Tại Tích-lan "Phật
giáo dân tộc" cho thấy một lịch sử lâu dài. Sự liên hệ chặt chẽ giữa Phật
giáo và người Cingalais [dân tộc chính tại Tích-lan]
từng được báo chí ca ngợi, nhất là tờ "Mahavamsa" nêu lên câu chuyện lịch
sử nổi tiếng về người "anh hùng Dutthagamani", ông là vị vua đã giải
phóng hòn đảo Tích-lan khỏi sự đô hộ ngoại bang (của người tamil) vào thế kỷ thứ
II sau Tây lịch. Tờ báo nêu lên vai trò bảo vệ Phật giáo của người Cingalais và
nhắc lại bổn phận của Tăng đoàn phải bảo toàn "tôn giáo dân tộc" vì đó
là gia tài văn hóa của người dân Cingalais.
Tại Miến điện, người dân
cũng tự đồng hóa mình với Phật giáo, sức đồng hóa đó cũng mạnh mẽ không kém người
Tích-lan. Tuy nhiên trong cả hai quốc gia này vẫn có một số khác biệt giữa hai
nhóm Phật giáo canh tân và Phật giáo bảo thủ, các khác biệt này có thể nhận thấy
qua các cuộc tranh luận chính trị thúc đẩy bởi các xu hướng cải cách Tăng đoàn
bằng phương tiện lập pháp.
Dầu sao đi nữa Tăng
đoàn Phật giáo cũng giữ một vai trò chủ yếu trong việc bảo vệ sự vẹn toàn quốc
gia tại Tích-lan và Đông nam Á. Qua nhiều thế kỷ các vị tỳ kheo giữ vai trò trung gian trong sự giao tiếp giữa các tập thể
dân chúng, nhất là trong các làng mạc. Mối liên hệ giữa tập thể người xuất gia
và dân chúng trong các làng mạc vẫn còn nắm vai trò chủ yếu trong đời sống thôn
quê tại các nước Phật giáo. Đối với dân chúng thành thị hay bán-thành- thị xuất
hiện vào thời kỳ thuộc địa hay sau thuộc địa, Phật giáo là biểu tượng của tinh
thần dân tộc đương đầu với sự thống trị và sự xâm nhập của văn hóa ngoại bang.
Các tác giả viết về Phật giáo canh tân ca tụng hình ảnh lý tưởng của cuộc sống trước
kia trong các vương quốc tiền thuộc địa, giai cấp trung lưu mới trong xã hội rất
thích các loại bài viết này. Sự vững tin trong lòng họ phát lộ ra ngoài bằng những
biểu hiện dưới những hình thức mới mẻ, chẳng hạn như những pho tượng Phật khổng
lồ được dựng lên khắp nơi, từ các ngã tư đường đến các đỉnh đồi hoặc các nơi
quan trọng. Gananath Obeyesekere có nói đến các biểu tượng đặc biệt này và gọi
đấy là "Đức Phật ở các nơi họp chợ".
"Canh tân " về Thiền định
Trong số các khía cạnh đổi
mới của Phật giáo canh tân có thể nêu lên việc cải tiến và truyền bá các kỹ thuật
thiền định. Cách tu tập thiền định được lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác
không gián đoạn. Thế nhưng theo truyền thống, việc tu tập thiền định không hề
được đem ra quảng bá rộng rãi trong dân chúng, người thầy chỉ trực tiếp truyền dạy
thiền định cho một số đệ tử được chọn lựa cẩn thận. Các tu viện giảng dạy thiền
khá giới hạn trong quá khứ và ngay cả tại Tích-lan truyền thống tu tập thiền định
cổ truyền đã biến mất vào giữa thế kỷ XIX.
Vào khoảng 1890,
Anagarika Dharmapala đã tìm thấy trong một ngôi chùa ở Bambaragala [một vùng thôn quê thuộc miền đông của đảo Tích-lan] một
bản chép tay từ một quyển sách giáo khoa trước tác bằng ngôn ngữ Cingalais chỉ
dạy về thiền ; bản chép tay này về sau được hội "Pali Text Society" ấn
hành dưới tựa đề "The Yogavachara's
Manual" ("Tập sách dẫn giải
về Thiền định"), tập sách được dịch sang tiếng Anh với tựa đề "The Manual of a Mystic". Sau khi
nghiên cứu tập sách này Dharmapala quyết định quảng bá phương pháp tu tập này.
Tại Miến điện cũng vào cùng thời kỳ trên đây một vị thera [người tỳ kheo lão thành và uyên bác
nhất trong Tăng đoàn] là Narada sau khi nghiên cứu các kinh sách xưa quyết
định làm sống lại truyền thống tu tập satipatthara
[sự chú tâm]. Ông sáng lập ra học phái thiền
chú tâm satipatthara của Miến điện, học
phái này vẫn tồn tại cho đến nay. Nhà sư danh tiếng Mahasi Sayadaw [một vị đại sư lừng danh của Miến điện, 1904-1982] cũng
tu tập theo phép thiền định này. Trên đây là các phương pháp tu tập thiền định
không mấy chính thống lắm đã được các người Phật giáo canh tân thiết lập. Tu tập
thiền định cũng được quảng bá bằng nhiều phương tiện trước đây chưa hề có, chẳng
hạn như các trung tâm thiền định được thành lập dành cho những người thế tục, tại
các nơi này họ có thể theo học các khóa thực hành thiền định mà trước đây chỉ dành
riêng cho người xuất gia đã thụ phong và đã được chọn lựa cẩn thận.
Bên cạnh tỳ-kheo Mahasi Sayadaw (bên trái) là cư sĩ U Ba
Khin (bên phải),người rất tích cực trong việc quảng bá thiền
"vipassana" tại Miến điện và trên toàn thế giới (nhờ vào người đệ tử của ông là Goenka)
Hình thức tu tập thiền định dành cho
người thế tục không phải là chủ trương riêng của các trung tâm hành thiền mới
được thành lập, vì các vị thầy được huấn luyện theo các phương pháp cổ truyền cũng
đứng ra giảng dạy cho người thế tục. Trong giai đoạn đầu phong trào canh tân Phật
giáo còn mang nặng khía cạnh tâm linh và triết học, thế nhưng càng về sau phong
trào này càng nghiêng nhiều hơn vào việc tu tập thiền định.
Nếu không có sự góp phần trên phương
diện tâm linh và triết học của Phật giáo canh tân nhất định là sự hồi sinh của
Phật giáo Á đông và cả sự truyền bá Phật giáo vào thế giới Tây phương cũng
không thể xảy ra được. Sự bành trướng và cải tiến của giới xuất gia nơi chùa
chiền thúc đẩy bởi sự canh tân của Phật giáo đã động viên hàng loạt tăng đoàn trong
công tác quảng bá các lý tưởng Phật giáo trong quảng đại quần chúng trong khắp các
nước Phật giáo Á châu.
Vài lời góp y của người
dịch
Người dịch xin được góp một vài thiển ý như sau :
1- Bài viết mang tựa đề là Phật
giáo trong thế giới tân tiến ngày nay, nhưng thật ra nội dung lại hướng nhiều
hơn về lịch sử. Xin nêu lên một thí dụ, hiện nay số người theo Phật giáo trên đất
Pháp là một triệu người, đây là con số chính thức đã được Bộ Nội Vụ của chính
phủ Pháp công nhận. Theo các hội đoàn Phật giáo thì con số này ít nhất cũng phải
là hai triệu. Trong số đó khoảng 2/3 theo Phật giáo Tây tạng, số còn lại hầu hết
tu tập theo Thiền học, số người theo Phật giáo Nguyên thủy tương đối ít. Thế nhưng
Heinz Bechert không đề cập gì nhiều đến Phật giáo Đại thừa và chỉ nói đến Phật
giáo Nguyên thủy, vì thế bài viết của ông không "cập nhật hóa" lắm với
thế giới tân tiến ngày nay theo như tựa của bài viết.
2- Bài viết nêu lên sự "đổi mới" trong Phật giáo từ Đông sang
Tây, theo Heinz Bechert đó là một hình thức "Phật giáo canh tân". Đây
là một cách nhìn hoàn toàn Tây phương. Dưới con mắt của một người Phật giáo không
có gì đổi mới hay tân tiến, không có gì thụt lùi hay bảo thủ, tất cả các hiện
tượng lôi kéo nhau mà biến động, tùy thuộc vào cơ duyên và sự vận hành của hiện
tượng tương liên, thuận theo quy luật của nhân quả.
Thời gian đối với Phật giáo không phải là một đường thẳng "đơn chiều"
mà lại mang tính cách "chu kỳ". Vì thế khi nói đến canh tân, đổi mới,
hiện đại, tân tiến..., theo Phật giáo đấy chỉ là các cách diễn đạt quy ước và
nhị nguyên. Thí dụ sự tái sinh đối với Phật giáo không phải là một hình thức
"đổi mới" hay "canh tân" mà đấy chỉ là một cách "quay
về" với các hành động mà chính mình thực thi trước đây.
3- Bài viết nêu lên vai trò của Phật giáo trong bối cảnh lịch sử khá đặc
biệt của thế kỷ XIX tại Á châu, đó là cao trào đánh chiếm thuộc địa của các nước
Tây phương Thiên chúa giáo. Sự bùng dậy của Phật giáo là một hình thức phản ứng
hay tự vệ, không hẳn là một sự canh tân theo cách nhìn của Heinz Bechert. Trong
khi đó trên quê hương của những người đánh chiếm thuộc địa, người dân khám phá
ra Phật giáo như là một thứ gì bổ khuyết cho những đòi hỏi của họ trên phương
diện tâm linh, lý do là một số người Tây phương không thể chấp nhận được những sự
phi lý trong các tín ngưỡng lâu đời của họ.
Trong thế kỷ XIX hai sự kiện sau đây xảy ra gần như cùng lúc với nhau :
sự "cải tiến" của Phật giáo Á châu và sự "thâm nhập" của Phật
giáo vào thế giới Tây phương. Heinz Bechert liên kết hai sự kiện đó với nhau và
đánh giá Phật giáo như một thứ "dụng cụ" hay "khí giới" chống
lại ngoại xâm dưới cả hai hình thức vũ lực và tôn giáo, và người Tây phương cũng
sử dụng "khí giới" đó hay "dụng cụ" đó để chống lại những
giáo điều trong các tín ngưỡng lâu đời của họ. Thật ra đấy cũng chỉ là một cách
nhìn hay một cách diễn đạt mà thôi, không phải là một cách mô tả hiện thực, ít
nhất là theo tinh thần Phật giáo. Phật giáo hướng vào sự biến cải bên trong của
mỗi con người, không chống lại bất cứ một sức mạnh nào bên ngoài. Tóm lại cách
nhìn hay cách giải thích các hiện tượng như trên đây của Heinz Bechert mang tính
cách Tây phương nhiều hơn là Phật giáo.
Dầu sao cũng phải công nhận Heinz Bechert đã nhấn mạnh đến vai trò và sức
mạnh của Phật giáo trong bối cảnh đánh chiếm thuộc địa trong thế kỷ XIX. Sức mạnh
đó đã giúp cho một số quốc gia Á châu nhanh chóng dành lại được nền độc lập và
bảo tồn được tín ngưỡng và văn hóa của mình, không cần đến vũ lực và những thứ
chủ thuyết ngoại lai không tưởng khác.
4- Dầu sao tầm nhìn của Heinz Bechert cũng vô cùng bao quát, xuyên qua
thời gian và không gian, chính xác từng chi tiết, đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và
nhìn vào đấy như một đề tài suy tư về Phật giáo nói chung và về bối cảnh cũng
như quá trình lịch sử của quê hương chúng ta trong thời kỳ cận đại.