Phẩm
Phân Biệt Nghiệp
Trước đây phẩm Thế gian nói về kết quả đau khổ của mê lầm,
nhưng đã có quả tất phải có nhân, nhân đây chính là hoặc và nghiệp. Hoặc
chỉ cho phiền não, tức tâm hư vọng, nhận thức sai lầm sự lý của vũ trụ
vạn hữu, sanh tâm đắm trước. Rồi từ sự sai lầm đắm trước đó, khởi lên
những tác vi nơi thân,nói năng nơi miệng, đó là nghiệp. Ðối với kết quả
được thành tựu, chính nghiệp là nguyên nhân trực tiếp, còn hoặc
là trợ duyên gián tiếp. Vì nếu có phiền não mà không khởi nghiệp thì
cũng không thể chiêu cảm quả báo. Hoặc như hạt giống, nghiệp như đất,
nước, phân, tro, môi trường. Có hạt giống mà không có môi trường đất
nước, hạt giống không thể mọc thành cây. Bởi vậy,tiếp theo phẩm Thế
gian, ở đây giảng phẩm Nghiệp.
Phẩm Nghiệp gồm 131 bài tụng, chia làm hai đoạn. Xem đồ biểu
sau:
PHẨM
NGHIỆP |
* Thể tánh của
nghiệp |
- Thể
tánh của nghiệp
- Các
mặt khác của nghiệp
- Ý
nghĩa biểu-vô biểu của nghiệp |
*
Nghiệp được nói trong các kinh |
|
Ðoạn
I. THỂ TÁNH CỦA NGHIỆP
Thuyết minh về thể tánh của nghiệp, là đề cập đến hai nghiệp,
ba nghiệp và năm nghiệp.
Hai nghiệp là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp. Chính sự
hoạt động tư lự phân biệt trong nội tâm là tư nghiệp. Từ đó phát ra hành
động nơi thân, nói năng nơi miệng, đó là tư dĩ nghiệp.
Ba nghiệp là từ hai nghiệp này chia ra: thân nghiệp, ngữ
nghiệp tức tư dĩ nghiệp, và ý nghiệp tức tư nghiệp.
Năm nghiệp lại là từ ba nghiệp trên chia ra, tức là trong hai
nghiệp thân và ngữ đều có hai loại biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Như
biểu đồ dưới đây:
|
Hai Nghiệp |
Ba Nghiệp |
Năm Nghiệp |
NGHIỆP |
Tư
nghiệp |
Ý
nghiệp |
Ý
nghiệp |
Tư dĩ
nghiệp |
Thân nghiệp |
Thân
biểu,
Thân vô
biểu |
Ngữ
nghiệp |
Ngữ
biểu,
Ngữ vô
biểu. |
Năm nghiệp
như thế nào? Bất luận là một việc gì, trước tiên ta suy nghĩ, tính toán
về việc đó, đó là ý nghiệp. Khi sự tính toán được phát động ra nơi thân
với những nét rõ rệt trông thấy được, đó là thân biểu nghiệp,nhưng trong
khi đang khởi lên thân biểu nghiệp, bên trong vẫn có những năng lực vô
hình, chiếu trong quy luật nhân quả kích động thúc đẩy thân hành động
hoặc không hành động, đó là thân vô biểu nghiệp, vì năng lực nầy tiềm ẩn
khó trông thấy được. Ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp cũng tương
tự như thế.
Nhưng tại sao ngoài thân biểu nghiệp và ngữ biểu nghiệp lại
thêm vô biểu nghiệp của thân và ngữ như thế?
Chân lý đương nhiên trong vũ trụ, hễ đã có nhân thì có quả.
Vậy khi tạo thân và ngữ biểu nghiệp, hoặc lành hoặc dữ, nó nhất định đưa
đến kết quả hoặc khổ hoặc vui trong tương lai. Nhưng khi thân và ngữ
biểu nghiệp đình chỉ và cũng chưa kết thành quả, trong khi đó, nếu không
có cái gì tồn tại liên tục, để dẫn đến kết quả, thì sẽ mắc phải điều
rất sai lầm là có tạo nghiệp nhân mà không thọ quả báo, hoặc nghiệp nhân
đã tiêu mất mà vẫn có kết qủa, thì hóa ra không nhân cũng có quả. Thế
nên biết, phải có năng lực vô hình tồn tại liên tục dẫn từ nhân đến quả,
năng lực đó vô hình không thể thấy được, nên gọi là vô biểu nghiệp.
* TIẾT I. THỂ TÁNH CỦA NGHIỆP
Năm nghiệp vừa kể trên lấy gì làm thể?
Ý nghiệp là sự hoạt động tư duy của nội tâm, cố nhiên lấy tư
tâm sở làm thể. Còn thân và ngữ vô biểu nghiệp thì có sự tranh luận dị
đồng.
Tát-bà-đa bộ cho hình sắc là thể của thân biểu
nghiệp, âm thanh là thể của ngữ biểu nghiệp, bởi thân biểu
nghiệp tức chỉ cho động tác nơi thân thể mà động tác tất phải dựa vào
hình sắc dài ngắn...sai biệt mới có được. Nếu lìa hình sắc có dài ngắn..
.sai biệt thì không thể nào có động tác; ngữ biểu nghiệp tức chỉ cho
tác động của ngôn ngữ, nếu lìa âm thanh thì không có tác động của ngôn
ngữ.
- Kinh bộ ngược lại, lấy tư tâm sở có khả năng khiến
thân thể vận động, gọi tắc là động thân tư, chính cái đó là
thể của thân biểu nghiệp, và tư tâm sở có khả năng phát động ngôn ngữ,
gọi tắt là phát ngữ tư, đó chính là thể của ngữ biểu nghiệp.
Nghiệp có nghĩa là tạo tác, mà tạo tác tức tư tâm sở. Chính tư tâm sở đó
dựa nơi thân phát hiện gọi là thân nghiệp, dựa nơi lời phát hiện gọi là
ngữ nghiệp, dựa nơi ý phát hiện gọi là ý nghiệp. Ba nghiệp sở dĩ khác
nhau vì có thân, ngữ, ý khác nhau, chứ thật thể không ngoài tư tâm sở.
Còn thân và ngữ vô biểu nghiệp, theo Tát- bà-đa bộ là thật
pháp, lấy sắc thân do đại chủng tạo thành làm thể. Kinh bộ ngược lại,
cho là giả pháp, dựa trên chủng tử của tư tâm sở mà giả lập ra thôi. Ðó
là điểm tranh luận tối yếu của hai bộ với lý lẽ dưới đây:
Tát-bà-đa dẫn ra tám bằng chứng làm cơ sở cho lập nghĩa của
mình nhưng đều không được Kinh bộ thừa nhận. Kinh bộ bác và cũng đưa chủ
trương mình ra:
1. Bằng chứng Phật nói có ba loại sắc. Theo kinh Tạp A-hàm
cuốn 13, sắc chia ra làm ba loại: Loại có thấy có đối như xanh, vàng,
đỏ, trắng v.v...Loại không thấy có đối như năm căn và thanh, hương, vị,
xúc chỉ có sự chướng ngại giữa nó với cái khác (hữu đối) chứ không thể
thấy. Ngoài hai loại này, kinh còn nói đến không thấy không đối, rõ ràng
loại này chỉ cho các sắc vô biểu, nếu không có sắc vô biểu thật, thì
loại sắc không thấy không đối để chỉ cái gì. Kinh bộ không đồng ý, cho
rằng sắc không thấy không đối là sắc của cảnh giới trong định, nó không
đối ngại và mắt không thấy được, chứ không phải thật có riêng.
2. Bằng chứng về sắc vô lậu, cảnh thấy nghe hay biết của phàm
phu như năm căn, năm cảnh đều thuộc hữu lậu, nhưng trong kinh Tăng
nhất A-hàm: "Pháp vô lậu là thế nào? Là đối với các sắc ở quá khứ,
vị lai, hiện tại, nó không làm khởi lên tâm ái nhiễm, sân nhuế, cho đến
đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, đó gọi là pháp vô lậu". Như
thế, ngoài sắc hữu lậu, kinh còn nói sắc vô lậu, nếu không có sắc vô
lậu, thì lấy gì để gọi là sắc vô lậu? Nhưng Kinh bộ cũng cho sắc này
cũng là sắc cảnh giới của định, do định vô lậu phát khởi, nên gọi là sắc
vô lậu thế thôi.
3. Bằng chứng về phước nghiệp tăng trưởng, có bảy phước
nghiệp:
(1). Bố thí cho người đi đường
thuyền.
(2). Bố thí cho
người đi bộ .
(3). Bố thí cho
người bệnh tật.
(4). Bố thí cho
người săn sóc bệnh nhân .
(5). Bố thí vườn
rừng.
(6). Bố thí cho
người thường đi khất thực.
(7). Tùy thời bố
thí.
(Bảy phước nghiệp này theo kinh
nói có khác hơn).
Kinh Trung A-hàm, phẩm Thế Gian Phước nói tiếp: "Kẻ
thiện nam, tín nữ nào, khi đã tạo được bảy thứ phước thế gian đó, hoặc
đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc ngày, hoặc
đêm, phước đó vẫn thường sanh, càng lúc càng thâm, càng lúc càng rộng".
Hữu bộ cho phước nghiệp thường tăng trưởng đó là vô biểu sắc thật có.
Nhưng Kinh bộ không nhất trí, bộ này cho đó là chỉ dựa trên chủng tử của
tư tâm sở mà giả lập ra, chứ không thật có sắc vô biểu. Khi ta suy nghĩ
về bố thí, suy nghĩ đó thật là hạt giống huân tập tồn tại trong ta. Về
sau dù có khi khởi ác tâm, có khi khởi vô ký tâm, nhưng chủng tử đó vẫn
âm thầm tương tục biến chuyển để đưa đến kết quả mà gọi là phước nghiệp
tăng trưởng thế thôi, chứ không sắc gì gọi là sắc vô biểu cả.
4. Bằng chứng không làm mà vẫn thành nghiệp, như có người
nuốn giết một kẻ khác, nhưng không tự tay giết, chỉ xúi bảo người khác
giết. Khi người bị giết chết, thì người chủ mưu giết dù không tự tay
giết cũng mắc ác nghiệp. Hữu bộ cho cái ác nghiệp không tự làm mà vẫn
thành này là vô biểu sắc thật có. Nhưng theo Kinh bộ đó chỉ là chủng tử
của tư tâm sở, lấy tư tâm sở làm thể. Bởi chính trong khi mưu tính xúi
bảo người khác giết đó, thì chủng tử của một niệm xúi giết dấy lên trong
tâm và tiếp tục chuyển biến tăng trưởng cho đến khi người xúi bảo hoàn
thành công việc giết chết kẻ mưu giết, khi ấy, người mưu tính xúi bảo
mắc tội ác nghiệp sát sanh thế thôi, chứ không cần thật có một vô biểu
sắc nào cả.
5. Bằng chứng sắc pháp xứ, kinh Tạp A-hàm 13 nói: "Bí-sô
nên biết, pháp thuộc ngoại xứ sẽ không nhiếp vào mười một xứ, nó không
thấy không đối". Theo đây, về pháp xứ sở, kinh nói đó là pháp không
thấy không đối, chứ không nói vô sắc. Vậy nên nói pháp xứ không có
nghĩa ngăn cấm sự tồn tại riêng biệt của vô biểu sắc. Nếu pháp xứ không
phải là vô biểu sắc, cớ sao kinh không nói ngay là vô sắc mà chỉ nói là
không thấy không đối. Như Kinh bộ lại vẫn cho sắc đó thuộc cảnh giới của
định, và bác những điều trích dẫn của Hữu bộ không đủ để chứng minh sự
thật có của sắc vô biểu được.
6. Bằng chứng là tám chi thánh đạo, trong tám chi thánh đạo,
có ba chi thuộc sắc pháp, đó là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh
mạng. Người tu chánh đạo, khi nhập chánh định, thân không hoạt
động nên không có chánh nghiệp, miệng không nói năng nên không có chánh
ngữ, không đi khất thực nên không có chánh mạng. Tuy trong định không có
ba chi đó, nhưng vẫn phải thừa nhận người nhập định đó có đủ tám chi
Thánh đạo, chính nhờ có sắc vô biểu của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng trong khi nhập định. Nếu giả sử không có sắc vô biểu của ba chi đó,
thì khi xuất định, ba chi đó từ đâu hiện ra? Vô lẽ người nhập định lại
không có tám chi Thánh đạo như người không nhập định sao? Nhưng Kinh bộ
cũng không nhất trí, họ cho trong khi nhập đ?nh vẫn có chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng là do dựa nơi tư tâm sở mà giả lập, chứ không có thật
thể. Trong định không có biểu nghiệp về chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng nhưng nhờ có tư tâm sở suy nghĩ về ba chi chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng đó, nên khi xuất định có ba chi đó xuất hiện, chứ không phải
từ sắc vô biểu.
7. Bằng chứng về giới biệt giải thoát, khi một người thọ đắc
giới biệt giải thoát, sau đó có lúc khởi ác tâm, vô ký tâm, thậm chí vô
tâm, nhưng giới thể vẫn không mất. Hữu bộ cho giới thể không mất ấy là
sắc vô biểu thật có. Nhưng Kinh bộ vẫn cho giới thể đó lấy tư tâm sở làm
thể. Từ nơi tư chủng tử, có khả năng phòng phi chỉ ác, gọi đó là giới
thể, dựa vào đó thành lập luật nghi biệt giải thoát, chứ chẳng có sắc vô
biểu gì cả.
8. Bằng chứng giới là bờ đê. Khi thọ giới xong, lấy giới làm
bờ đê ngăn chận không cho nước tràn ra ao hồ, đã biết giới là bờ đê, tất
nó có thật thể mới ngăn chận được, và có ngăn chận được mới gọi là bờ
đê. Hữu bộ cho đó là sắc vô biểu thật có. Nhưng Kinh bộ vẫn cho tư tâm
sở là thể có khả năng ngăn chận đó. Người thọ giới khi phát nguyện từ
nay về sau quyết định không phạm điều tội ác, từ đó mỗi niệm mỗi niệm
tiếp tục tự nhiên ngăn chận không cho phạm tội ác, đó gọi là bờ đê, chứ
không có sắc vô biểu nào nào cả.
Tóm lại, Hữu bộ chủ trương ý nghiệp, lấy tư tâm sở làm thể,
hình sắc và ngôn ngữ do tư tâm sở phát động dẫn sanh ra, gọi là thân
biểu nghiệp và ngữ biểu nghiệp, đều thuộc sắc pháp. Thân biểu lấy hình
sắc làm thể, ngữ biểu lấy âm thanh làm thể, rồi từ đó dẫn
khởi ra một sắc pháp không thể biểu thị, không có đối ngại gọi là vô
biểu sắc, hay vô biểu nghiệp, nó lấy sắc do đại chủng tạo làm thật thể.
Như vậy, theo Hữu bộ, biểu và vô biểu sắc đều có thật thể. Nhưng Kinh bộ
ngược lại, luận Tỳ-bà-sa 122, 123 nói: "Biểu, vô biểu nghiệp đều
không thật thể". Nhà thí dụ sư (Kinh bộ) nói: "Nghiệp thân,
ngữ, ý đều chỉ là tư" (Biểu, vô biểu nghiệp, vô thật thể tánh,thí
dụ giả thuyết thân ngữ, ý, nghiệp giai thị nhất tư). Và theo Kinh bộ, tư
chia ra bốn thứ: 1) Thẩm lự; 2) Quyết định;
3) Ðộng thân; 4) Phát ngữ. Khi ta định làm gì,
trước tiên suy xét (thẩm tư lự), tiếp đó quyết định làm, và làm bằng
cách nào (quyết định tư), cả hai đều thuộc ý nghiệp; từ hai tư đó, có sự
cử độüng thân (động thân tư) và phát ra ngôn ngữ (ngữ phát tư), tức
thân nghiệp và ngữ nghiệp. Do đó, đủ biết thân biểu nghiệp, ngữ biểu
nghiệp đều không có thật thể, hoàn toàn do tư tâm sở phát động. Ðến như
vô biểu nghiệp cũng vậy, không phải có một loại sắc thật có riêng biệt
gọi là sắc vô biểu, mà chính do tư tâm sở huân tập thầm kín, tiếp tục
chuyển biến mà hình thành, nó là giả có. Như vậy, vô biểu nghiệp hay vô
biểu sắc không gì khác hơn là chủng tử của tư tâm sở vi tế tiềm
tàng tiếp tục chuyển biến vậy. Xem đồ biểu:
CÁC NGHIỆP LẤY GÌ LÀM THỂ, THEO CHỦ TRƯƠNG CỦA HỮU BỘ VÀ KINH
BỘ sau:
Ý
NGHIỆP |
Ý |
Tư tâm
sở làm thể |
Hữu bộ |
Thẩm
lự tư |
Kinh
bộ |
Quyết
định tư |
Kinh
bộ |
BIỂU |
Thân |
Hình
sắc làm thể |
Hữu bộ |
Phát
động làm thể |
Chính
lượng bộ |
Động
thân tư |
Kinh
bộ |
Ngữ |
Âm
thanh làm thể |
Hữu bộ |
Hành
động làm thể |
Chính
lượng bộ |
Phát
ngữ tư |
Kinh
bộ |
VÔ BIỂU |
Thân |
Sắc do
đại chủng tạo |
Hữu bộ |
Chủng
tử tư tâm sở |
Kinh
bộ |
Ngữ |
Sắc do
đại chủng tạo |
Hữu bộ |
Chủng
tử tư tâm sở |
Kinh
bộ |
Về nghĩa của
chủng
tử tư tâm sở của Kinh bộ như thế nào?
Như việc thọ giới, từ khi phát nguyện dứt bảy chi tội ác của
thân, ngữ, nhưng chưa chính thức thọ giới, còn ở giai đoạn của hạnh vị,
thì huân tập thành bảy chủng tử tư gia hạnh. Cho đến sau khi gặp thắng
duyên (cơ duyên tốt), qua lần kiết-ma thứ ba xong, từ nơi chủng tử tư
gia hạnh, huân tập thành chủng tử tư căn bản, từ đó, bảy chi chủng tử
này cứ mỗi niệm tăng trưởng mãi đến khi gặp duyên xả giới mới mất. Về ác
giới cũng vậy, lại cũng có nghĩa từ một chủng tử tư, sát-na sát-na, bảy
chi công năng tăng trưởng. Ðại thừa cũng chia xẻ nghĩa này, nhưng cho
rằng tư chủng tử huân tập nơi thức thứ tám, thức thứ tám nắm giữ tư
chủng tử đó. Trong khi đó Kinh bộ lại nói, tư chủng tử này hân tập nơi
sắc tâm, và sắc tâm nắm giữ tư chủng tử, nếu lìa sắc tâm tư chủng tử
không thể có được.
TIẾT 2: CÁC MẶT KHÁC CỦA NGHIỆP
Trong tiết này, luận văn trước hết nêu ra bốn loại là lọai có
chấp thọ không chấp thọ, loại năm sự, loại tình phi
tình, loại đại chủng đồng dị và sau mới nói đến tánh
chất hệ thuộc vào ba cõi, chín địa của nghiệp, nhưng ở đây, chỉ nói
về loại sau hết, tức là tánh chất hệ thuộc của nghiệp vào ba cõi, chín
địa mà thôi.
VỀ TÁNH CHẤT CỦA NGHIỆP
Nghiệp có ba tánh: thiện, ác, vô ký, song chỉ có hai tánh
thiện và ác mới là nghiệp, chứ vô ký tánh không phải nghiệp. Do ý nghiệp
thiện hay ác mà phát sinh ra thân biểu và vô biểu nghiệp, cũng như khẩu
biểu và vô biểu nghiệp thiện hay ác. Nhưng ý nghiệp vô ký chỉ phát ra thân
hoặc ngữ biểu nghiệp vô ký, chứ không có thân, ngữ vô biểu
nghiệp. Tại sao vậy? Vì tính vô ký chẳng phải lành dữ, thế lực của
nó quá yếu không thể chiêu cảm được kết quả như nghiệp thiện hay ác, vì
vậy, chỉ có thân, ngữ biểu nghiệp vô ký. Chứ không có vô biểu vô ký.
Nhưng sao gọi là thiện ác vô ký?
Luận Tỳ-bà-sa 51 nói: "Nếu pháp
không chiêu cảm quả khả ái, lạc thọ thì gọi là thiện, còn nếu chiêu cảm
quả không khả ái, khổ thọ thì gọi là ác, nếu khác với cả hai sự đó thì
gọi là vô ký".
Luận Câu-xá 15 nói: "Nghiệp an ổn hay chiêu cảm
được quả báo khả ái và Niết-bàn, tạm thời và vĩnh viễn xa lìa thống khổ
gọi là thiện, nghiệp không an ổn hay chiêu cảm quả báo bất khả ái, gọi
là ác; còn nghiệp trái với hai tánh trên gọi là vô ký. Ðây là căn cứ sự
cảm quả để phân biệt thiện, ác, vô ký tánh".
Luận Câu-xá13: ‘’Lại căn cứ vào nguyên do để
chia ba tánh thiện, ác, vô ký; mỗi tánh đều có bốn thứ là: thắng nghĩa,
tự tánh, tương ưng, đẳng khởi".
Bốn thứ thiện
1. Thắng nghiã thiện:
Chỉ Niết-bàn rất an ổn, vĩnh viễn, bặt dứt dấu vết thống khổ. Thắng
nghĩa có nghĩa là tuyệt vời, tuyệt đối.
2. Tự tánh thiện: Tức
chỉ cho năm tâm sở tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, có tự thể là thiện,
chứ không nhờ cái khác mới có như tương ưng và đẳng khởi thiện.
3. Tương ưng thiện: Tức
những tâm sở nhờ tương ưng với năm tâm sở tự tánh thiện ở trên mà thành,
chứ tự thể nó không phải là thiện.
4. Ðẳng khởi thiện: Chỉ
cho thân, ngữ thiện nghiệp do sự phối hợp bình đẳng của tự tánh thiện và
tương ưng thiện mà khởi lên.
Bốn thứ ác
1.Thắng nghĩa ác: Chỉ
sanh tử, và sanh tử tự tánh rất là khổ, xấu ác cùng cực.
2. Tự tánh ác: Chỉ năm
tâm sở: vô tàm, vô quý, tham, sân, si; vì tự thể nó là ác, chứ không
phải chờ tương ưng, đẳng khởi mới thành ác.
3. Tương ưng ác: Chỉ các
tâm tâm sở mà tự tánh không phải ác, nhưng và tương ưng với năm tâm sở
tự tánh ác mà thành.
4. Ðẳng khởi ác: Chỉ
thân, ngữ ác nghiệp do sự phối hợp bình đẳng của tự tánh ác và tương ưng
ác mà khởi lên.
Vô ký tánh chỉ có thắng nghĩa vô ký, tức chỉ cho hư không vô
vi và phi trạch diệt vô vi. Vì thể của hai vô vi này là thường trú, nên
gọi là thắng nghĩa, nhưng nó không phải là cái chứng đắc của đạo nên
không được gọi là thiện mà chỉ gọi là vô ký. Ngoài ra, trong 46 tâm sở,
thứ nào cũng thông cả hai hoặc ba tánh, nhưng không có thứ nào thuần là
vô ký, nên không lập tự tánh vô ký, và đã không có tự tánh vô ký thì
cũng không có tương ưng và đẳng khởi vô ký.
Nếu lại lấy giới và địa để phân biệt năm nghiệp vừa nêu trên
thì sẽ thấy ý nghiệp thiện và vô ký ở cả ba cõi, chín địa đều có; còn ác
nghiệp chỉ giới hạn ở cõi Dục; thiện vô biểu thông cả hai cõi Dục và
Sắc. Ác vô biểu chỉ giới hạn ở cõi Dục. Thân, ngữ thiện biểu nghiệp
thông cả cõi Dục và Sơ thiền, còn ác biểu nghiệp chỉ giới hạn ở cõi Dục.
Tánh vô phú vô ký chỉ giới hạn ở Sơ thiền.
BIỂU ÐỒ NGHIỆP PHÂN BIỆT THEO GIỚI ÐỊA
NGHIỆP |
Nghiệp |
Thiện |
ở ba
cõi, chín địa |
Vô ký |
Ác |
chỉ có
ở cõi Dục |
Biểu |
Thiện |
chỉ có
ở cõi Dục và Sơ thiền |
Hữu phú |
chỉ có ở
cõi Dục |
Vô ký |
Ác |
chỉ có
ở cõi Dục và cõi Sắc |
Vô biểu |
Thiện |
chỉ có ở
cõi Dục |
Ác |
*
TIẾT 3. Ý NGHĨA BIỂU NGHIỆP
VÔ BIỂU NGHIỆP
Tướng trạng biểu nghiệp - vô biểu nghiệp như thế nào? Vô biểu
có ba:
1. Luật nghi vô biểu: Thuộc thiện, lại chia
làm ba:
a. Biệt giải thoát luật nghi
vô biểu: Thành tựu do sự dứt trừ từng tội nơi thân và ngữ.
b. Tịnh lự luật nghi vô biểu:
Cũng gọi là "định cộng giới" nhờ nhập định, tự nhiên rời bỏ
các tội lỗi nơi thân và ngữ. Vô biểu này phát sinh trong khi nhập định,
khi xuất định thì mất.
c. Vô lậu luật nghi vô biểu:
Còn gọi là "đạo cộng giới" Khi thiện tâm vô lậu khởi lên, tự
nhiên lìa bỏ các tội lỗi nơi thân, ngữ. Nó phát sinh ngay khi thiện tâm
vô lậu phát sinh, và diệt mất ngay khi thiện tâm vô lậu diệt.
2.Bất luật nghi vô biểu: Thuộc ác.
3. Phi luật nghi phi bất luật nghi vô biểu: Ở
giữa hai thứ trên.
Biệt giải thoát luật nghi có tám thứ: Bí-sô, Bí-sô-ni, Chánh
học, Cần sách, Cần sách nữ, Cận sự nam, Cận sự nữ và Cận trụ luật nghi.
Nhưng thực chất chỉ có bốn: Bí-sô, Cần sách, Cận sự và Cận trụ. Vì lìa
Bí-sô không thể có Bí-sô ni, lìa Cần sách không thể có Cần sách nữ và
Chánh học. Lìa Cận sự không thể có Cận trụ luật nghi.
Trong tám biệt giải thoát luật nghi, Cận trụ, Cận sự nam, Cận
sự nữ thuộc giới tại gia. Còn năm thứ kia thuộc về giới xuất gia. Lại
nữa, cận trụ luật nghi là giới chỉ thọ trong một ngày một đêm, qua khỏi
một ngày một đêm gọi là đêm hết (dạ tận) giới tự nhiên xả, cò bảy thứ
kia là giới thọ suốt đời.Về giới Cận trụ, theo Kinh bộ, không những chỉ
thọ trong một ngày đêm là có thể thọ trong nhiều ngày đêm.
Hỏi: Luật nghi và bất luật nghi vô biểu nghiệp phải
chăng đều do biểu nghiệp sanh hay không do biểu nghiệp sanh?
Ðáp: Do biểu nghiệp sanh cũng có, không do biểu
nghiệp sanh cũng có. Xem biểu đồ dưới đây sẽ rõ:
VÔ BIỂU |
Luật
nghi (Thiện) |
Biệt giải thoát
luật nghi |
Bí sô
giới
Bí sô
ni giới
Chánh
học
Cần
sách
Cần
sách nữ
Cận sự
giới
Cận sự
nữ
Cận trụ
giới |
Biểu và Vô biểu
nghiệp |
- Tịnh
lự luật nghi
- Vô
lậu luật nghi |
|
Chỉ do Vô biểu |
Bất
luật nghi (Ác) |
|
|
Biểu và
Vô biểu nghiệp |
Phi
luật Phi phi bất luật nghi (phi thiện phi ác) |
|
|
Hỏi:
Vô biểu ấy làm sao thành tựu được? Như thế nào là xả bỏ?
Ðáp: Trong ba thứ luật nghi: Biệt giải thoát, tịnh
lự và vô lậu. Trước nói về biệt giải thoát luật nghi. Câu-xá ký14
nói " Luật nghi biệt giải thoát do người khác dạy mà được thàh tựu".
Nghĩa là nhờ sự truyền dạy của người khác mà đắc giới. Có hai cách:
1. Từ cá nhân Tăng-già (Tăng-già
bổ-đặc-già-la) mà thọ đắc, đó là giới Cận sự, Cận sự nữ, Cận trú, Cần
sách, Cần sách nữ. Câu-xá Quang ký 14 nói: "Cần sách, Cần
sách nữ từ nơi hai vị Tăng mà thọ đắc; Cận sự, Cận sự nữ, Cận trú chỉ từ
một vị Tăng mà thọ đắc".
2. Từ Tăng già (Tăng chúng, bốn
nguời trở lên) mà thọ đắc. Ðó là giới Bí-sô, Bí-sô-ni và Chánh học, phải
từ nơi năm vị hoặc mười vị Tăng mà thọ đắc.
Nếu nói rộng về sự duyên đắc giới cụ túc, thì có sự bất đồng
giữa bốn bộ luật, năm bộ luận.
Sự bất đồng trong bốn bộ luật:
a. Luật Thập Tụng nêu mười duyên
đắc giới.
b. Luật Tứ Phần nêu
năm duyên.
c. Luật Tăng Kỳ nêu
bốn duyên.
d. Luật Ngũ Phần
nêu năm duyên.
Sự bất đồng trong năm bộ luận:
a. Luận Tỳ-ni mẫu, năm duyên.
b. Luận
Ma-đắc-lặc-già, mười duyên .
c. Luận Thiện Kiến,
tám duyên.
d. Luận Tát-bà-đa,
bảy duyên.
đ. Luận Minh Liễu,
bảy duyên.
Giữa các thuyết dị đồng đó, Câu-xá chọn Thập Tụng luật
nêu mười duyên đắc giới:
1. Tự nhiên đắc:
Trường hợp Phật và Ðộc giác do vô sư trí ngộ đạo tự nhiên đắc giới.
2. Kiến đế
đắc: Còn gọi là nhập chánh tánh ly sanh, trường hợp năm Tỳ-kheo
Kiều-trần-như, thấy lý Tứ đế mà đắc giới.
3. Thiện
tai đắc: Trường hợp Da-xá, do Phật bảo: "Thiện lai Tỷ kheo"(Ehi
Bikkhu) mà đắc giới.
4. Tự thệ
đắc: Tức trường hợp Ðại Ca-diếp do tin và phát lời thệ rằng: "Phật
là Ðại sư của mình" mà đắc giới.
5. Luận
nghị đắc: Hoặc gọi là "đáp vấn" tức trường hợp chú bé bảy tuổi
Tô-đà-di, nhân Phật hỏi: "Nhà ngươi ở đâu?" Chú bé đáp: "Ba
cõi không nhà (tam giới vô gia)", câu đáp làm vừa ý Phật, nên dù
tuổi chưa đủ hai mươi, Phật vẫn cho phép Tăng kiết ma thọ cụ túc cho.
6. Thọ
trọng pháp: Tức trường hợp Ðại Sanh Chủ thọ tám kỉnh pháp mà
đắc giới.
7. Khiển sứ
đắc: trường hợp Pháp Thọ Tỷ-kheo-ni. Muốn đến giữa Tăng thọ
giới nhưng vì tướng mạo đoan nghiêm sợ đi đường bất trắc, Phật sai sứ
đến truyền giới cho.
8. Biên ngũ
đắc: Do bốn người làm Tăng chúng và vị trì luật làm người thứ
năm để Kiết ma (trì luật vi đệ ngũ nhân), tức trường hợp ở nơi không đủ
mười vị Tăng kiết ma truyền giới.
9. Kiết-ma
đắc: Hoặc còn gọi do thập chúng, tức trường hợp ở nơi đủ mười
Tăng kiềt-ma truyền giới, nhiều hơn không ngại.
10. Tam quy
đắc: Còn gọi là tam ngữ đắc, tức trường hợp nhóm sáu mươi
người hiền (lục thập hiền bộ). Tuy nhiên, đối với tam ngữ đắc này, Luật
Thập Tụng 60 nói: "Nếu khi Phật chưa chế pháp bạch tứ kiết ma, người
nào quy mạng về Phật, xướng ba lần: Tôi theo Phật xuất gia, người
đó đã khéo thọ đắc cụ túc giới. Nhưng nếu sau khi Phật đã chế pháp bạch
tứ kiết ma, thì xướng ba lần xuất gia không gọi là đắc cụ túc giới".
Luận Hữu bộ nói: "Tam ngữ đắc, tam quy đắc, chỉ trong thời gian tám
năm sau Phật thành đạo thì được, còn sau tám năm đó thì không thể đắc
giới".
Trong mười cách đắc giới trên, tám cách sau có đủ biểu, vô
biểu nghiệp, còn hai cách trước chỉ có vô biểu nghiệp.
Tịnh lự luật nghi vô biểu cũng gọi là định cọng
giới vô biểu. Khi nhập định hữu lậu vị, chí, trung gian,
căn bản hay cận phần thì liền có vô biểu cùng định tâm phát sinh.
Vô lậu luật nghi vô biểu cũng gọi là đạo cọng
giới, cũng vậy, khi nhập định vô lậu vị chí, trung gian
hay căn bản, hễ pháp vô lậu xuất hiện, thì cùng lúc xa lìa xác tội lỗi
nơi thân, ngữ, nên tự nhiên phát sinh vô biểu [*].
[*] Cõi sắc và vô sắc chia ra tám
địa (bốn thiền, bốn định), mỗi địa đều có căn bản định và cận phần
định. Khi dứt hết tư hoặc của cõi dục, chính thức được định sơ thiền, đó
gọi là sơ thiền căn bản định, nhưng khi mới phục được tư hoặc của cõi
dục, chỉ phát sinh thiền định tương tự gần với căn bản định, đó gọi là
sơ thiền cận phần định. Nhị thiền cho đến phi phi tưởng mỗi địa cũng đều
có căn bản và cận phần định như thế. Nhưng cận phần định của sơ thiền
là từ dục giới tán địa bước lên sắc giới định địa, đó là điểm khác với
các phần định kia, nên cận phần định sơ thiền được mang tên riêng là vị
chí định hay vị đắc định thay vì gọi cận phần định. Trung gian định cũng
gọi là trung gian thiền, trung gian tịnh lự. Sơ thiền còn có cả tâm sở
tầm và từ, Nhị thiền trở nên đều dứt hết tầm từ. Nhưng khi sắp ra khỏi
sơ thiền và chưa lên nhị thiền, thì đã vứt bỏ tầm chỉ còn từ (vô tầm duy
tứ địa),chính tại đây gọi là trung gian định, ở chót sơ thiền và đại
phạm thiên vương thường trụ thiền định này
Tịnh lự và vô lậu luật nghi không cần nhờ bởi người khác
truyền thọ, nên không có biểu nghiệp.
Trong ba thứ luật nghi trên, biệt giải thoát là giới không
chuyển theo tâm (bất tùy tâm chuyển), nghĩa là khi đã đắc giới rồi, sau
đó, dù tâm có thay đổi, lúc ác, lúc vô ký hoặc vô tâm, nhưng không xả
giới hì giới thể vẫn tồn tại không mất. Ngược lại, định cọng giới và đạo
cọng giới là giới chuyển theo tâm (tùy tâm chuyển), hễ tâm nhập định
thì có, xuất định thì mất.
Lại, ba luật nghi đều có công năng phòng phi chỉ ác, nhưng
cách thức đạt được khác nhau. Biệt giải thoát chỉ ở tán tâm vị và loài
người thành đạt được qua cả ba giai đoạn gia hạnh, căn b?n và hậu khởi.
Chẳng hạn, về việc sát sinh, trước tiên móng lên ý nghĩ sát sinh, hoặc
chuẩn bị dụng cụ để giết, đó là gia hạnh nghiệp đạo. Khi chính thức giết
và người, vật bị giết chết hẳn, đó là căn bản nghiệp đạo. Sau khi giết
xong, chẳng những không h?i hận, lại còn thích thú đắc ý, do đó vô biểu
nghiệp sát tiếp tục không dứt, đó là hậu khởi nghiệp đạo. Khi thọ đắc
giới, đối với ba cách hay ba giai đoạn sát sinh có thể thề dứt bỏ không
làm. Như vậy là biệt giải thoát giới từ ba cách hay ba giai đoạn đó mà
đạt được. Nhưng tịnh lự và vô lậu luật nghi lại khác, chỉ do định tâm mà
đạt thành, khi tâm nhập định thì có, khi xuất định thì mất. Vì vậy, hai
luật nghi này chỉ đắc thành ở căn bản nghiệp đạo, chứ không đắc thành
từ gia hạnh và hậu khởi.
Lại nữa, đối với bất cứ chúng sanh nào và bất cứ ở đâu, bất
cứ lúc nào và bất cứ vì lẽ gì, thọ trì cấm giới, quyết dứt bảy chi tội
của thân ngữ đối với đối tượng đó, mới gọi là đắc giới. Nếu chỉ dứt tội
lỗi theo năm sự hạn định sau đây, thì chỉ gọi là diệu hạnh, chứ không
thể gọi là giới. Năm hạn định là:
a. Hữu tình định:
Tức thề rằng, ta chỉ lìa sự giết đối với loài hữu tình này chứ không
đối với loài khác.
b. Chi định:
Tức thề ta chỉ giữ cấm giới không giết hoặc không trộm... chứ không
phải giữ cả bảy chi tịnh giới.
c. Xứ định:
Chỉ lìa sát sinh ở chỗ này chứ không phải ở chỗ khác.
d. Thời
định: Tức chỉ lìa sát sinh trong thời gian này, chứ không phải ở
thời gian khác.
đ. Duyên
định: Tức như thề lìa mọi sự sát sinh, trừ vì lý do chiến đấu.
Hỏi: Còn bất luật nghi
vô biểu (ác giới) làm sao đắc thành?
Ðáp: Do hai lý do: 1. Làm; 2. Thề làm.
1. Làm: Như trường hợp
sanh vào nhà bất luật nghi, như nhà thợ săn, đồ tể... lúc thơ ấu có mục
kích việc làm ác, tự nhiên tâm tập nhiễm suy tư theo thói ác đó, nhưng
chưa nhúng tay làm thì chưa thành ác giới, đến khi nhúng tay làm tức
liền thành ác giới vô biểu.
2. Thề làm: Như trường
hợp không sanh vào nhà ác giới, nhưng do thấy việc ác như sát sinh, trộm
cắp... có lợi lộc nhiều, bèn thề nguyện suốt đời làm các việc đó để
nuôi sống. Ngay khi thề nguyện như vậy, liền thành ác giới vô biểu, dù
chưa nhúng tay làm.
Tuy vậy, theo Hữu bộ, dù làm hay thề làm cũng phải đối với
tất cả chúng sanh suốt đời, và đủ cả bảy chi mới thành ác giới vô biểu,
nếu không, chỉ thành sự ác ở chặng giữa là phi luật nghi, phi bất luật
nghi mà thôi. Ngược lại, theo Kinh bộ, dù không đủ cả bay chi, không
suốt đời, không đối với tất cả chúng sanh, nhưng nếu làm hoặc thề làm
điều ác, vẫn thành bất luật nghi vô biểu (ác giới vô biểu).
Hỏi: Còn phi luật nghi phi bất luật nghi do thế nào
mà đắc thành?
Ðáp: Phi luật nghi phi bất luật nghi (phi thiện phi
ác giới) đắc thành từ ba phương diện:
1. Do ruộng phước: Tức
đối với người có phước đức thường bố thí, cúng dường hoa quả, vườn
cây... hoặc ngược lại, đánh mắng làm tổn thương,... Khi rời khỏi sự làm
thiện hoặc làm ác như vậy, liền đắc thành phi luật nghi phi bất luật
nghi vô biểu.
2. Do thọ lãnh: Tức thề
làm. Như tự thề: "Hễ chưa đánh mắng hoặc chưa lễ Phật thì chưa ăn",
khi vừa phát lời thề như vậy, liền đắc thành phi luật nghi phi bất luật
nghi vô biểu.
3. Do làm: Tức sau khi
phát thiện tâm (lễ Phật) hay phát các tâm (đánh mắng) một cách hăng hái,
đưa đến hành động, thì ngay khi hành động liền đắc thành phi luật nghi
phi bất luật nghi vô biểu.
Tóm lại, luật nghi và bất luật nghi vô biểu do biểu nghiệp
dẫn đầu. Như tịnh lự và vô lậu luật nghi là hai giới tùy tâm chuyển, chỉ
có vô biểu chứ không có biểu nghiệp. Biệt giải thoát luật nghi nếu từ
người khác thọ đắc, thì chắc chắn có biểu nghiệp rồi mới thành vô biểu
nghiệp. Nếu trường hợp tự nhiên đắc, kiến đế đắc, không từ người khác
thọ đắc, thì chỉ có vô biểu mà không có biểu nghiệp. Còn bất luật nghi
vô biểu, nếu tự mình làm, thì trước hết do biểu nghiệp rồi mới thành vô
biểu nghiệp, nhưng nếu theo do người khác làm thì không do biểu nghiệp
cũng vẫn thành vô biểu nghiệp.
Hỏi: Trên đã nói sự duyên đắc thiện giới, ác giới
(luật nghi, bất luật nghi), vậy xả thiện giới, ác giới như thế nào?
Trước hãy nói về xả biệt giải thoát giới. Như đã biết, biệt
giải thoát giới có tám thứ, trong đó trừ giới cận trú, còn bảy giới kia
đều do bốn duyên xả:
Cố ý xả giới;
Mệnh chung;
Nam nữ căn cùng
xuất hiện;
Ðoạn thiện căn.
Giới cận trú ngoài bốn duyên trên còn thêm một duyên nữa là
mãn một ngày đêm, vì giới này chỉ thọ một ngày đêm, hễ hết hạn thì giới
tự nhiên xả.
Về việc xả giới này, Kinh bộ có quan điểm: "Bốn trọng giới
sát, đạo, dâm, vọng là giới đoạn đầu, rất nặng, hễ phạm một trong bốn
giới ấy, thì tất cả giới xuất gia đều mất". Hữu bộ trái lại, cho rằng
giả sử phàm một trong bốn trọng giới đó cũng không hẳn mất hết giới xuất
gia, nếu biết chân thành sám hối, thề không trái và hộ trì các giới còn
lại. Luận chủ theo kinh bộ.
Hỏi: Xả tịnh lự luật nghi thế nào?
Ðáp: Có ba duyên xả:
1. Dịch địa: Tức đổi vị trí, như
từ hạ địa sanh lên thượng địa thì xả giới tại hạ địa, từ thượng địa sanh
xuống hạ địa thì xả giới thượng địa, vì định cọng giới hữu lậu luôn
luôn ràng buộc theo giới và địa vậy.
2. Thối chuyển: Lúc
đầu được thắng định, sau sanh phiền não, mất thắng đ?nh nên giới cũng
mất.
3. Mạng chung
Hỏi: Xả vô lậu luật nghi như thế nào?
Ðáp: Do ba duyên xả:
a. Ðược quả: Khi
chứng được quả vị cao hơn, thì vô lậu đạo của quả vị thấp không còn nên
giới cũng mất.
b. Luyện căn:
Trước là độn căn, nhờ luyện tập trở nên lợi căn, nên giới của độn căn
cũng mất, và phát sinh giới lợi căn.
c. Bị thối
chuyển: Khi quả vị bị thối thất thì giới cũng mất
theo luôn.
Hỏi: Xả bất luật nghi thế nào?
Ðáp: Do ba duyên xả: 1. Chết; 2. Nam nữ căn cùng
xuất hiện; 3. Thọ đắc thiện giới.
Hỏi: Xả phi luật nghi phi bất luật nghi thế nào?
Ðáp: Do sáu duyên xả:
1. Tâm thể làm chấm dứt, như thề
trong một thời gian nào làm thiện hoặc làm ác, nhưng đến nửa chừng hối
hận, thề bỏ lời thề trước đó đi, thì giới cũng liền xả.
2. Do thế lực chấm
dứt, tức do thế lực của lòng tin thanh tịnh dẫn sanh vô biểu thiện, do
thế lực của phiền não dẫn sanh vô biểu ác, như sức bay của mũi tên, đến
ngang độ nào đó thì rơi xuống. Cũng thế, đến độ nào đó thì giới xả.
3. Tác nghiệp chấm
dứt, vô biểu vốn do tác nghiệp thiện ác tạo thành, nếu khi lời thề còn,
nhưng tác nghiệp chấm dứt, thì giới cũng xả.
4. Sự vật chấm dứt,
như bố thí phòng xá, cầu,vườn, hoặc đặt lưới bẫy... Khi những thứ này
hư hoại thì giới cũng xả.
5. Thọ mạng chấm
dứt.
6. Thiện căn chấm
dứt.
Ðoạn 2: CÁC LOẠI NGHIỆP ÐƯỢC NÓI
TRONG CÁC KINH
Trên đã nói thể tánh của nghiệp, đoạn này nói về các loại
nghiệp được nói trong các kinh. Câu-xá Luận 15 nêu
mười một thứ nghiệp:
1. Tam tánh nghiệp: Tức ba nghiệp thiện, ác,
vô ký.
2. Phước thảy ba nghiệp: Tức là phước nghiệp
(nghiệp lành) ở cõi Dục, phi phước nghiệp (nghiệp ác) ở cõi Dục, bất
động nghiệp ở cõi Sắc và Vô sắc.
3. Tam thọ nghiệp: Tức nghiệp thuận theo lạc
thọ ở cõi Dục và ở cõi Sơ, Nhị, Tam thiền; nghiệp thuận theo khổ thọ là
nghiệp bất thiện ở cõi Dục; nghiệp thuận theo bất khổ bất lạc thọ ở từ
Tam thiên lên đến trời Hữu đảnh.
4. Tam thời nghiệp: Thời kỳ nghiệp thọ quả
báo có hiện tại và vị lai, và thuận thứ thọ, thuận hậu thọ. Về điểm này
có ba chủ trương khác nhau:
a. Nhà bốn nghiệp: Chủ
trương có thuận hiện nghiệp là hiện tại tạo nghiệp, hiện tại
thọ quả. Thuận sanh nghiệp hiện tại tạo nghiệp, đời kế thọ quả.
Thuận hậu nghiệp, hiện tại tạo nghiệp, đời thứ ba trở đi mới
thọ quả. Thuận bất định nghiệp, hiện tại tạo nghiệp, nhưng thời
kỳ thọ quả không nhất định.
b. Nhà năm nghiệp: Chủ
trương ngoài ba cách thọ quả báo trên. Riêng thuận bất định nghiệp lại
chia ra có quả báo nhất định, thời hạn thọ quả báo không nhất định, và
quả báo cùng thời hạn thọ quả báo đều nhất định.
c. Nhà tám nghiệp: Căn
cứ bốn nghiệp nói trên, chia mỗi nghiệp ra làm hai thứ mà thành tám
nghiệp. Xem đồ biểu:
TÁM
NGHIỆP |
Thuận
hiện nghiệp |
Báo
định - Thời định
Báo bất
định - Thời định |
Thuận
sanh nghiệp |
Báo
định - Thời định
Báo bất
định - Thời định |
Thuận
hậu nghiệp |
Báo
định - Thời định
Báo bất
định - Thời định |
Thuận
bất định nghiệp |
Báo
định - Thời bất định
Báo bất
định - Thời bất định |
Ðối với ba
chủ trương trên, luận
Câu-xá 15 nói, "
Ba nghiệp thuận hiện
pháp thọ là định, cộng thêm nghiệp thuận bất định thành bốn, thuyết này
đúng hơn". Trong chỉ rõ thời gian thọ quả định bất định, chính là
giải thích bốn nghiệp tướng của kinh đã nói vậy. Như vậy đủ thấy luận
chủ Thế Thân chấp nhận thuyết bốn nghiệp. Nhưng trong bốn nghiệp đó,
nghiệp nào dẫn đến quả tổng báo gọi là
dẫn nghiệp? Nghiệp nào
dẫn đến quả riêng mà gọi là
mãn nghiệp? Theo luận
Tỳ-bà-sa
114n có ba thuyết:
(1) Hai nghiệp thuận sanh thọ,
thuận hậu thọ, có đủ cả dẫn nghiệp, mãn nghiệp; còn hai nghiệp thuận
hiện thọ, thuận bất định thọ thì chỉ giới hạn nơi mãn nghiệp.
(2) Ba nghiệp thuận sanh thọ,
thuận hậu thọ, và thuận bất định thọ có đủ cả dẫn nghiệp, mãn nghiệp,
còn nghiệp thuận hiện thọ chỉ giới hạn ở mãn nghiệp.
(3) Bốn nghiệp đều có đủ cả dẫn
nghiệp, mãn nghiệp, luận Tỳ-bà-sa 2 đồng với thuyết này.
5. Thân tâm thọ nghiệp: Tức nghiệp do thân
tho, nghiệp do tâm thọ. Nghiệp do tâm thọ là nghiệp thọ quả báo
(dị thục) tương ưng với đệ lục ý thức. Như thiện nghiệp ở từ trung gian
định của Sắc giới đến cõi trời Hữu Ðảnh, nó chỉ chiêu cảm do tâm lãnh
thọ. Nghiệp do thân thọ là nghiệp chiêu cảm dị thục do thân
lãnh thọ, như ác nghiệp ở cõi Dục.
6. Ba nghiệp khúc trược uế: Tức do siểm khúc
phát sinh ra nghiệp thân ngữ ý gọi là nghiệp; do sân phát sinh ba
nghiệp gọi la uế nghiệp. Do tham phát sinh ra nghiệp thân ngữ ý gọi là
trược nghiệp.
7. Hắc bạch nghiệp: Gồm hắc hắc nghiệp là
nghiệp ác thọ quả báo ác ở cõi Dục; bạch bạch nghiệp là nghiệp
lành thọ quả lành ở cõi Sắc; hắc bạch hắc bạch nghiệp là
nghiệp lành dữ xen lộn nhau thọ quả báo khả ái phi khả ái xen lộn ở cõi
Dục.
8. Tam mâu-ni nghiệp: Ba nghiệp mâu-ni và ba
nghiệp thanh tịnh như biểu đồ:
Ba
nghiệp mâu ni |
Ba
nghiệp thanh tịnh |
Ba
nghiệp |
- Thân mâu-ni (.....)
- Ngữ
mâu-ni (.....)
- Ý
mâu-ni (.....) |
Thân thanh tịnh
Ngữ
thanh tịnh
Ý thanh
tịnh |
(.....) Thân
(.....)
Ngữ
(.....)
Ý |
Mâu-ni tiếng
Phạn là Muni, tàu dịch là tịch mặc, có nghĩa là phiền não dứt sạch, vắng
lặng. Hàng thánh giả vô học dứt sạch mọi phiền não, nên thân nghiệp
được gọi là thân mâu-ni, ngữ nghiệp được gọi là ngữ mâu-ni, ý nghiệp
được gọi là ý mâu-ni. Thân ngữ ý đều thành diệu hạnh, nên gọi là thân
thanh tịnh, ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh. Diệu hạnh thông cả hai loại
thiện hữu lậu, thiện vô lậu, vì tạm thời và vĩnh viễn nó xa lìa mọi ác
hạnh phiền não cấu uế.
9. Ba ác hạnh: Tức ba ác hạnh và ba diệu
hạnh. Ba ác hạnh là hết thảy ba nghiệp ác của thân, ngữ, ý; ba diệu hạnh
là hết thảy ba nghiệp lành của thân, ngữ, ý. Trong đó, ý ác hạnh và ý
diệu hạnh không những nhiếp trọn ý nghiệp thiện ác mà ý ác hạnh còn
nhiếp luôn cả tham, sân, tà kiến, ý diệu hạnh còn nhiếp luôn cả vô tham,
vô sân, chánh kiến. Xem biểu đồ sau:
a. Ba ác hạnh: |
Ba
nghiệp |
Thân
ác hạnh |
Thân
nghiệp |
Ngữ ác
hạnh |
Ngữ
nghiệp |
Ý ác
hạnh |
Ý
nghiệp và tham, sân, tà kiến. |
b. Ba diệu hạnh: |
Ba
nghiệp |
Thân
diệu hạnh |
Thân
nghiệp |
Ngữ
diệu hạnh |
Ngữ
nghiệp |
Ý diệu
hạnh |
Ý
nghiệp và vô tham, vô sân, chánh kiến. |
10.
Mười nghiệp đạo: Có hai loại: mười ác nghiệp đạo và mười thiện
nghiệp đạo:
10 ác
nghiệp |
Thân |
Sát,
đạo, dâm (3) |
Ngữ |
Nói
dối, hai lưỡi, thô ác, thêu dệt (4) |
Ý |
Tham,
sân, tà kiến (3) |
10
thiện nghiệp |
Thân |
Lìa
sát, lìa đạo, lìa dâm (3) |
Ngữ |
Lìa
nói hai lưỡi, thô ác, thêu dệt (4) |
Ý |
Lìa
tham, lìa sân, chánh kiến (3) |
Tất cả việc
lành dữ phát động ở thân, ngữ, ý đều kinh qua ba giai đoạn gia hạnh, căn
bản và hậu khởi (
Kinh Ưu-bà-tắc Bồ-tát Giới, phẩm nghiệp nói
là phương tiện trang nghiêm, căn bản, thành dĩ.
Kinh Phạm võng
Bồ-tát giới nói là sát nhân, sát duyên, sát pháp, sát nghiệp).
Gia hạnh là tiền phương tiện; căn bản là ngay lúc sự việc
hoàn thành; hậu khởi là những hành động kế tiếp sau đó như bắt thú, lột
da, xẻ thịt... Trong ba phần gia hạnh, căn bản, hậu khởi đó, chỉ phần
căn bản mới gọi nghiệp đạo. Luận Câu-xá 16 nói: "Về bất thiện, thân ác
nghiệp đạo trừ một phần của thân ác hạnh không kể vào, đó là
các thân nghiệp ác thuộc gia hạnh và hậu khởi, và các nghiệp như uống
rượu, đánh, trói... vì những việc này không thô bạo rõ rệt bằng những
thân ác hạnh làm kẻ khác mất mạng, mất của, mất vợ, mà như Phật dạy, đặc
biệt phải xa lánh. Chỉ mấy việc ác chính làm kẻ khác mất mạng, mất
của... mới gọi là nghiệp đạo. Ngữ ác nghiệp đạo không kể những ngữ ác
hành thuộc gia hạnh, hậu khởi và khinh vi. Ý ác nghiệp đạo không kể
những ý ác hạnh thuộc tư duy ác và lòng tham nhẹ... Về thiện, thân thiện
nghiệp đạo trừ một phần của thân diệu hạnh không kể vào, đó là thân
thiện nghiệp thuộc gia hạnh, hậu khởi và các việc khác như bố thí, cúng
dường, lìa uống rượu... Ngữ thiện nghiệp đạo, trừ một phần của ngữ diệu
hạnh như ái ngữ, thật ngữ... không kể vào. Ý thiện nghiệp đạo, trừ một
phần của ý diệu hạnh như các tư duy thiện không kể vào.
Hỏi: Vì sao chỉ căn cứ vào phần căn bản để lập
nghiệp đạo?
Ðạo là đường đi. Trong 10 ác nghiệp, tham, sân, tà kiến là
đường đi của tư tâm sở. Ba nghiệp thân, bốn nghiệp ngữ tự nó là nghiệp
và cũng là đường đi của tư nghiệp (ý nghiệp), nên gọi là nghiệp đạo,
hoặc gọi đủ là nghiệp nghiệp đạo. Nghĩa của 10 thiện nghiệp đạo cũng
chiếu theo đó để hiểu.
Hỏi: Mười điều lành, mười điều ác làm sao trở thành
nghiệp đạo?
Trước nói mười điều ác trở thành nghiệp đạo:
1. Thành nghiệp đạo sát sanh do
đủ năm duyên:
a. Có tâm muốn giết.
b. Ðối tượng là
loại hữu tình.
2. Tưởng đó là loại hữu tình.
a. Dùng sức giết.
b. Không giết lầm.
3. Thành lập đạo không cho mà lấy
(trộm) do đủ năm duyên:
Móng tâm lấy cắp.
Ðối với tài vật của
kẻ khác.
Tưởng đó là tài vật
của kẻ khác.
Dùng sức lấy.
Không phải lấy lầm
đem về làm của mình.
4. Thành nghiệp đạo tà dâm có đủ
bốn duyên:
Ðối với không phải cảnh (vợ, hầu)
mà làm việc không đáng làm.
Ðối với không phải
nơi (đạo) mà làm việc không đáng làm.
Ðối với không phải
chỗ mà làm việc không đáng làm.
Ðối với phi thời mà
làm việc không đáng làm.
5. Thành nghiệp đạo vọng ngữ (hư
cuống ngữ) do đủ bốn duyên:
Tâm ô nhiễm.
Tư tưởng và phát
ngôn trái với điều luật nói.
Người bị lừa hiểu
rõ điều được nghe.
Người nói dối biết
rõ người nói dối.
6. Thành nghiệp đạo hai lưỡi (ly
gián ngữ) do đủ bốn duyên:
Tâm ô nhiễm.
Phát lời nói hại kẻ
khác.
Người nghe hiểu rõ.
Người nói biết rõ
mình nói hai lưỡi.
7. Thành nghiệp đạo nói thô ác
(ác khẩu) do đủ bốn duyên:
Tâm ô nhiễm.
Phát lời cộc cằn,
thô bạo, chửi mắng kẻ khác.
Người nghe hiểu rõ.
Người nói biết rõ
mình nói thô ác.
8. Thành nghiệp đạo nói thêu diệt
(ỷ ngữ, tạp uế ngữ) do có đủ hai duyên:
Tâm ô nhiễm.
Phát lời tà vạy,
thêu dệt vẽ vời, dua nịnh, tạo các từ khúc sai trái dâm ô.
Phạm vi ỷ ngữ rất rộng, trừ ba
thứ hư cuống ngữ, thô các ngữ, ly gián ngữ, tất cả ngôn từ điên đảo, tà
vạy, phát ra với tâm ô nhiễm đều thuộc loại ỷ ngữ này.
9. Thành nghiệp đạo tham, do đối
với tài vật của người khác sanh lòng tham, mong cầu nghĩ tưởng làm sao
vật đó thuộc về mình, chứ không còn thuộc người khác.
10. Thành nghiệp đạo sân, do đối
với loại hữu tình, sanh lòng giận giữ, muốn làm hại.
11. Thành nghiệp đạo tà kiến, do
mê lầm bài bác lý nhân quả chính đáng, và chấp theo nhân quả tà vạy.
Hỏi: Trên đã nói đến 10 nghiệp đạo ác, còn thành tựu
10 nghiệp đạo thiện như thế nào?
Đáp: Ðây nói về người cần sách thọ giới Cụ túc. Khi
lên giới đàn, lễ đại Tăng, phát lời thành thật thỉnh Thân giáo sư truyền
giới, cho đến xong lần kiết-ma thứ ba, ngay ở sát-na này thành tựu 10
nghiệp đạo thiện.
Hỏi: Dựa vào tâm nào để thành tựu mười nghiệp đạo
thiện và ác ấy?
Đáp: Gia hạnh của mười nghiệp đạo ác do ba căn bất
thiện là tham, sân,si mà phát sinh. Nhưng rốt cuộc, chính thức thành
nghiệp đạo thì là do tâm sân nhuế mà thành nghiệp đạo sát sanh; do tham
dục mà thành nghiệp đạo trộm cắp, tà dâm; do cả tham, sân, si mà thành
hư cuống ngữ, ly gián ngữ tạp uế ngữ; do sân nhuế mà thành thô ác ngữ,
do tham phiền não mà thành nghiệp đạo tham; do sân phiền não mà thành
nghiệp đạo sân; do si phiền não mà thành nghiệp đạo tà kiến.
Còn mười nghiệp đạo thiện, luận Câu-xá 16 nói:" Các nghiệp
đạo thiện vô luận là gia hạnh, căn bản, hay hậu khởi đều từ ba thiện căn
vô tham, vô sân, vô si mà khởi phát, mà là thiện tâm tất nhiên tương
ưng với ba thiện căn.
11. Ba tà hạnh: Tức tà ngữ (nói lời tà), tà
nghiệp (hành động tà), tà mạng (nuôi sống tà). Tà ngữ là ngữ nghiệp do
sân và si phát sinh. Tà nghiệp là thân nghiệp do sân và tham phát sinh.
Tà mạng là thân ngữ nghiệp do tham và si phát sinh.
Hỏi: Tại sao ngoài tà ngữ, tà nghiệp còn lập thêm tà
mạng nữa?
Đáp: Luận Bà sa 16 nói: "Như trong ngữ
nghiệp tạo bất thiện nghiệp, nếu do lòng tham mà phát khởi thì gọi là tà
ngữ, cũng gọi là tà mạng, vì trong đó gồm có mục đích nuôi sống nữa.
Nếu do tâm sân si mà phát khởi, thì chỉ gọi là tà ngữ, chứ không gọi là
tà mạng, bởi không vì mục đích nuôi sống. Và thân nghiệp đạo bất thiện
cũng vậy, nếu do lòng tham phát khởi, thì gọi là tà nghiệp, cũng gọi là
tà mạng; nhưng nếu do sân si mà phát khởi, chỉ gọi là tà nghiệp chứ
không gọi là tà mạng".
Lại hỏi: Nếu vậy thì sao Phật lại dạy riêng hai thứ chánh
mạng và tà mạng?
Vì tà mạng là cuống hoặc lòng người, vi tế khó nhận thấy,
cũng khó trừ cho sạch được. Như thế, lối nuôi sống tà vạy là hành vi khó
cấm chế, nên Phật nêu riêng ra để nhắc nhở cần phải cố gắng sống theo
lối sống chánh mạng.
Ngoài mười một loại nghiệp nói trên, Luận Câu-xá 17
còn đề cập đến hai thứ dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là
nghiệp dẫn đến quả báo chung (cựu dịch là tổng báo nghiệp),mãn nghiệp là
nghiệp dẫn đến quả báo riêng (cựu dịch: biệt báo nghiệp).Ví như loài
người tuy không đồng nhau về cơ thể, trai, gái, lớn, bé, mập, gầy, xấu,
đẹp cao, lùn, mạnh, yếu; về trí tuệ sáng, tối, nhanh, chậm; về tính tình
lành, dữ, nhiều tham, sân, si, mạn, ít tham, sân, si, mạn; cho đến
sang, hèn, thọ, yểu; cuộc đời suông sẻ hay gặp khó khăn... nhưng vẫn
đồng nhất dưới dạng con người chứ không phải trời, hay thú vật. Nguyên
nhân đưa đến kết quả đồng nhất đó gọi là dẫn nghiệp. Còn mọi sự
bất đồng về cơ thể, trí tuệ, tính tình giữa người này với người khác,
gọi đó là biệt báo, và nguyên nhân đưa đến biệt báo ấy gọi là mãn
nghiệp.Vậy, nhân nghiệp thiện hay nghiệp ác mà phải sanh đến cõi
lành hay cõi dữ, đó là do dẫn nghiệp; tuy đồng sanh ra ở cõi lành hay
cõi dữ, nhưng từ cơ thể đến tính tình không ai giống ai đó là do mãn
nghiệp.
Hỏi: Nhưng dẫn nghiệp ấy đều do nhiều nghiệp hợp lại
hay chỉ do một nghiệp dẫn sanh đến cõi này hay cõi khác? Và chỉ dẫn
sanh ra một đời hay nhiều đời?
Đáp: Luận Câu-xá 17 giải thích:" Nhất
nghiệp dẫn nhất sanh, đa nghiệp năng viên mãn". (do một nghiệp dẫn sanh
một đời, do nhiều nghiệp làm cho trọn vẹn). Như người thợ vẽ phát họa
hình dáng một đồ hình tổng quát, một con người hay một con trâu chẳng
hạn, phát họa đó dụ cho dẫn nghiệp; lại từ trên đồ hình đó, tô vẽ thêm
đủ các bộ phận, màu sắc đầy là dụ cho mãn nghiệp.
Tóm lại, nghiệp có nhiều thứ, nhưng không ngoài ba thứ thân,
ngữ, ý hoặc thiện, hoặc ác, hoặc trung dung, thuộc hữu lậu hay thuộc vô
lậu. Nghiệp thiện hữu lậu, tánh nó ít nhiều mùi vị bất lương, vị ngã
trong đó. Còn thiện vô lậu, trái lại, hoàn toàn thanh tịnh, thoát hẳn
mùi vị bất lương, vị ngã. Ðó là diệu thiện.
Nay đây, nói nguyên nhân của mê không những chỉ ba nghiệp ác,
mà cũng gồm luôn cả ba nghiệp thiện hữu lậu, vì nó là nguyên nhân trực
tiếp chiêu cảm quả báo tốt lành trong cõi người, cõi trời. Nhưng đồng
thời nó cũng là trợ üduyên tiến lên thiện vô lậu, mở đường cho sự giác
ngộ, nên không thể xem thường được.
PHỤ LỤC PHẨM NGHIỆP
Theo Tân Thượng tọa bộ như ngài Phật Minh (Buddhaghosa), căn
cứ trên ba điểm là thời gian, công dụng,và quả báo nặng nhẹ để
phân loại các nghiệp như sau:
1. Căn cứ trên thời gian
Cấp hiệu nghiệp: Nghiệp
chỉ thọ quả báo ngay trong đời này, nếu vì một tha lực nào đó ngăn chặn
không thể thọ quả báo thì nghiệp đó không còn hiệu lực nữa. Như người
thợ săn bắn mũi tên đến con vật, nhưng không trúng thì mũi tên đó coi
như bỏ, con vật không bị thương. Nghiệp này tương tự thuận hiện thọ
nghiệp nói trên.
Hưởng hiệu nghiệp:
Nghiệp sẽ thọ quả báo vào đời sau, nếu đời sau vì một tha lực nào đó mà
nghiệp bị ngăn cản không thực hiện được thì nghiệp ấy vĩnh viễn không
thực hiện được.
Vô định kỳ hiệu nghiệp:
Nghiệp sẽ thọ quả báo vào bất cứ lúc nào trong tương lai, trừ khi người
đó chứng được Niết-bàn trước khi thọ quả báo thì nghiệp ấy trở thành vô
hiệu. Ðây cũng tương tợ định nghiệp được nói trên.
Vô hiệu nghiệp hay Dĩ hữu
nghiệp: Ðây là chỉ chung cả ba nghiệp trên, mà hoặc vì tự nó bạt
nhược, không thể sanh kết quả, hoặc bị nghiệp lực khác mạnh hơn làm tiêu
hủy thì trở thành vô hiệu.
2. Căn cứ trên công dụng: Tức về mặt hành
tướng, chia nghiệp ra làm ba thứ:
Năng sanh nghiệp: Ðây
chỉ cho hữu chi trong mười hai nhân duyên. Nó tiềm ẩn chờ cơ
hội thuận hay nghịch mà phát sinh quả hay không phát sinh quả. Nghiệp
này có tính chất như hoãn hiệu nghiệp trên kia.
Năng tiêu nghiệp: Nghiệp
này làm cho năng sanh và năng trì nghiệp dù thiện dù ác, đều bị thủ
tiêu.
Năng hủy nghiệp: Nghiệp
này còn mạnh hơn năng tiêu nghiệp. Nó đủ sức nhổ tận gốc rễ các nghiệp
đang phát hiện hay sẽ phát hiện.
3. Căn cứ trên quả báo nặng nhẹ: Chia ra bốn
thứ:
a. Cực trọng nghiệp:
Nghiệp rất mạnh, rất nặng, đủ sức lôi cuốn các nghiệp khác theo nó về
thiện hay về ác, nên nó có thể bao hàm bốn tánh chất năng sanh, năng
trì, năng tiêu, năng hủy nghiệp trên kia.
b.Cận tử nghiệp: Là
nghiệp có tính chất quyết định cho sự thọ sanh đời sau hiện lên trong
khi sắp chết. Một người có cực trọng nghiệp tự nhiên đã quyết định sự
thọ sanh đời sau vào cảnh khổ hay vui, nhưng nếu cực trọng nghiệp này
không có, thì kẻ sắp chết, trong giờ phút đó bất cứ nghiệp gì hiện lên,
nghiệp ấy đủ khả năng quyết định sự thọ sanh về sau của người đó.
c.Tập quán nghiệp:
Nghiệp do sự tập quán liên tục về ngôn ngữ, hành động, suy tư, nó yếu
hơn cận tử nghiệp, nhưng nếu chiến thắng các nghiệp khác thì nó trở
thành cận tử nghiệp.
d.Tích lũy nghiệp: Là
nghiệp tiïch lũy từ vô thỉ mà mỗi hữu tình đều có đủ toàn bộ trong mình.
Có thể gọi nó là con chó săn thuộc vô định kỳ hiệu nghiệp. Nếu không có
những nghiệp mới làm thay đổi, thì tích lũy nghiệp này sẵn sàng hiện
lên trong giờ sắp chết và trở thành cận tử nghiệp. Phi kẻ trí khó lòng
nhận rõ được nó, nên các nhà Tân Thượng tọa bộ ví nó như một hòn đá được
người ngu ném đi, mà dù khi chưa ném, hòn đá cũng đã vẫn ném rồi, nghĩa
là tự nó rơi xuống, không cần đợi ném rơi.
Du-già tông còn căn cứ trên các điểm dị, đồng tự biến, cọng
biến mà chia ra có cọng nghiệp và bất cọng nghiệp (biệt nghiệp). Như mọi
người tương đồng tạo nghiệp đưa đến kết qủa hiện thành một thế giới,
một xã hội tương đồng, hoặc như mười người chung sức dựng lên một ngôi
nhà, đó là cọng báo do cọng nghiệp, tức do công sức đồng nhau của mọi
người trong đó tạo ra. Ðó là cọng nghiệp. Tuy nhiên, trong cùng một thế
giới, một xã hội, hay một ngôi nhà, nhưng mỗi người có mỗi cơ thể, mỗi
thái độ tâm lý, tình cảm khác nhau, hoặc mỗi người làm mỗi nghề, tập mỗi
việc khác nhau để đưa đến mỗi đời sống không giống nhau. Ðó gọi là bất
cọng nghiệp và bất cọng báo (biệt nghiệp, biệt báo). Nhưng hai thứ cọng
nghiệp và bất cọng nghiệp này cũng luôn gắn liền nhau nên lại diễn ra
nghiệp cọng trung bất cọng như cùng ở chung trong một ngôi nhà, rủi bị
bão, nhà bị sập, có người chết, có người gãy tay, có người u đầu...
nhưng có người bình yên vô sự, kiểu như nói "đồng sàng dị mộng". Và
nghiệp
bất cọngtrung cọng, như trong ngôi nhà đó có một người
tập tánh uống rượu, nói khùng, gây gỗ, thậm chí châm lửa đốt nhà, và
người đó bị chết thiêu, như vậy là nghiệp riêng người đó làm, người đó
chịu, nhưng những người khác ở cùng nhà cũng phải chịu họa lây. Ðó là
bất cọng trung cọng.