Luận
bản
LUẬN
CÂU XÁ
A.
TÁC GIẢ VÀ THỜI GIAN TẠO LUẬN
Tác
giả luận này là Luận sư Bà-tấu-bàn-đậu (Vasubandhu - cựu dịch là Thiên
Thân, tân dịch là Thế Thân), người Bắc Aán Ðộ, sanh trong khoảng 900 năm
sau Phật nhập diệt, tại đô thành Bố-lâu-sa-bố-sa (Purusapura), nước
Kiền-đà-la (Gandhara), họ Kiều-thi-la, chủng tộc Bà-la-môn, Ngài có ba
anh em đều xuất gia theo bộ phái Tát-bà-đa (Sarvàstivada: Nhất thế hữu
bộ, gọi tắc là Hữu bộ, một trong hai mươi bộ phái Tiểu thừa), nhưng anh
ngài là Vô Trước (Asanga) sớm tỏ ngộ không lý (Sunyata) của Tiểu thừa,
không còn bị bế tắc ở nơi đó, nên thông suốt thật tướng, quay về nghiên
cứu và hoằng dương giáo lý Ðại Thừa. Em ngài là Tỷ-lân-trì-đạt-đa thì
chỉ theo giáo nghĩa Tiểu thừa mà thôi. Riêng ngài là bậc thông tuệ tuyệt
vời, khi còn theo Tiểu thừa đã viết 500 bộ luận để xiễn dương giáo
nghĩa này. Về sau, được sự khuyến dẫn của anh là Vô Trước, ngài trở về
Ðại thừa và cũng viết 500 bộ luận để hoằng dương giáo nghĩa này. Vì thế,
đương thời tôn ngài là Thiên Bộ Luận Sư. Câu-xá Luận là một trong 500
bộ luận Tiểu thừa do ngài trước tác. Ðến năm 80 tuổi ngài viết bộ luận
cuối cùng là "Duy Thức Tam Thập Tụng". Như vậy, có thể ước định, ngài
viết luận Câu-xá vào khoảng từ 40-50 tuổi, tức khi ngài đang theo Tiểu
thừa.
Theo
Tây Vức Ký 2, cách thành Bố-lâu-sa-bố-la, khoảng tám, chín dặm về phía
đông, có một cây tất-bát-la, phía nam cây này có một ngôi tháp cao do
vua A-nị-sắc-ca (Kaniska, 120TL) dựng lên khoảng năm trăm năm sau Phật
Niết-bàn, phía tây ngôi tháp có một ngôi chùa cao rộng, với nhiều tầng,
tên là Quỳnh Lâm, cũng do vua Ca-nị-sắc-ca lập. Tầng thứ ba là một Tăng
phòng, nơi mà trước kia ngài Hiếp Tôn Giả ở, phía đông Tăng phòng có một
gian nhà, chính nơi đây ngài Thế Thân viết bộ luận Câu-xá này.
B.
Ý HƯỚNG TẠO LUẬN
Khi
tách khỏi Thượng tọa bộ, Hữu bộ có kiến giải riêng về Phật pháp. Theo
Hữu bộ mục đích của toàn bộ Phật pháp ở chỗ chỉ ra sự khổ của thế giới
hiện hữu và phương cách thoát ly sự khổ đó để đạt Niết-bàn an ổn vĩnh
cửu. Nói đầy đủ hơn là chỉ rõ sự khổ mà người cầu giải thoát cần phải
biết, nguyên nhân sự khổ mà người cầu giải thoát cần phải diệt trừ,
phương cách diệt khổ cần phải tu và cảnh giới Niết-bàn an vui cần phải
chứng. Ðó là bốn Thánh đế bao gồm tất cả mọi sự vật thế gian và xuất thế
gian. Mọi sự vật này lại có thể chia ra năm vị là sắc, tâm, tâm sở, tâm
bất tương ưng và vô vi. Sắc tức năm căn, năm trần và vô biểu sắc. Tâm
tức tinh thần, khả năng nhận thức, tức tâm vương. Tâm sở là công dụng
tinh thần đặc thù như cảm giác, tri giác, tưởng tượng v.v... Công dụng
đặc thù này không phải là công dụng của tâm vương nhưng nó có tự thể
riêng hợp cùng với tâm vương thành có cảm giác tri giác, như thọ tâm sở
hợp với tâm vương thành có sự cảm thọ vui khổ. Tâm bất tương ưng hành,
hành là tạo tác, những pháp có công dụng tạo tác gọi là hành như sanh,
trụ, dị, diệt v.v... nó từ tâm và sắc mà có được, chứ không phải như tâm
sở tương ưng với tâm vương, nên gọi tâm bất tương ưng hành. Vô vi pháp
tức ba thứ trạch diệt, phi trạch diệt và hư không vô vi. Năm vị pháp này
theo chỗ tiện nghi chia làm năm uẩn và vô vi, hoặc chia làm mười hai
xứ, hoặc chia làm mười tám giới. Năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới hợp
lại gọi là ba khoa, thể nó thường hằng bất diệt, chỉ khi tác dụng nó
chưa khởi gọi là pháp vị lai, khi đã khởi rồi gọi là quá khứ, khi đang
khởi gọi hiện tại. Ðây là chủ trương "ba đời thật có", "pháp thể hằng
có" của tông phái Hữu bộ. Pháp thể tuy hằng có, nhưng tác dụng của nó
sanh khởi được phải nhờ đến sự hòa hợp của các cái khác và sự quan hệ
trước sau, tức là nhờ nhân duyên, chứ không thể đơn độc khởi lên tác
dụng. Tự thể mỗi pháp riêng còn không thể khởi lên tác dụng huống là có
một chủ tể thường nhất để gọi đó là ngã được sao? Do đó tông này còn
được gọi là "Pháp hữu ngã vô tông".
Hỏi:
Nếu không có ngã thể chủ tể thường nhất thì cái gì dẫn đến sự khổ của
thế giới hiện thực này?
Ðáp:
Dẫn đến sự khổ của thế giới hiện thực không ngoài nghiệp nhân và phiền
não duyên, nếu dứt hết nghiệp nhân và phiền não duyên thì quả báo sự khổ
tự dứt, đồng thời chứng đắc diệu thể Niết-bàn. Phương pháp dứt nghiệp
phiền não này nói lược là Thánh đạo tám chi, nói rộng là bảy khoa ba
mươi bảy giác phần. Tóm lại, tông phái Hữu bộ rất chú trọng lý tánh, chú
trọng dùng tuệ giản trạch các pháp để dứt mê hoặc chứng chân lý. Cho
nên trên bước đường tu đạo không ngoài vận dụng tuệ thế tục (hưũ lậu
tuệ) và tuệ thắng nghĩa (vô lậu tuệ) tuần tự tiến theo ba đạo là kiến
đạo, tu đạo, vô học đạo. Kiến đạo là dựa vào tuệ trạch pháp thấy biết
một cách xác thật về lý Tứ đế, dứt được kiến hoặc cũng gọi mê lý hoặc.
Tu đạo là tiến lên dùng sức tuệ trạch pháp tiếp tục quán sát lý Tứ đế,
để dứt trừ tư hoặc cũng gọi là mê sự hoặc (sự là sự trạng). Nhưng hai
đạo này còn trên đường tu tập dứt hoặc chứ chưa hòan toàn thanh tịnh,
nên còn gọi chúng là hữu học, cho đến khi hòan toàn sạch hết mê hoặc
chứng đạt Niết-bàn mới gọi là vô học đạo, còn gọi là vô học vị. Lại do
căn cơ người tu có hạ, trung, thượng nên kết quả khác nhau. Hạ căn phải
nhờ nghe giáo pháp Phật để tu mới được giải thoát, đây là chủng tánh
thanh văn, kết quả chứng A-la-hán. Trung căn không nhờ sự nghe giáo, chỉ
do tự lực quán sát lý Mười hai Nhân duyên mà dứt hoặc ngộ đạo. Ðây là
chủng tánh duyên giác, kết quả chứng độc giác Phật. Thượng căn trải
nhiều kiếp tu hành đầy đủ nhất thế chủng trí, dứt sạch mê hoặc, viên mãn
công hạnh tự lợi lợi tha, chứng vô thượng giác. Ðây là chủng tánh đại
giác.
Giáo
nghĩa của Hữu bộ từ khi tách khỏi Thượng tọa bộ cho đến khi luận sư
Ca-đa-diễn-ni tử ra đời mới tổ chức hoàn chỉnh có hệ thốngvới bộ luận
Phát Trí của ông, được truyền bá mạnh nhất tại nước Ca-thấp-di-la
(Kasmir, Kế Tân) ở Bắc Aán. Ðến giữa thế kỷ thứ hai TL, vua Ca-nị-sắc-ca
của Ca-thấp-di-la triệu tập Ðại hội Kết tập Kinh điển lần thứ tư dưới
sự chủ trì của các ngài Hiếp Tôn Giả, Pháp Cứu, Thế Hữu, Diệu Âm, Giác
Thiên thuộc Hữu bộ (trong đó, Thế Hữu làm Thượng thủ), kết quả đặc bi?t
của cuộc kết tập là cho ra đời bộ luận A-tỳ-đạt-ma Ðại Tỳ-bà-sa 200
cuốn, nhằm giải thích luận Phát Trí. Từ trước các học giả A-tỳ-đạt-ma
được gọi là Ðối pháp sư, từ khi luận Ðại tỳ-bà-sa ra đời thì các học giả
này được gọi là Tỳ-bà-sa sư, nghĩa là vị thầy giải thích tỉ mỉ. Họ
truyền bá rất mạnh Hữu bộ, tôn trọng luận Lục Túc, Phát Trí hơn kinh,
mạt sát các kinh luận của các bộ phái khác hành trì và cứ mê chấp chủ
trương "Ba đời thật có, ba khoa đều thật", cho đó là chân lý, rồi chê
bai kẻ khác.
Ðến
đây các luận thư của Hữu bộ đã phong phú, lý nghĩa dồi dào đến chi li
phiền toái, người học khó theo nổi, đòi hỏi đến sách tóm lược. Ðáp ứng
nhu cầu đó, Pháp Thắng đã viết A-tỳ-đàm Tâm luận, rồi Như Ý Luận sư viết
Vô Y Hư Không Luận giải thích Tâm Luận. Pháp Cứu, đệ tử của Pháp Thắng
(cũng gọi Pháp Thượng, Ðạt-ma-thi-la), không đồng ý Hư Không Luận nên
viết Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận để giải thích Tâm Luận của thầy mình. Các
luận này tuy nói là tóm lược Ðại Tỳ-bà-sa nhưng đã có nhiều điều không
trung thực với Ðại Tỳ-bà-sa, nghĩa là không trung thực với lý thuyết Hữu
bộ, nên khi Tâm Luận ra đời được truyền bá tại nước Càn-đà-la trở thành
đối lập với sự truyền bá của Ðại Tỳ-bà-sa ở Ca-thấp-di-la. Ngài Thế
Thân sinh tại Càn-đà-la đọc đến Tâm Luận, Tạp Tâm Luận, cùng giáo nghĩa
của Kinh bộ có chỗ đồng tình, ngược lại không đồng tình một số giáo
nghĩa chính của Hữu bộ nhưng Hữu bộ đã tôn trọng nó hơn cả kinh Phật
nói, nên ngài muốn thẩm định lại thị phi, bèn cải trang đến tại
Ca-thấp-di-la nghiên cứu giáo nghĩa Hữu bộ, nhất là nghiên cứu bộ luận
Ðại tỳ-bà-sa, được giữ nghiêm ngặt tại nước đó. Khi đến nơi ngài được vị
A-la-hán Ngộ Nhập (Tác-kiện-đà) (Tây Tạng truyền rằng ngài học với
Chúng Hiền là học trò của Ngộ Nhập) truyền dạy giáo nghĩa Hữu bộ cho.
Sau 4 năm học hiểu thấu trọn giáo nghĩa Hữu bộ ngài được ngài Ngộ Nhập
ngầm khuyên trở về. Khi ngài trở về nước bắt đầu giảng Ðại Tỳ-bà-sa, tập
hết yếu nghĩa tạo thành 600 bài tụng, trong đó thường thêm chữ "truyền
thuyết" biểu thị sự không tin hẳn chủ trương "Ba đời thật có, pháp thể
hằng có" của Hữu bộ. Sáu trăm bài tụng này được đưa đến Ca-thấp-di-la,
các học giả Ca-thấp-di-la rất hoan nghênh và yêu cầu giải thích, ngài đã
giải thích và đúc kết thành bộ luận Câu-xá với nội dung trình bày theo
sự hiểu biết độc lập của mình chứ không thiên vị tông phái nào. Tuy ngài
theo Hữu bộ, nhưng nếu giáo nghĩa nào của Hữu bộ không đúng thì ngài
đều bỏ qua, còn nếu giáo nghĩa nào của Kinh bộ mà đúng thì thì ngài thu
lấy, mục đích là trừ bỏ bịnh tình chấp ngoan cố hẹp hòi từ trước của nhà
Hữu bộ, để phát huy chân lý Phật, và phát huy chân lý Phật tức là để
giúp cho chúng sanh khai sinh trí tuệ, đoạn trừ phiền não, lấy đó làm
cách duy trì Chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Xem bài tụng cuốn
luận này đủ thấy ngài không theo hẳn giáo nghĩa chính thống của Hữu bộ:
"Nghĩa lý của Ca-thấp-di-la đã hoàn bị. Có một ít điều chê bai đó là lỗi
ở tôi, nhưng phê phán đâu là chính, điều đó chỉ do ở đức Mâu-ni". Ðối
với luận Câu-xá này, Tây Vức Ký cuốn 4 đã viết: "Bấy giờ có Bồ-tát Thế
Thân chuyên tâm đạo mầu, tìm hiểu nghĩa lý bên ngoài ngôn ngữ, phá chỗ
mê chấp của Tỳ-bà-sa, tạo luận Câu-xá, lời lẽ nghĩa lý tinh vi, lý trí
cao siêu trong sáng".
Do
lẽ trên nên khi luận Câu-xá ra đời được mọi người hoan nghênh nghiên
cứu và được tôn là Thông minh luận, khiến Luận sư Chúng Hiền viết Thuận
Chánh Lý luận 80 cuốn để kích bác lại.
C.
TỔ CHỨC CỦA BỘ LUẬN CÂU-XÁ.
Như
đã biết, luận này nhằm mục đích phá thiên chấp của Hữu bộ để làm sáng
tỏ chân lý của giáo pháp. Tuy nhiên, để thấy rõ chân lý ấy, Luận được
trình bày như sau: Toàn bộ luận này có 30 cuốn chia làm 9 phẩm:
1.
Phẩm Phân biệt giới, 2 quyển
2. Phẩm Phân
biệt căn, 5 quyển
3. Phẩm Phân
biệt thế gian, 5 quyển
4. Phẩm Phân
biệt nghiệp, 6 quyển
5. Phẩm Phân
biệt tùy miên, 3 quyển
6. Phẩm Phân
biệt hiền thánh, 4 quyển
7. Phẩm Phân
biệt trí, 2 quyển
8. Phẩm Phân
biệt định, 2 quyển
9. Phẩm Phân
biệt ngã, 1 quyển
Chín
phẩm này nhằm thuyết minh hai điều:
1.
Tám phẩm đầu (29 quyển): Thuyết minh sự tướng của các pháp.
2. Phẩm Phá
ngã (1 quyển): Thuyết minh lý vô ngã.
Hoặc
nói rõ hơn, toàn bộ Luận không ngoài thuyết minh về bốn nghĩa chính sau
đây:
1.
Thể dụng của vũ trụ vạn hữu (phẩm Giới và Căn).
2. Nhân và
quả của mê (các phẩm 3, 4 và 5).
3. Nhân và
quả của ngộ (các phẩm 6, 7 và 8).
4. Ðạo lý vô
ngã (phẩm 9).
Ðồ biểu:
1. Thể dụng các pháp |
Thể (P.1) |
Nói tổng quát pháp hữu lậu, vô
lậu. |
Dụng (P.2) |
2. Nhân quả của mê |
Quả (P.3) |
Nói riêng về hữu lậu (mê) |
Thân nhân (P.4) |
Sơ duyên (P.5) |
3. Nhân quả của ngộ |
Quả (P.6) |
Nói riêng về vô lậu (ngộ) |
Thân nhân (P.7) |
Sơ duyên (P.8) |
4. Ðạo lý vô ngã |
(P.9) |
|
D. TÔN CHỈ CỦA LUẬN
Như tổ chức
của Luận này chắc chắn nó phải có đối tượng tôn sùng và có chủ đích để
làm tôn chỉ. Vậy tôn chỉ của nó là gì? Ðó là: "Quán sát cùng tột lý nhân
quả của mê và ngộ để đạt đến chân trí vô lậu của Niết-bàn". Tại sao nói
như vậy? Bởi lẽ, nếu không nhằm mục đích ấy, thì thuyết minh về thể
tánh, tác dụng của vạn hữu ở hai phẩm Giới và Căn gồm 7 quyển để làm gì?
Thuyết minh về nhân và quả của mê ở ba phẩm Thế gian, Nghiệp, Tùy miên
gồm 14 quyển, để làm gì? Thuyết minh về nhân và quả của ngộ ở ba phẩm
Hiền Thánh, Trí, Ðịnh gồm 8 quyển, để làm gì? Và đả phá chủ trương Hữu
ngã của luận phái cổ đại Aán Ðộ như Số luận (Samkhya) và Thắng luận
(Vaisesika) và Ðộc tử bộ ở phẩm Phá ngã 1 quyển, để làm gì? Tất cả đều
nhằm mục đích phát khởi chân trí vô lậu của chúng sanh để quét sạch trần
cấu vọng niệm vô minh mà đạt đến Niết-bàn. Cứ xem đề mục của Luận thì
càng thấy rõ tôn chỉ của nó. Ðề mục của Luận là: A-tỳ-đạt-ma Câu-xá
(Abhidharma Kosa). A-tỳ (Abhi) dịch là đối; Ðạt-ma (Dharma) dịch là
pháp;Câu-xá (Kosa) dịch là tạng. Vậy A-tỳ-đạt-ma Câu-xá là Ðối pháp
tạng.
Ðối
có hai nghĩa: 1. Ðối quán lý mê ngộ (lý Tứ đế). 2. Ðối hướng quả
Niết-bàn. Nhưng lấy cái gì để đối quán và đối hướng? Ðó là trí tuệ vô
lậu chân chính. Luận này chứa đựng trọn vẹn trí tuệ ấy nên mệnh danh là
Ðối pháp tạng. Ðã gọi là Ðối pháp tạng, thì tôn chỉ được thuyết minh
trong đó không ngoài trí tuệ đối pháp.
Tóm
lại, giáo nghĩa của Luận này tuy trăm sai ngàn biệt, nhưng tôn chỉ
trọng yếu không ngoài khai phát trí tuệ vô lậu mà thôi.
Ð.
PHIÊN DỊCH VÀ HOẰNG TRUYỀN
Luận
được truyền sang do hai nhà dịch: Chân Ðế - người nước Ưu-thiền-ni
(Ujyaini) ở Aán Ðộ sang Trung Hoa dịch thành 22 quyển dưới triều Trần
Văn Ðế, niên hiệu Thiên Gia thứ 4 (563 TL), được các Ngài Trí Khải đời
Trần và Tịnh Huệ đời Ðường viết sớ giải truyền bá. Người thứ hai là
Huyền Trang đời Ðường dịch thành 30 quyển, trong những năm 650 TL và có
các Ngài Thần Thái, Phổ Quang, Pháp Bảo, Viên Huy, Huệ Huy viết sớ giải
truyền bá. Từ đó, Luận này trở thành bộ Luận căn bản của Câu-xá tông tại
Trung Hoa.