- PHẬT VÀ THÁNH CHÚNG
- Xuất bản: Phật Học Viện Nha Trang, Phật lịch 2513
THÁNH CHÚNG
Trong
suốt bốn mươi chín năm giáo hóa, từ thành đạo cho đến niết bàn, Phật
quy tụ xung quanh hào quang của ngài một số đệ tử, cả xuất gia lẫn tại
gia nhiều không kể xiết. Riêng chúng xuất gia cũng đã lên đến con số
kinh khủng rồi. Trong số nầy, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh
quả A La Hán, gồm có 1255 vị mà kinh điển thường ghi con số tròn là
1250. Đặc biệt nhất có mười vị mệnh danh là Thập Đại đệ tử. Gọi là Đại
vì những vị trong số mười người này đều có sở trường riêng, sở chứng
riêng và đạo hạnh riêng. Mười vị đại đệ tử ấy gọi là Thánh chúng của
Phật, mà giáo điển Đại thừa liệt kê như sau:
1.- Xá Lợi Phất, Trí tuệ số 1.
2.- Mục Kiền Liên, Thần thông số 1.
3.- Phú Lâu Na, Thuyết pháp số 1.
4.- Tu Bồ Đề, Giải không số 1.
5.- Ca Chiên Diên, Luận nghị số 1.
6.- Đại Ca Diếp, Đầu đà số 1.
7.- A Na Luật, Thiên nhãn số 1.
8.- Ưu Ba Ly, Trì giới số 1.
9.- A Nan Đà, Đa văn số 1.
10.- La Hầu La, Mật hạnh số 1.
1.- XÁ LỢI PHẤT (Sàriputra) Trí Tuệ số 1
Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai đệ tử cao cấp nhất của Phật. Cả hai
vốn là đôi bạn thâm giao từ ngày còn trẻ. Bấy giờ, hai người cùng ở
trong môn phái San Xa Dạ Tỳ La Lê Tử, một trong sáu nhóm Lục sư ngoại
đạo. Xá Lợi Phất từng nổi tiếng về biện tài vô ngại, còn Mục Kiền Liên
nổi tiếng về năng lực thần thông. Mỗi ngài đều có dưới gối một trăm đồ
chúng. Cả hai cùng ước hẹn với nhau rằng hể ai đắc đạo trước thì phải
thông báo ngay cho người kia biết để cùng theo chung một đường.
Một
hôm Xá Lợi Phất gặp Mã Thắng, tức A Xả Bà Thệ, một trong năm Tỳ kheo
đầu tiên, đang đi khất thực trong thành Vương Xá. Thấy phong độ uy
nghiêm tự tại của Mã Thắng, Xá Lợi Phất lân la đến hỏi, được vị này cho
biết ông đang theo Phật học đạo. Hỏi về giáo lý pháp Phật thì được giảng
cho nghe về lý duyên sanh của các pháp, rằng các pháp do nhân duyên mà
có sanh rồi cũng do nhân duyên mà có diệt, rằng tinh túy của giáo pháp
này tóm gọn trong một bài kệ là:
Chư pháp tùng duyên sanh
Diệc phục tùng duyên diệt
Ngã Phật đại sa môn
Thường tác như thị thuyết.
(Các pháp do duyên sanh
Lại cũng do duyên diệt
Thầy tôi là đức Phật
Thường dạy tôi như thế)
Nghe
xong đạo lý duyên sanh, Xá Lợi Phất như bừng tỉnh, rồi xin đi theo Mã
Thắng về yết kiến Phật. Được Phật khai thị rõ thêm về các đạo lý vô ngã,
niết bàn v.v... Xá Lợi Phất ước hẹn với Phật xin trở về đưa Mục Kiền
Liên đến, rồi cả hai cùng quy y Phật. Cùng theo về với hai người có thêm
hai trăm đồ chúng. Sự trở về này đã tăng thêm uy thế lớn lao cho Phật,
vì hai người nguyên là hai lãnh tụ tôn giáo vốn đã có nhiều uy tín trong
giới đạo học thời bấy giờ.
Riêng về Xá Lợi Phất, ngài là cháu gọi Câu Hy La tức
Trường trảo phạn chí bằng cậu ruột. Ông này cũng là một lãnh tụ ngoại
đạo tên tuổi và có tài biện luận. Sau khi thấy cháu theo Phật, ông rất
đổi ngạc nhiên, tìm đến hỏi lý do, được Xá Lợi Phất khai thị, rồi cũng
xin theo luôn.
Tương
truyền mẹ ngài Xá Lợi Phất, bà Xá Lợi (Sàri), chị ruột Câu Hy La, cũng
là một người đàn bà đặc biệt. Bà rất thông minh, biện tài còn giỏi hơn
em và chỉ thua con mà thôi. Thân phụ ngài tên là Ưu Bà Đề Xá hay Ưu Ba
Thất Sa (Upatisya). Tên ấy cũng được dùng để gọi ngài. Nhưng phong tục
Ấn Dộ bấy giờ có thói quen gọi con bằng tên mẹ. Như Sàriputra, phiên âm
Xá Lợi Phất Đa La, hay gọi tắt Xá Lợi Phật, có nghĩa là: con bà Xá Lợi
(Sàri: bà Xá Lợi; putra: con). Vì vậy Xà Lợi Phất, Tàu còn gọi là Xá Lợi
Tử.
Sau
khi theo gót Phật, suốt trên bốn mươi năm, Xá Lợi Phất mặc dù là bậc
trí tuệ kỳ vỹ, nhưng đối với Phật vẫn luôn luôn bách y bách thuận. Ngài
chưa bao giờ phạm một lỗi lầm nhỏ nào khiến Phật phiền lòng. Ngài thật
xứng đáng là bậc trưởng lão đứng đầu hàng Thánh chúng. Trong thời kỳ
kiến thiết tịnh xá Kỳ Viên, ngài được Phật ủy thác trông coi và lo liệu.
Chính ngài là người đầu tiên đem chánh pháp gieo rắc tại Xá Vệ và đưa
ngoại đạo về với Phật, trước khi Phật chưa quang lâm đến. Lại cũng chính
ngài là người được Phật đăïc biệt ủy thác giáo hóa La Hầu La.
Sự
tích ghi chép rằng, một hôm La Hầu La đi khất thực về, gương mặt có vẻ
không vui. Phật kêu lên gạn hỏi thì La Hầu La phàn nàn rằng trong đoàn
khất thực của mình chỉ có trưởng
lão Xá Lợi Phất và các Tỳ kheo lớn tuổi mới được tín thí cúng dường vật
thực béo bổ. Kỳ dư hạng sa môn như La Hầu La thì chỉ được tặng cho một
tý xíu xác mè ép và rau đồng trộn với cơm; ăn uống như thế thì làm sao
có đủ sức khỏe để tu hành. Phật rầy La Hầu La không nên có niệm đố kỵ,
dạy La Hầu La lui, rồi cho mời Xá Lợi Phất đến bảo rằng:
- Hôm nay ông ăn phải thức ăn bất tịnh, ông có biết không?
Xá
Lợi Phất giật mình, vì chính hôm ấy sau khi ăn xong thì đồ ăn ẩu ra
hết. Ngài ngạc nhiên không hiểu vì sao Phật lại biết được việc ấy. Riêng
ngài cũng tự xét chưa bao giờ làm trái hay thi hành lệch lạc luật khất
thực của Phật.
Nhân
cơ hội này, Phật chế ra pháp Lục hòa kỉnh. Pháp này gồm có sáu điểm cơ
bản quan trọng quy định nguyên tắc sanh hoạt trong nội bộ của chúng
tăng:
a.- Thân hòa đồng trú ( cùng ở chung với nhau một chỗ).
b.- Khẩu hòa vô tránh (không tranh cãi nhau).
c.- Ý hòa đồng duyệt (thông cảm cởi mở với nhau).
d.- Lợi hòa đồng quân ( chia đều lợi lộc để chung hưởng)
e.- Giới hòa đồng tu (cùng tu theo giới luật như nhau).
f.- Kiến hòa đồng giải (san sẻ kiến giải với nhau).
Sáu điểm cơ bản này quyết định sanh mạng của giáo đoàn. Vì vậy nghe xong, Xá Lợi Phất hoan hỷ tín thọ và áp dụng ngay.
Một
hôm, tại tịnh xá Kỳ Viên, sau ba tháng hạ an cư, Xá Lợi Phất từ giả
Phật để lên đường đi bố giáo. Ngài vừa ra khỏi cổng thì một Tỳ kheo lên
đầu cáo với Phật rằng Xá Lợi Phất vô cớ nhục mạ y rồi nhân cơn giận dữ,
thác cớ bố giáo để bỏ đi, chớ không có ý đi bố giáo thật sự. Phật cho
gọi Xá Lợi Phất lui. Sau khi được Phật cho biết lý do gọi về, Xá Lợi
Phất trầm tỉnh bạch rằng:
-
Bạch Phật! Từ ngày theo gót Phật học đạo, đến nay tuổi đã gần tám mươi,
để tử chưa hề sát hại sanh mạng, chưa hề nói dối, ngày ngày chỉ chăm lo
sám hối tội cũ. Nhờ hồng ân Phật, suốt thời gian dài đăng đẳng trên bốn
mươi năm, đệ tử rất sung sướng được thấy tâm mình trong lặng như nước
biếc. Vì vậy, đệ tử chưa từng biết khinh thị ai, nói chi đến việc lăng
nhục!
Bạch
Phật! Đất bùn là biểu trưng cho nhẫn nhục. Tất cả những gì bất tịnh
nhất trên thế gian này như máu mủ, đờm giải, phẩn nước tiểu v.v... đất
bùn đều lãnh thọ được hết. Đệ tử có thể xác quyết với Phật rằng đệ tử
muốn làm đất bùn và nguyện không làm trái ý bất cứ một ai. Dòng nước
không hề có niệm yêu ghét và trên thế gian này bất cứ một vật gì nhơ
nhớp cũng nhờ nước mà tẩy sạch. Đệ tử nguyện làm dòng nước gội tẩy ô uế
thế gian. Cái chổi không hề có niệm phân biệt, không chọn tốt xấu trước
khi quét phủi. Đệ tử nguyện làm cái chổi quét sạch bụi trần cho chúng
sanh. Từ khi lãnh thọ giáo pháp Phật, đệ tử luôn luôn an trú trong chánh
niệm, chưa hề biết phân biệt là gì, khinh thị là gì. Nếu quả thật đệ tử
có lỗi mà vị Tỳ kheo nào đó thấy được, xin vị ấy từ mẫn chỉ bảo, đệ tử
xin hướng đến vị ấy thành khẩn sám hối.
Phật
cho gọi vị Tỳ kheo đầu cáo ra đối chứng. Vị này hổ thẹn vì đã nói dối,
xin Phật và Xá Lợi Phất thứ dung. Đáp lại, Xá Lợi Phất không những không
tỏ ý giận dỗi, mà còn từ ái an ủi khuyên răn.
Một
hôm khác, nhân Xá Lợi Phất đi bố giáo về tối , phòng ở của ngài bị nhóm
Lục Quần Tỳ kheo chiếm ngủ. Xá Lợi Phất lẵng lặng ra ngoài trời, ngủ
dưới gốc cây. Sáng ngày, Phật biết chuyện này cho triệu tập đại chúng
lại rầy la. Lục Quần Tỳ kheo cãi bướng rằng Xá Lợi Phất không phải Bà la
môn, cũng chẳng phải Sát đế lỵ thì không có quyền dành riêng chỗ ngủ.
(Lục Quần Tỳ kheo gồm sáu người lếu láo nhất trong số đệ tử Phật, thường
hay toa rập nhau quấy rối làm những điều ngỗ ngáo). Phật dạy rằng trong
hàng đệ tử của ngài, sinh hoạt tuy bình đẳng, nhưng đối với những bậc
niên xỉ và pháp lạp cao, hết thảy Tỳ kheo khác có bổn phận cung kính
cúng dường, nhường nhịn nơi ăn chốn ở tốt nhất, nước uống thức ăn tốt
nhất. Xá Lợi Phất rất cảm động về lòng ưu ái của Phật đối với mình.
Lại
một hôm, sau khi được hung tin người lão hữu Mục Kiền Liên bị bọn Lõa
hình ngoại đạo ám hại trong khi đang đi bố giáo tại thành Thất La Phiệt
(tức Xá Vệ). Bấy giờ, đa số tăng chúng đang trú đóng tại Tỳ Xá Ly. Chỉ
có Phật, Xá Lợi Phất và một ít tỳ kheo hầu hạ Phật ở lại Vương Xá. Nghe
tin chẳng lành, Xá Lợi Phất ngất đi một hồi lâu, ngài xót xa thương cảm
bạn vô hạn, Phật phải dỗ dành an ủi mấy ngày liền. Sau đó, Phật triệu
tập tăng chúng lại, báo cho tất cả biết hung tin và đồng thời cũng cho
hay rằng trong ba tháng nữa, chính Phật cũng sẽ tấn nhập Niết bàn.
Nhận
tiếp hai tin chẳng lành, bạn chết và thầy sắp ra đi, Xá Lợi Phất cảm
thấy cô đơn đau xót, ngài xin Phật cho phép về quê thăm mẹ già tuổi đã
trên trăm, tại thôn Ca La Tý Noa Ca. Ngài dắt thêm một sa di tên Quân
Đầu. Về tới nhà ngài cho triệu tập dân cư trong vùng lại, cùng họ hàn
huyên ấm lạnh, rồi đem giáo pháp Phật giảng giải cho mọi người cùng
nghe, khuyên bảo họ nên theo gương từ bi nhẫn nhục của Phật mà sanh
hoạt. Sau khi vui vẻ từ giả mẹ già, bà con lối xóm, ngài nhập đại định
và thị tịch luôn. Theo gương các cao đệ của Phật trong quá khứ, ngài
không muốn chứng kiến cảnh Phật nhập niết bàn.
Linh
cốt của Xá Lợi Phất được Quân Đầu mang về trình Phật. Phập tập họp
chúng Tỳ kheo lại, nhìn vào xá lợi của vị cao đệ trưởng lão mà bảo rằng:
"Linh
cốt này trước khi còn là Đại trí Xá Lợi Phất, đã từng vì chúng sanh
thuyết pháp bố giáo khắp nơi. Trí tuệ của bậc đại trí này rộng lớn vô
biên, ngoài Phật ra không ai sánh kịp. Nhờ trí huệ ấy, bậc đại trí này
đã chứng ngộ pháp tánh, thiểu dục tri túc, dõng mãnh tinh thấn, thường
tu thiền định, vì người giáo hóa, không có ngã chấp, biện tài vô ngại
nhưng không ham tranh cãi, xá lánh người dữ, hàng phục ngoại đạo, tuyên
dương chánh pháp, xa lìa đau khổ, chứng ngộ giải thoát.
Đây là vị đệ tử số một của ta. Các người nên theo gương vị đại đệ tử ấy".
2.- MỤC KIỀN LIÊN (Maudgalyàyana) Thần thông số 1
Là
bạn tâm giao của Xá Lợi Phất từ ngày còn tu theo môn phái Sa Xa Dạ, Mục
Kiền Liên là vị đại đệ tử số hai của Phật, sau Xá Lợi Phất.
Thân
phụ ngài tên là Câu Lỵ Ca (Kolita), thân mẫu ngài thuộc họ Mục Kiền
Liên, nên trong kinh có chỗ gọi ngài là Câu Lỵ Ca hay Câu Luật Đà, nhưng
danh xưng thông dụng nhất là Mục Kiền Liên (Maudgalyàyana hay
Maudygapaputra).
Sau
khi về hầu Phật, ngài rất hăng say trong việc phổ biến Phật pháp. Không
khó khăn nào mà ngài không quyết tâm khắc phục để thủ thắng cho kỳ
được. Ngài không chấp nhận thỏa hiệp. Ỷ vào sức thần thông, trong khi
đấu phép với ngoại đạo, ngài luôn luôn chiến thắng họ.
Đặc
tánh của Xá Lợi Phất là mặc dù có biện tài vô ngại, đối với Phật thủy
chung vẫn bách y bách thuận. Ngược lại, đặc tính của Mục Kiền Liên là ỷ
vào thần thông, đối với ngoại đạo luôn luôn áp đảo bách chiến bách
thắng.
Phật
thường quở ngài về tánh tự thị này, Phật bảo: "Thần thông tuy là một
phép tu cao cường, nhưng không phải là pháp căn bản, vì thần thông không
quan hệ đế sự nghiệp giải thoát sanh tử. Ngày thành Ca Tỳ La bị Tỳ Lưu
Ly vây khổn, Mục Kiền Liên không nghe lời Phật, đã từng dụng thần thông
đến cứu dòng họ Thích Ca, nhưng cuối cùng thần thông vẫn không thắng nổi
nghiệp quả. Lúc ngài đi bố giáo trong thành Thất La Phiệt, bị ngoại đạo
dùng gậy gộc vây đánh, thần thông cũng không cứu được ngài thoát chết,
vì không thắng được nghiệp báo.
Về
giá trị thần thông, trong giáo điển Phật giáo còn ghi lại một mẫu
chuyện khá lý thú: một hôm Phật gặp một đạo sĩ Bà la môn đang trổ tài
thần thông cho dân chúng hiếu kỳ xem bên một bờ sông. Thấy Phật, ông
dương dương tự đắc, Phật hỏi ông tu bao lâu và chứng được quả gì. Ông
cho biết ông ra công luyện thần thông từ trên ba mươi năm và thành quả
đạt được là tự cất mình bay qua một con sông rộng trăm thước. Phật cười
đáp lại rằng nếu mất nữa đời người để chỉ làm một công việc mà bất cứ ai
có một đồng xu trong tay cũng làm được, thì quả là đắt.
Giá
trị thần thông ở chỗ giúp kẻ chứng nó soi suốt lòng người, không quản
xa gần, bất cứ ở đâu, không phân biệt trong tâm hay ngoài thân. Về công
năng thấu suốt bén nhạy ấy, trong kinh sách Phật giáo lại có một câu
chuyện như sau:
Một
hôm Mục Kiền Liên đi qua một viên lâm, tình cờ gặp một phụ nữ trung
niên rất xinh đẹp tên là Liên Hoa Sắc đón đường gạ chuyện. Nhìn nàng,
Mục Kiền Liên biết ngay là một cô gái điếm đến mê hoặc mình. Không những
thế, ngài còn thấu suốt được những uẩn khúc của lòng nàng, những nỗi
khổ nhục mà nàng trải qua khiến cho nàng vốn là người có bản chất tốt
như hoa sen mà phải lăn lộn hụp lặn trong chốn bùn nhơ, Ngài nói với
Liên Hoa Sắc:
-
Người cô hình dáng thật là mỹ miều xinh đẹp lại thêm trang sức lộng
lẫy, bên ngoài coi bộ duyên dáng hấp dẫn, nhưng bên trong chứa đầy ô uế
ngày đêm tiết rĩ không ngừng. Thân thể và tâm hồn cô hiện tại cực kỳ bất
tịnh. Cô đang vùng vẫy trong bùn nhơ, nhưng càng vùng vẫy thì càng lún
sâu thêm mãi.
Liên Hoa Sắc kinh hãi, bất giác rơi lệ thưa rằng:
- Tôi không còn cách nào hơn.
Mục Kiền Liên an ủi:
-
Không nên tự khí, dù quá khứ như thế nào, người ta cũng có thể xây dựng
lại được cuộc đời, miễn là chịu thành khẩn sám hối lỗi trước. Áo quần
dơ, thân thể bẩn thì lấy nước giăït rửa. Tâm hồn bất tịnh thì dùng Phật
pháp lau chùi. Nước trăm sông dù dơ, chỉ cần chảy vào biển cả, thảy đều
lắng xuống gạn trong. Thầy ta là đức Phật dạy rằng, nếu chịu khó tẩy uế
tâm hồn thì bất cứ ai cũng ngộ đạo và được giải cứu.
- Nhưng tội lỗi quá khứ của tôi khủng khiếp lắm, nói ra e tôn giả phải bỏ chạy vì khiếp hãi.
- Cứ nói đi.
-
Tôi tên là Liên Hoa Sắc, con của trưởng giả trú tại thành Đức Xoa Thi
Ca. Lúc mười sáu tuổi lấy chồng. Sau đó không bao lâu, chẳng may cha
chồng quá vãng, mẹ chồng góa bụa lại tư thông với chồng tôi. Bấy giờ tôi
đã sanh được một gái. Chứng kiến cảnh loạn luân ngang trái ấy, tôi uất
ức quá bỏ nhà ra đi. Bỏ luôn đứa con cho chồng. Lang thang phiêu bạc mấy
năm, tôi tái giá với một người chồng
khác. Y là một thương gia hằng ngày ngược xuôi theo nghiệp buôn bán.
Một hôm từ thành Đức Xoa Thi Ca về, nhân buôn bán phát tài, y mua về một
nàng hầu đem dấu cất ở một nhà riêng. Nghe hàng xóm đâm tin, tôi nổi
máu ghen lên, dùng trăm mưu nghìn kế dò cho ra sào huyệt của con dâm phụ
để xé xác nó ra. Đến khi thấy mặt thì hởi ôi! đó chính là con gái tôi
với người chồng trước. Tôi té xuống chết giấc. Không hiểu nghiệp báo gì
của tôi kỳ dị đến thế. Trước kia bà già chồng tranh cướp chồng tôi, giờ
dây con gái tôi lại cũng tranh cướp chồng tôi. Chung chồng với mẹ, rồi
lại chung chồng với con, như thế làm sao tôi có thể sống nỗi? Chán ngán
nhân tình thế thái, tôi mang thân ra làm gái điếm, mua vui bằng cách đùa
cợt với mọi người, dùng tiếng hát để nhận chìm thế gian. Đối với tôi,
đời sống còn có nghĩa gì đâu, ngoài tiền bạc của cải. Tiền bạc là vạn
năng, người ta mua tiếng cười của tôi có khi đến hàng ngàn lượng bạc.
Rồi với số tiền ấy, tôi vung tay cho sướng, khiến cho ai ai cũng phải
thần phục dưới chân tôi. Ấy tội tôi như thế đấy, làm sao sám hối cho hết
được?
Mục
Kiền Liên nghe qua, biết rằng Liên Hoa Sắc đau khổ lắm. Bề ngoài giọng
nói và luận điệu tuy có vẻ khinh bạc, nhưng bên trong thiện tâm vẫn chưa
khô cạn. Ngài đem giáo lý duyên sanh giảng giải cho nàng nghe và tìm đủ
mọi phương tiện thiện xảo để an ủi nàng. Dần dần nàng tỉnh ngộ, cùng
với Mục Kiền Liên, nàng đi đến yết kiến Phật.
Về
sau, Liên Hoa Sắc trở thành một vị Tỳ kheo ni gương mẫu, chứng thánh
quả A La Hán và là vị thần thông số một về phái nữ, ngang hàng với Mục
Kiền Liên là vị thần thông số một về phái nam.
Cải
quá tự tân là mục đích quan trọng của giáo pháp Phật. Bất cứ ai phạm
bất cứ một tội lỗi nào dù là tội ngũ nghịch thập ác, hễ thành tâm sám
hối, tinh tấn tu hành, thảy đều được cứu độ. Đó là diệu dụng của pháp
môn Bất nhị. Theo pháp môn này, khổ vui vốn không hai, lìa khỏi khổ đau
thì chính đó là an vui rồi. Ý nghĩa chứng quả của Liên Hoa Sắc là ở chổ
đó.
Trở
về với ngài Mục Kiền Liên, ngài không những nổi tiếng là bậc thần thông
số một trong hàng đệ tử Phật. Ngài còn nổi tiếng là bậc đại hiếu thờ mẹ
hết lòng, xử dụng đủ mọi phương tiện thiện xảo để hướng dẫn mẹ về đường
ngay nẻo chánh mà không làm phật lòng mẹ, mặc dù bà rất khó tánh .
Tương truyền rằng ngài từng vì cứu mẹ mà đi xuống địa ngục, vì cứu mẹ mà
làm công đức bố thí. Lễ Vu Lan Bồn mà Phật tử Bắc tông tổ chức hằng năm
vào ngày trăng tròn tháng bảy sau mùa hạ an cư của chư Tăng là để kỷ
niệm gương sáng chí hiếu ấy.
Với
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là một trong hai cánh tay đắc lực nhất của
Phật trong công việc bố giáo. Hai ngài thường thay thế Phật trong nhiều
trường hợp và dự phần quan trọng trong nền hưng thạnh của Phật giáo thời
Phật còn tại thế. Nhưng Phật giáo càng hưng thạnh thì ngoại đạo càng
căm tức ganh ghét. Đối với họ, Phật là cái đinh trước mắt cần phải nhổ
đi. Nhưng vì không hại nổi Phật, họ lập tâm hại chúng đệ tử mà người sắc
cạnh và hăng hái nhất chính là Mục Kiền Liên.
Một
hôm, Mục Kiền Liên đang đi khất thực trong thành Thất La Phiệt với hai
đệ tử là Mã Túc và Mãn Túc thì bị bọn Lõa hình ngoại đạo mai phục sẵn
xông ra đón đánh. Chỉ trang bị bằng gậy gộc mà thôi, nhưng vì chúng quá
đông vây kín ngài lại, Mã Túc và Mãn Túc không chống trả nổi, nên ngài
đã bị chúng đánh chết.
Có
sách nói bọn Lõa hình ngoại đạo này mai phục trên núi Y Tư Xa Lê, chờ
ngài đi ngang qua, ném đá xuống như mưa khiến ngài tử thương. Ngài chết
bằng cách nào, việc ấy chưa ai xác quyết rõ ràng (1), nhưng việc ngài bị
Lõa hình ngoại đạo ám hại là một sự kiện lịch sử không choấi cải. Tin
nầy khi đến tai vua A Xà Thế, khiến nhà vua rất phẫn nỗ. Ông hạ lệnh
tróc nã hung thủ ngay. Đa số trong bọn chúng là đạo sĩ Lõa hình, thảy
đều bị xử giảo bằng cách ném sống vào hầm lửa.
Nhục
thân ngài Mục Kiền Liên sau khi hỏa táng, xá lợi được Mã Túc và Mãn Túc
rước về trao lại cho Phật, như trường hợp Xá Lợi Phất sau đó. Linh cốt
hai ngài được tôn thờ và gìn giữ nguyên vẹn cho đến ngày Ấn độ bị đăït
dưới quyền thống trị của ngưới Anh trong thế kỷ 18, được người Anh mang
về trưng bày tại Bảo tàng viện Luân đôn và mới quy hoàn cho chánh phủ
Nehru sau khi Ấn độ độc lập vào năm 1947.
Khi tiếp nhận xá lợi của Mục Kiền Liên từ tay Mã Túc và Mãn Túc, Phật bảo các đệ tử:
-
Nhục thể là vô thường, nghiệp báo mới là quan trọng. Chỉ có Mục Kiền
Liên khi xả bỏ xác thân mà tâm hồn vẫn không mê. Trước cứu cánh giác
ngộ, việc sống chết không thành vấn đề. Có sanh tất có diệt. Không có gì
phải hoang mang lo sợ. Điều cần yếu là khi chết, có cái gì nắm chắc
trong tay. Cái đó Mục Kiền Liên đã có. Hơn nữa, Mục Kiền Liên vì tuyên
dương giáo pháp Như lai mà hy sinh tuẩn nạn, đó là việc phước đức tốt
lành nhất cho một tông đồ truyền giáo.
******
(1)
Lại có sách ghi: Một hôm, trên đường đi du hóa trở về, hai ngài Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên bị đồ chúng của ông Bảo Lạc Noa, thuộc phái Ni
Kiền Tử (Lõa hình), cầm gậy chận đường gây sự. Bọn này khi thấy Xá Lợi
Phất đi tới, chận lại hỏi rằng: "Trong chúng chánh mạng (họ tự xưng như
thế), có Sa môn không?" Xá Lợi Phất vốn là bậc Trí tuệ số một, đón biết ý
chúng nên trả lời rằng: "Chúng chánh mạng sa môn không, chúng Thích Ca
sa môn có, nếu A la hán còn tham ái là không có kẻ ngu si". Chúng không
hiểu, tưởng ngài khen chúng nên để ngài đi. Đến lượt ngài Mục Kiền Liên
đi tới, chúng lại hỏi câu ấy, ngài Mục Kiền Liên đáp: "Trong chúng các
ngươi làm gì có quả sa môn!" Chúng cho là nhục mạ chúng, bèn vây đánh
nhừ tử rồi bỏ đi. Ngài Xá Lợi Phất quay lại thấy bạn, mình mẫy bầm nát,
thịt rơi từng mảnh, liền lấy áo cà sa bọc đem về tịnh xá. Được hỏi tại
saongài là bậc thần thông nổi tiếng mà lại để bị như thế, ngài đáp: "Khi
nghiệp lực đến, chỉ một chữø thần còn chưa nhớ được, huống nữa là phát
thông!" Nói xong, ngài thị tịch.
******
3.- PHÚ LÂU NA (Pùrana) Thuyết pháp số 1
Pùrana tức Phú Lâu Na, còn gọi là Pùra Maitràyani putra, Tàu dịch là Mãn Từ Tử (con bà Mãn Từ)
Ngài
là bậc có tín tâm thâm hậu, thái độ uy nghi, rất có tài hùng biện, xử
dụng ngôn từ vô cùng xảo diệu, giúp Phật hết sức đắc lực trong công việc
tuyên dương chánh pháp và được bất cứ loại thính chúng nào cũng đều
nhiệt liệt hoan nghinh. Ngoài ba đức tánh cần có của một nhà đại hùng
biện nói trên, ngài lại còn hơn tất cả các đại đệ tử ở một diểm vừa căn
bản vừa đặc biệt khác nữa: ấy là tinh thần bố giáo cao độ của Ngài.
Thông
lệ của Phật là hàng năm sau ba tháng hạ an cư, Phật phân bổ chúng đệ tử
thành nhiều đoàn phụ trách bố giáo tại từng địa phương. Trong số các
giáo khu phân bổ, Phú Lâu Na chưa thấy tên nước Du Na (Suna), một vùng
biên địa rất hiểm trở, giao thông khó khăn, dân tình quen thói man rợ
bạo ngược. Đó là một xứ mà trước kia người ngoài chỉ nghe tên chứ ít ai
dám bước chân đến, vì sợ mất mạng. Phú Lâu Na đề nghị với Phật xin cho
mình đến đấy bố giáo một phen.
Phật hỏi: "Ông không sợ nguy hiểm sao?"
Phú
Lâu Na mỉm cười bạch rằng : "Vì mục đích bình đẳng độ sanh, thì tất cả
địa phương nào cũng đáng được lưu ý ngang nhau. Hơn nữa, dân tình chỗ
nào càng man rợ bao nhiêu thì lại càng phải được thừa hưởng sự giáo hóa
nhiều bấy nhiêu. Như vậy mới thật là bình đẳng. Đối với đệ tử, nguy hiểm
hay không nguy hiểm không thành vấn đề. Vấn đề là làm sao trên báo đáp
được hồng ân Phật, dưới hóa độ được chúng sanh. Vì sứ mạng thiêng liêng
cao cả ấy, thân này dù có tan xương nát thịt, tưởng cũng chưa vừa".
Phật hỏi: "Giả sử đến Du na mà bị người ta mắng nhiếc nhục mạ thì ông nghĩ sao và đối trị bằng cách nào?"
- Đệ tử nghĩ rằng như thế họ còn quá tốt, chưa phải đã hoàn toàn dã man. Vì họ chửi rủa mà không dùng gậy gộc đánh đuổi.
- Nếu họ dùng gậy gộc đánh đuổi hoặc dùng gạch ngói đá sõi ném vào người ông thì ông nghĩ sao?
- Họ cũng còn là người tốt, vì không nhẫn tâm gây thương tích cho đệ tử.
- Nếu họ gây thương tích?
- Cũng vẫn còn là người có lương tri, vì họ không nỡ giết hại đệ tử một cách oan uổng.
- Nếu họ giết ông?
Cũng
chưa phải là người xấu, vì nếu họ chấm dứt cái thân hư ảo này của đệ tử
thì đó chính là họ ban trợ đệ tử mau nhập niết bàn, đem đến cho đệ tử
một cơ hội hiếm có, được mang thân mạng này báo đáp hồng ân Phật. Việc
ấy nếu xảy ra, đệ tử không ân hận mà còn hân hoan đón nhận. Có ân hận
chăng là họ đã không được nghe chánh pháp mà thôi.
Phật cảm động, ban khen rằng:
-
Này Phú Lâu Na! Ông quả không hổ danh là một đại đệ tử chân chánh của
ta. Hạnh tu đạo, hạnh bố giáo, hạnh nhẫn nhục của ông thật là viên mãn.
Quay lại chúng đệ tử, Phật bảo:
-
Này các Tỳ kheo, muốn theo đuổi sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, nên có
tinh thần như Phú Lâu Na. Phàm làm giảng sư đi bố giáo, cần hội đủ mười
đức tánh sau đây:
(1) Thông hiểu giáo nghĩa.
(2) Nói năng lưu loát.
(3) Không e sợ trước đám đông.
(4) Có biện tài vô ngại.
(5) Vận dụng phương tiện khéo léo.
(6) Biết tùy thuận hoàn cảnh và căn cơ chúng sanh.
(7) Có đầy đủ oai nghi.
(8) Tinh tấn dõng mãnh.
(9) Có sức khỏe thể xác và tinh thần.
(10) Hội đủ oai lực.
Này
các Tỳ kheo! Tất cả các đức tánh ấy Phú Lâu Na đều có đủ. Ông là người
duy nhất trong tăng chúng hội đủ điều kiện cần thiết đến bố giáo tại Du
Na. Ta không còn e ngại gì nữa.
Quả
như lời Phật dạy, Phú Lâu Na đã thành công rực rỡ tại Du Na. Ở nước này
chưa đầy một năm, ngài đã thâu nhận vào tăng đoàn hơn măm trăm đệ tử và
kiến lập khoảng năm mươi cảnh già lam.
Từ
đó, trong tăng chúng ai ai cũng công nhận ngài là bậc Thuyết pháp số
một. Được như thế là nhờ ngài đã thành tựu được bốn pháp bồ tát:
- Đối với bất cứ giáo pháp nào chưa từng nghe, thái độ ngài luôn luôn trầm tỉnh để tư lương nghĩa lý mà không vội phê phán.
-
Không cần đa văn, vì đa văn thì dâm dục đễ khởi; không cần nhàn hạ, vì
nhàn hạ thì lạc tâm dễ sanh. Trái lại lo tu Từ quán để đoạn trứ sân
nhuế, tu Bất tịnh quán để đoạn trừ tham dục, tu Nhân duyên quán để đoạn
trừ ngu si.
-
Thấu rõ triệt để năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân
duyên để thành tựu trí vô sở đắc. Trí nầy có thành tựu mới không còn
niệm phân biệt và nhờ đó mới đủ sức tuyên dương đại pháp.
- Rộng thực hành bố thí, sâu nghiêm trì giới luật, thường dũng mãnh nhẫn nhục, tịnh tinh tấn bồ đề.
4.-TU BỒ ĐỀ (Subhùti) Giải Không số 1
Các
chi tiết về dấu tích của ngài Tu Bồ Đề không thấy ghi chép rõ như đối
với các đại đệ tử khác. Tuy nhiên, căn cứ theo truyền thuyết của kinh
sách Đại thừa thì sự tích ấy được tóm lược như sau:
Lúc
ngài mới sanh, trong gia đình hoàn toàn hiện ra những triệu chứng
"không". Các đồ vật trong nhà từ kho lẫm, thùng hôïp, lu vại v.v... thảy
đều tự nhiên trống không. Hỏi về ý nghĩa điềm lạ này thì được thầy
tướng bảo rằng đó là điềm cực lành. Nhân vì điềm "không" ấy, cha nẹ ngài
mới đăït tên cho ngài là Tu Bồ Đề nghĩa là Không sanh. Lại cũng có
nghĩa là Thiện Cát (tốt lành) hay Thiện Hiện (hiện điềm tốt).
Tương
truyền một hôm Tu Bồ Đề đang ngồi vá áo trong động Kỳ Xà trên núi Linh
Thứu thì bỗng nhiên ngài quán thấy Phật du hóa phương xa đang trên con
đường trở về. Ngài định rời động xuống núi đón Phật, nhưng lại nghĩ rằng
Phật dạy không có cái ta, cũng không có cái của ta. Đã không có cái ta
và cái của ta thì tướng các pháp vốn không tịch vắng lặng. Phật đã chứng
được thật tánh không tịch vắng lặng tuyệt đối ấy mà thực hiện tự ngã vô
ngã siêu tuyệt không hai trong nhân loại, thì không có cái gì mà không
phải là Phật, không ở đâu mà không có Phật. Vậy hà tất phải xuống núi
mới gọi là đi đón Phật. Nghĩ như thế xong, ngài bình thản ngồi tiếp tục
vá áo.
Bấy
giờ Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc nhờ đã chứng được thần thông như Mục Kiền
Liên, biết được Phật sắp về, liền xuống núi nghênh đón. Bà lấy làm tự
hào nghĩ rằng trong Thánh chúng chỉ có mình bà hay tin Phật về và đi đón
Phật trước hơn ai hết. Phật nhìn Liên Hoa Sắc mỉm cười bảo rằng:
- Trước nhà ngươi đã có Tu Bồ Đề đón ta rồi.
Liên
Hoa Sắc nghe nói giật mình, bàng hoàng không hiểu vì sao Phật dạy như
thế. Khi lên tới động, Phật họp đại chúng lại, rồi bảo riêng Tu Bồ Đề:
-
Ông có biện tài, lại thấu rõ sâu xa đạo lý chân không. Vậy ông hãy nói
cho đại chúng nghe về không lý để họ có dịp bổ túc thêm kiến thức.
Đại
chúng nghe Phật dạy đều nghĩ bụng rằng Tu Bồ Đề nói pháp này là phát
xuất từ biện tài của riêng ông, hay ông thừa thọ oai lực của Phật mà
nói?
Tu Bồ Đề soi thấu tâm lý ấy của đại chúng, bèn đón trước mà nói rằng:
-
Phật đã truyền dạy, tôi đâu dám trái mạng! Chư huynh đệ nên ý thức rằng
phàm làm sứ mạng thuyết giáo thì bất luận giáo thuyết ấy nông hay cạn,
điều cốt yếu là phải khế cơ khế lý mới mong khuyên được người đời tu
học. Mà đã khuyên được người đời tu học tức là thừa thọ uy lực của Phật
rồi. Vì sao? Vì có thừa thọ uy lực của Phật mới thông cảm được chân ý
của Phật, nhờ đó khiến chúng sanh chứng được bản tánh các pháp và tương
ưng được với thật tướng các pháp để thực hiện vô ngã. Giờ đây, thừa sắc
mạng của Phật để thuyết minh đạo lý chân không, tôi cũng chỉ nương vào
uy lực của Phật mà thôi.
Thưa
chư huynh đệ, thuyết minh đạo lý chân không tức là đặt vấn đề tương ưng
giữa pháp bồ tát và pháp không trí, nghĩa là giữa chủ thể và đối tượng.
Muốn được như thế, trước hết cần quán sát để thấu rõ pháp gì gọi là
pháp bồ tát và pháp gì gọi là pháp không trí? Quả tình tôi không thấy
pháp nào gọi là bồ tát, cũng chẳng thấy pháp nào gọi là pháp không trí
cả. Ngoài cái ngã của hai danh xưng ấy ra, thật không có gì sai khác để
phân biệt giữa hai pháp ấy. Tánh của chúng là bất khả đắc. Chủ thể và
đối tượng tuyệt đối im bặt, cho nên không tìm thấy đâu là chủ thể, đâu
là khách thể. Chủ và khách đều vắng lặng trong không tánh. Pháp tương
ưng giữa bồ tát và không trí là như thế.
- Bạch Phật! như thế đã đủ để bổ túc sở học của chúng bồ tát chưa?
Phật hoan hỷ bảo Tu Bồ Đề:
-
Hay thay! Tu Bồ Đề! Bồ tát chỉ có cái danh xưng suông là bồ tát. Không
trí cũng chỉ có cái danh suông là không trí. Cũng như vậy, bồ tát quán
không trí cũng chỉ là danh xưng suông mà thôi. Cái đó vốn không sanh
diệt, chẳng qua là để tiện việc tuyên thuyết nên mới giả lập danh xưng.
Cái giả danh ấy không ở trong, không ở ngoài, chẳng ở trung gian. Bản
lai nó vốn là cái bất khả đắc. Cũng ví như nói ngã. Ngã chỉ là giả danh.
Bản thể của ngã vốn bất sanh bất diệt. Để chứng cái bất sanh bất diệt
ấy, cần phải tu học các giả pháp về bồ tát. Và thuyết minh giả danh và
giả pháp không trí, tức như nương vào bóng trăng giả dưới nước để tìm
bắt mặt trăng thật trên không. Trong việc nương giả để bắt thật, điều
quan yếu là đừng chấp trước dính mắc vào đâu hết. Nếu có chấp trước dính
mắc, thì không bao giờ đạt được giải thoát.
Trong
số đệ tử Phật, chỉ một mình Tu Bồ Đề là có nhận thức sâu sắc về không
tánh của các pháp, vì ngài thật chứng không trí và hiểu rốt ráo không
lý, cho nên được tôn xưng là bậc Giải Không số một.
Không
trí và không lý này, hơn sáu trăm năm về sau, được Bồ tát Long Thọ
triển khai thành giáo nghĩa Bát Nhã với luận lý Bát Bất mà tái lập Trung
đạo và xây dựng thế giới quan chơn không diệu hữu của Phật giáo Đại
thừa.
5.- CA CHIÊN DIÊN (Kàtyàyana) Luận Nghị số 1
Ngài Ca Chiên Diên có biệt tài dùng lời nói rất đơn giản khiến những ai vấn nạn ngài đều phải thần phục.
Một hôm đang đi hành hóa, ngài gặp một Bà la môn chận lại cật vấn rằng:
- Tôi có điều nghi hoặc này tự mình không giải đáp được, mong ngài giải trừ cho.
- Thử xem.
- Tôi thấy trên đời này, Sát đế lỵ tương tranh với Sát đế lỵ, Bà la môn tương tranh với Bà la môn. Như thế là vì nguyên nhân gì?
- Vì tham dục mê hoặc.
- Thế thì Sa môn với Sa môn tương tranh là vì nguyên nhân gì?
- Vì bị ngã kiến chấp trước.
- Thế thì trên thế gian này còn ai là người không bị tham dục mê hoặc và ngã kiến chấp trước để nương theo?
- Phật.
Lại một hôm, Ca Chiên Diên gặp một Bà la môn khác vặn hỏi:
-
Tôi nghe đồn ông vốn là Bà la môn xé rào qua theo Phật làm Sa môn,
nhưng mỗi khi gặp lại những bậc trưởng lão Bà la môn cũ, ông không chịu
đứng dậy nghinh tiếp, cũng không chịu ngồi chung chiếu với họ. Nếu đúng
như lời đồn đãi, tôi tưởng rằng ông không thực hành đúng chánh pháp
chăng?
-
Lời đồn quả tình đúng sự thật. Việc không chịu lễ bái một số trưởng lão
Bà la môn lại cũng rất đúng chánh pháp. Tôi theo Phật và nhờ Phật, hiện
tôi có chứng đắc một cái mà người ta gọi là thánh quả. Trên đường tu
chứng đạo đức, ông không nên nói đến niên xĩ cao thấp. Bà la môn già tám
chín chục tuổi, nếu còn đam mê ái dục, giam hãm mình trong tà kiến tham
sân thì có ích gì cho ai. Đức hạnh không lấy tuổi đời mà đo, phải căn
cứ vào tuổi đạo mà xét.
Một
hôm khác, trong khi đang du hóa tại nước A bàn đề, Ca Chiên Diên gặp
một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non bên bờ sông. Thấy cảnh
thương tâm, Ca Chiên Diên lại gần hỏi:
- Vì sao khóc thảm não thế? Có thể cho biết lý do để thử xem có giúp ích được gì cho bà chăng?
-
Trên đời nầy thật là tối bất công! Bà già nói. Kẻ giàu thì giàu nức đố
đổ vách, ngựa xe ngất ngưỡng; trái lại, người nghèo thì nghèo rớt mồng
tơi, cất đầu không lên. Tôi là một kẻ cùng khổ, chẳng may sanh ra trong
một gia đình nô lệ nghèo mạt rệp, từ khi sanh ra, liên miên chịu khổ nọ
đến khổ kia, đến nay thì không còn sức để chịu đựng được nữa. Tôi muốn
chết quá, nhưng nói với ông cũng vô ích. Ông là một Sa môn nghèo làm sao
giúp được tôi?
-
Cần gì khóc lóc! Ca Chiên Diên đáp lại. Trên đời này thiếu gì người
nghèo khổ, đâu phải riêng mình bà. Nghèo thì khổ đã đành, nhưng chắc gì
giàu đã sướng. Thiếu gì người giàu còn khổ gấp mấy người nghèo, vì tham
dục hành hạ. Hạnh phúc không phải tại chỗ giàu nghèo. Hạnh phúc chỉ ở
chỗ biết tiết chế ham muốn và biết tự bằng lòng với những gì mình có.
Người đàn bà khóc thét lên:
-
Ông nói như thế được, vì ông là Sa môn xuất gia. Sinh hoạt của chúng
tôi ở thế gian này khác hẳn. Chỉ có người giàu sang mới muốn sao được
vậy, còn bần cùng như hạng chúng tôi thì đâu có dễ dàng và giản dị như
lời ông nói. Hiện tôi là một nô tỳ cho một đại phú ông, cùng năm mãn đời
cơm không đủ no, áo không đủ ấm, thế mà vẫn phải phục dịch khổ sở từ
sáng đến khuya, ngày nào cũng như ngày nấy cất mặt không nổi, lại còn bị
chửi bới đánh đập không nương tay, cầu sống không xong, muốn chết chẳng
được. Bao nhiêu thống khổ triền miên ấy, nguyên do chỉ vì bần cùng mà
sanh ra. Hỏi làm sao không khóc nghèo được?
- Đã như thế thì hãy bán nghèo đi!
- Nghèo mà cũng bán được à? Ai điên gì đi mua cái của nợ đó.
- Tôi mua cho, nhưng bà có bằng lòng bán không?
- Thôi ông đừng đùa.
-
Tôi đâu có đùa. Trên đời này, nghèo có thể bán được. Nhưng chỉ vì không
biết phuơng pháp bán, nên suốt đời người ta mới chịu khổ sở. Người ta
bán nghèo bằng cách bố thí. Bà nên biết rằng trên thế gian này, mọi việc
đều có nguyên nhân. Giàu nghèo cũng nằm trong qui luật đó. Sở dĩ kiếp
này nghèo là vì kiếp xưa xan tham keo lẫn. Sở dĩ kiếp này giàu có là vì
kiếp xưa từng tu phước đức bố thí. Vì vậy, bố thí và phước đức là phương
pháp bán nghèo duy nhất.
- Nhưng tôi có gì để bố thí cho ông đâu?
- Hiện bà có vò nước. Bà hãy xuống sông múc một ít nước lên bố thí cho tôi, để tôi mua nghèo cho.
Người đàn bà nghe xong, liền tỉnh ngộ. Từ đó, thường hành hạnh bố thí, biết thiểu dục tri túc, sống một cuộc đời vui vẻ hơn xưa.
Trong
suốt một đời hành hóa, ngài Ca Chiên Diên nhờ tài nghị luận xảo diệu,
đã cảm hóa được rất nhiều người, khiến họ tỉnh ngộ trở về với Tam bảo,
sống cuộc đời thanh thản an vui.
6.- MA HA CA DIẾP (Maha Kasyapa) Đầu Đà số 1
Ma Ha Ca Diếp biết Phật nhân lúc phong trào dâng y rầm rộ do ngự y Kỳ Bà khởi xướng.
Đệ
tử Phật có nhiều vị cùng mang tên Ca Diếp, nên để phân biệt với các vị
kia, kinh thường gọi vị đại đệ tử này là Ma Ha Ca Diếp hay Đại Ca Diếp
(MaHa là lớn). Cũng nên biết thêm rằng theo Bắc tông thì sau khi Phật
nhập diệt, Ma Ha Ca Diếp là sơ tổ, theo Nam tông thì chính Ưu Bà Ly mới
là sơ tổ. Nêu hai sử liệu khác nhau trên đây là để người sau rộng đường
tra cứu chính xác hơn.
Như
đã nói trong một đoạn trước, Ma Ha Ca Diếp là người thôn Sa La Đà, nước
Ma Kiệt Đà, không xa thành Vương Xá. Trước khi chưa xuất gia, ngài là
một vị đại phú hào giàu địch quốc, thuộc dòng họ Bà la môn, học rộng tài
cao, thông minh quán chúng, từng nổi tiếng về hạnh thanh tịnh, tuy có
vợ nhưng không ngủ chung giường. Kịp khi gặp Phật, ngài cho phân tán tài
sản, thanh toán việc gia đình đâu vào đấy, rồi mang bình bát theo Phật
học đạo. Sở nguyện của ngài là tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh). Hạnh này
ngài khư khư giữ chặt cho đến hơi thở cuối cùng, ai lay cũng không
chuyển.
Nếu Phật là người bán sang mua hèn thì Ca Diếp là người bán giàu mua nghèo.
Tu theo hạnh đầu đà, cần phải giữ đúng mười điều sau đây:
(1) Chọn vùng hoang vắng để ở.
(2) Sinh hoạt bằng phép trì bình.
(3) Thường ở tại một nơi.
(4) Ngày ăn một bửa.
(5) Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
(6) Không có tài sản nào khác ngoài ba y, một bình bát và một ngọa cụ.
(7) Tư duy dưới gốc cây.
(8) Thường ngồi giữa đồng trống.
(9) Mặc áo phấn tảo.
(10) Sống tại các bãi tha ma.
Sanh
hoạt theo hạnh đầu đà là một lối sanh hoạt cực kỳ đơn giản nhằm mục
đích tịnh hóa tâm hồn, rất thích hợp với những ai thích tu phạm hạnh như
Ca Diếp.
Sự
tích ghi chép rằng: Một hôm Ca Diếp hành hóa trong thành Vương Xá, thấy
một bà già ăn mày ốm yếu nằm rên rỉ bên vệ đuờng. Ngài đến gần hỏi
rằng:
-
Này lão bà! Nhìn tình cảnh lão bà, tôi rất lấy làm đau xót. Theo tôi
nghĩ, sở dĩ có tình cảnh như thế này là vì kiếp trước lão bà quá keo lẫn
không chịu bỏ đồng xu nào bố thí cho ai. Tôi đây là đệ tử của Phật, là
ruộng phước của nhân gian. Rất mong lão bà bố thí cho tôi chút đỉnh thức
ăn, tôi xin nhường lại lão bà tất cả các món phước điền của tôi để kiếp
sau lão bà thoát khỏi cảnh khốn cùng này.
-
Bạch tôn giả, bà già khóc đáp. Tôi rất cảm thông tấm lòng ưu ái của tôn
giả vì muốn cứu tôi nên mới xin tôi thức ăn. Nhưng xin thú thật với tôn
giả rằng từ ba hôm nay, tôi vẫn chưa hề có hột cơm nào trong bụng. Hiện
tôi chỉ có chút ít nước mả đã nặng mùi của người ta đem đổ mà tôi dành
lại được. Chả lẽ đem nước mả heo chê ấy cúng dường tôn giả?
-
Có quan hệ gì đâu! Ca Diếp đáp. Tôi đây chính là Đại Ca Diếp bán giàu
mua nghèo này. Vì mục đích mua nghèo, tôi rất sung sướng được tiếp thọ
sự cúng dường của lão bà.
Bà già cảm động, hai tay run run dâng lên bình nước mả. Ca Diếp đón lấy và uống ngay trước mặt bà lão.
Ca
Diếp chuyên lo việc khuyến thiện và nhiếp phục người bằng những hành vi
ưu ái thực tế. Không một hành vi nhỏ nhặt nào của ngài mà không thể
hiện lòng từ bi rộng lớn và không nhằm xoa dịu đau khổ cho thế gian. Vì
vậy ngài đến đâu là được quần chúng ở đấy kính mến tôn trọng. Xung quanh
thân ngài như có hào quang rực chiếu, thu hút hết mọi ánh sáng khác,
cho nên tên ngài còn được gọi là Ẩm Quang (uống ánh sáng).
Quá
chú trọng đến hoạt động cứu độ tích cực và thiết thực, ngài lại rất ít
quan tâm đến việc hoằng pháp, ngược hẳn với hai ngài Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên. Lúc hai ngài này chưa niết bàn, hai ngài thường khuyến khích
Ca Diếp tham gia vào phong trào vận động văn hóa chung của Phật bằng
hình thức thuyết pháp. Ca Diếp từ chối và kiên định lập trường của mình
một cách dứt khoát:
-
Công việc hoằng pháp, xin nhường lại chư huynh đệ tài cao. Tôi chỉ chú
trọng đến những vấn đề thực tế và chỉ trong mong làm sao cho thế gian
trong hiện tại cũng như trong tương lai biết sống một đời thiểu dục tri
túc là mãn nguyện lắm rồi.
Vì
lập hạnh như thế, nên quanh năm suốt tháng, đêm cũng như ngày, mưa cũng
như nắng, Ca Diếp chỉ thích sống trong rừng sâu, ngồi tư duy dưới bóng
cây, hoặc quan sát xương trắng ở các bãi tha ma, bất quản nắng lửa mưa
dầu, chẳng ngại hùm beo rắn rết, coi thường gió giật sấm rền. Mặc ai
khuyên can, ngài vẫn khư khư giữ chí không chuyển, lòng không sờn.
Cho
đến khi tuổi đã cao, sức đã mỏn mà ngài vẫn nhất mực giữ lối sinh hoạt
ấy. Phật thấy không đành lòng, bèn dỗ dành ngài nên về trường trú tại
tịnh xá Kỳ Viên, thì ngài bạch rằng:
-
Bạch Phật! Đệ tử rất cảm động được Phật từ mẫn ưu ái chăm sóc, nhưng đệ
tử tự xét rằng từ mạng của Phật không thể không vâng, nhưng bản nguyện
của đệ tử cũng không thể không theo. Nếu vâng theo từ mạng của Phật trở
về trường trú tại đây thì không thể nào theo nếp sống của toàn thể. Mà
nếu theo nếp sống chung thì hạnh đầu đà của đệ tử đành phải dứt ngang. Ở
đây, cảnh trí hoàn toàn tươi vui, gió mát trăng trong, chim hót hoa
cười, mỗi ngọ ăn xong là kinh hành, nghe pháp hoăïc nhập định tham
thiền, mũi không được tiếp xúc với mùi xú uế của thây ma, mắt không được
trông thấy một mảnh xương trắng nhỏ, thì e rằng khó tu các pháp quán vô
thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh. Đệ tử chỉ thấy thân tâm hoàn toàn
an lạc khi được ngồi ở giữa bãi tha ma, hoặc nơi đồng trống, hoặc dưới
bóng cây. Mình mặc áo vá, miệng niệm kinh mà quán thây ma, bụng đói thì
tùy ý khất thực, chân tự do ra vô cửa thành, không phiền lụy ai mà cũng
chẳng ai phiền lụy mình. Mệt không đi được thì no lòng với củ cây trái
rừng, không bận lòng vì cơm áo, không quan tâm đến đắc thất, đó là sở
nguyện của đệ tử. Xin Phật từ bi doãn nạp cho.
Bạch
Phật! Đệ tử trộm nghĩ công việc độ sanh có nhiều phương diện, phải tùy
tánh tình và khả năng riêng mà phân nhiệm để phụ trách. Quí hồ là ai
trong nhiệm vụ nấy phải làm tròn. Công việc thay Phật phổ biến chánh
pháp, đệ tử xin không dám nghĩ đến, vì đã có chư huynh Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên và nhiều huynh đệ tài hoa khác phụ
trách. Đệ tử chỉ xin được trọn nguyện nghiêm túc sanh hoạt tăng đoàn,
gây được tập quán cho các thế hệ về sau quen với nếp sống nhẫn nại,
không ham tiếng khen, không cầu lợi dưỡng, nhất tâm nhất đức, sống vì
chánh pháp, sống cho chúng sanh. Người ta có thể chê rằng sống như thế
là sống cho riêng mình nhiều hơn. Nhưng nếu chính mình không giải thoát
thì làm sao giải thoát được chúng sanh? Vì vậy, theo đệ tử nghĩ tu hạnh
đầu đà là trực tiếp củng cố tăng đoàn và gián tiếp lợi lạc quần sanh.
Thành khẩn yêu cầu Phật cho Ca Diếp này được giữ sự cố chấp ấy.
Nghe xong, Phật cảm động hướng về đại chúng bảo rằng:
-
Các ông đã nghe rõ những lời thành khẩn của trưởng lão Ca Diếp chưa?
Những lời ấy xuất phát tự đáy lòng của một đại đệ tử thật tâm lo âu cho
tiền đồ chánh pháp. Trong tương lai, nếu chánh pháp bị hủy diệt, thì đó
không phải do sự phá hoại của thiên ma ngoại đạo hay của thế lực cường
quyền, mà chính là tại tăng đoàn hủ hóa băng hoại. Muốn chánh pháp
trường tồn với thế gian, việc quan trọng bậc nhất là phải củng cố tăng
đoàn. Muốn củng cố tăng đoàn, phải nghiêm túc sanh hoạt. Chánh pháp của
ta nếu được hạng người như trưởng lão Ca Diếp thừa kế phụ trách thì mới
chủ trì lâu dài được.
7.- A NA LUẬT (Anirudha) Thiên Nhãn số 1
A
Na Luật là em ruột của Ma Ha Nam, con thứ của Cam Lộ Phạn Vương, cùng
xuất gia một lần trong nhóm bảy vương tử khi Phật về thăm quê lần đầu
tiên.
Trước
khi chưa xuất gia, A Na Luật được nhiều thiếu nữ vương tộc yêu mến say
mê vì vóc dáng anh dũng, diện mạo khôi ngô. Nhưng A Na Luật bản tánh vốn
đoan chính nên chưa hề bị sắc đẹp làm giao động thân tâm.
Sau
khi xuất gia, một hôm đang du hóa đi lỡ độ đường, gặp lúc trời mưa đêm
tối, mà trong vùng tuyệt nhiên không có cảnh già lam nào để tạm trú. A
Na Luật đành đến gõ cửa một nhà thường dân xin ngủ nhờ một đêm. Thiếu nữ
trong nhà ra mở cửa, thoạt nhìn thấy A Na Luật thì lòng vô cùng hoan
hỷ, vội vàng tiếp đón vào. Trong nhà hiu quạnh vắng vẻ, ngoài thiếu nữ
là chủ nhà, khôn còn ai khác. Gặp thế kẹt, A Na Luật bèn ngồi kiết già,
nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng đợi trời sáng.
Nửa
đêm thiếu nữ mò đến gạ chuyện, nói xa nói gần, buông lời cợt nhả. Thấy A
Na Luật làm thinh, thiếu nữ bèn kể lể nỗi niềm tâm sự của mình, nào là
có trưởng giả nọ cầu hôn, nào là có Bà la môn kia ngấp nghé, nhưng nàng
đều cự tuyệt. Nay gặp được A Na Luật là người dung mạo tú lệ, xứng đôi
vừa lứa, nàng muốn kết nghĩa trăm năm, và yêu cầu A Na Luật ở lại với
nàng đừng đi đâu nữa. Nàng thì khẩn khoản van lơn, A Na Luật thì hai mắt
nhắm riết, cố giữ nhất tâm bất động. Cuối cùng tưởng chừng cá đã ăn
câu, nàng dở trò dâm loạn, đưa tay mân mê sờ mó, bị A Na Luật cự tuyệt
dữ dội. Thấy nàng quá xấu hổ, A Na Luật bèn dịu giọng tìm lời khuyên
bảo, đưa nàng về đường ngay nẻo thẳng. Sau đó vì cảm mến đức đoan chánh
dịu dàng của A Na Luật, nàng xin quy y làm đệ tử.
Trong
tăng chúng cũng như ngoài nhân gian, A Na Luật nổi tiếng là bậc tu hành
rất mực thanh tịnh, không bao giờ bị nữ sắc cám dỗ, vì vậy được mọi
người kính ngưỡng. Duy có một tật nhỏ, A Na Luật dù đã cố gắng nhiều
nhưng chưa hề thành công, đó là tật ưa ngủ gục mỗi khi ngồi nghe Phật
thuyết pháp. Vì tật này, A Na Luật đã từng bị Phật quở trách đôi ba
phen.
Một hôm, Phật gọi A Na Luật đến bên mình, bảo rằng:
- Này A Na Luật! Ông xuất gia học đạo là vì sợ phép nước hay sợ trộm cướp?
- Thưa, không phải như vậy.
- Thế lý do gì ông đi xuất gia?
- Vì chán sanh tử và mong muốn giải thoát.
- Muốn giải thoát mà ngủ gục trong khi nghe pháp thì biết đến bao giờ mới thành tựu?
A Na Luật liền quỳ xuống, phát lời thề độc rằng:
-Bạch
Phật! Từ rày sắp sau, đệ tử sẳn sàng chịu mọi cực hình miễn sao diệt
trừ được tật ngủ gục. Xin Phật từ bi lượng thứ cho lần cuối cùng này.
Từ
đó, A Na Luật lập hạnh "không ngủ", từ đầu hôm cho đến suốt sáng, từ
tảng rạng đến chiều đêm, A Na Luật ngồi mở to đôi mắt, trân tráo nhìn
vào khoảng không, không chớp mắt. Ngồi chong như thế hết ngày nọ sang
ngày kia cho đến một hôm hai mắt sưng vù.
Phật thấy thế lấy làm lo ngại, bèn dạy rằng:
-
Này A Na Luật! trong việc tu hành, bất cập cố nhiên không bao giờ đạt
đạo, nhưng ngược lại, thái quá cũng chẳng đi đến đâu. Ông không nên tiếp
tục cái hạnh quái gở ấy nữa.
- Bạch Phật! đệ tử đã phát nguyện xin Phật cho đệ tử được giữ tròn.
-
Nhưng con mắt là cơ quan cần yếu, không nên hành hạ nó. Nó mà hỏng đi
thì cả đại sự giải thoát cũng hỏng luôn. Phàm tất cả chúng sanh ai ai
cũng cần ăn mới sống. Không ăn thì chết. Mà thức ăn của con mắt chính là
giấc ngủ. Ông bỏ ngủ tức là ông không cho con mắt ăn. Nó chết đi, ông
làm sao lần bước tiến tới Niết bàn được. Ông nên biết rằng niết bàn cũng
cần thức ăn.
- Niết bàn cũng cần thức ăn nữa à?
-
Vâng, thức ăn "Bất phóng dật" tức là không buông lung mới đến được niết
bàn. Và trước khi đến đó, con mắt cần phải ăn, ức là cần phải ngủ.
Mặc
dù Phật từ mẫn khuyên bảo như thế, nhưng A Na Luật vẫn khăng khăng
không chịu nghe, cứ tiếp tục hành hạ đôi mắt. Chẳng bao lâu hai mắt mù
tịt. Chứng kiến cảnh mù lòa của A Na Luật, Phật thương xót lắm, tìm đủ
cách chửa trị.
Một hôm A Na Luật đang ngồi nghĩ cách may áo, nhưng chưa biết tìm ai giúp đỡ mình. Phật đoán biết ý nghĩ, bèn nói:
- Để ta xâu chỉ giúp cho.
A
Na Luật giựt mình không biết vì sao Phật đọc được ý nghĩ thầm kín của
mình. Phật lấy kim xâu chỉ xong, tự mình đem trao tận tay cho A Na Luật.
A Na Luật đang loay quay chưa biết tính sao, Phật liền bảo:
- Để ta giúp cho.
Suốt
một ngày Phật cầm tay A Na Luật chỉ cách đưa mũi kim lên xuống, và đến
tối thì may xong ba áo. Trong khi cầm tay A Na Luật cùng may, Phật dạy A
Na Luật phương pháp tu định để khiến mắt sáng ra. Vốn tin Phật một cách
tuyệt đối và triệt để thực hành, không bao lâu A Na Luật sáng mắt trở
lại và chứng được thiên nhãn thông. Bất luận xa gần trong ngoài, mắt A
Na Luật đều thấy suốt. Trong hàng đệ tử Phật, ngài là bậc Thiên nhãn số
một.
Sau khi đạt được thiên nhãn, A Na Luật vô cùng cảm kích, bèn đến trước mặt Phật bạch rằng:
-
Đệ tử thường nghĩ rằng với người tu đạo thiểu dục tri túc, dũng mãnh
tinh tấn là những điều kiện ắt có; dẹp bỏ tiểu ngã để phục vụ nhân sanh
là trách nhiệm thường hằng. Nhưng cuối cùng để đi đến niết bàn và hoàn
thành giác ngộ thì phải làm những gì, xin Phật từ bi khai ngộ.
-
Hay thay! Hay thay! Phật đáp. Câu hỏi thật là đúng lúc. Vấn đề ông nêu
ra quả là quan trọng mà bất cứ một đại nhân nào cũng cần phải biết. Vấn
đề đó gồm trong chương trình tám điểm sau đây:
(1)
Nên biết rằng: thế gian vô thường, hoàn cảnh mong manh, bốn đại khổ
không, năm ấm vô ngã; rằng hết thảy đều sanh diệt đổi dời, luống dối
không thật; rằng tâm là nguồn gốc tội ác, thân là môi trường kích động.
Quán sát như vậy thì dần dần lìa được sanh tử.
(2)
Nên biết rằng: đa dục là nguồn gốc của đau khổ, là đầu mối của sanh tử;
rằng chỉ có thiểu dục vô vi mới khiến được thân tâm tự tại.
(3)
Nên biết rằng: lòng tham không đáy, càng thỏa mãn thì càng mong cầu và
càng tăng trưởng tội ác; rằng bồ tát ngược lại thường nhớ điều tri túc,
vui đạo quên nghèo, chăm lo xây dựng sự nghiệp trí huệ.
(4)
Nên biết rằng: lười nhác trụy lạc là điều đáng tủi hổ, vì vậy cần luôn
luôn tinh tấn phá trừ phiền não, hàng phục bốn ma để mau ra khỏi tù ngục
của ấm giới giam hãm.
(5)
Nên biết rằng: ngu si là đầu mối của sanh tử, vì vậy bồ tát chăm lo học
rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí huệ để sớm thành tựu biện tài mà tìm
niềm vui trong việc giáo hóa chúng sanh.
(6)
Nên biết rằng: nghèo khổ hay sanh lòng oán hận gây thêm duyên dữ; rằng
bồ tát thì không nhớ oán xưa, không ghét người ác, oan thân thảy đều
bình đẳng.
(7)
Nên biết rằng: dục lạc là cội nguồn họa hoạn, vì vậy dù còn ở thế,
nhưng tâm không nên say đắm dục tình, nên hướng tâm về chí nguyện xuất
gia giữ đạo thanh bạch, cầu hạnh thanh tịnh, lấy từ bi nhuầm thấm tất cả
mọi loài.
(8)
Nên biết rằng: lửa dữ sanh tử ngày đêm đốt thiêu, biển khổ không bờ,
cần phát tâm độ khắp chúng sanh, thay thế tất cả chúng sanh chịu vô
lượng đau khổ, khiến thảy đều được an vui.
Này
A Na Luật! Tám việc trên đây từng được chư Phật khai thị. Người tu học
đạo giác ngộ cần vận dụng tâm từ bi rộng lớn làm căn bản cho việc tu
phước và huệ, thành tựu cứu cánh niết bàn an lạc.
8.-ƯU BÀ LI (Upàli) Trì Giới số 1
Ưu Bà Ly vốn thuộc giai cấp Thủ Đà La, xuất thân làm nghề thợ cạo tóc, hầu hạ trong vương cung, dưới trướng của vương tử Bạt Đề.
Ngày
Phật về thăm Ca Tỳ La lần đầu tiên và chấp nhận cho các vương tử xuất
gia, Ưu Bà Ly tủi hổ cho thân phận mình sanh ra trong chốn hạ tiện, ở
thế gian làm thân nô lệ đã đành, muốn lìa thế gian đi tu cũng không được
phép. Hờn thân tủi phận, Ưu Bà Ly ngồi giọt dài giọt vắn, nước mắt trào
tuôn. Chợt có Xá Lợi Phất đi ngang qua trông thấy, hỏi rõ nguyên nhân,
bèn an ủi rằng:
-
Này Ưu Bà Ly! Ông đừng có ngại, giáo pháp Phật không phân biệt kẻ trí
người ngu, kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, hoặc giai cấp trên
dưới. Giáo pháp ấy mênh mông như biển cả, khoáng đạt như hư không. Biển
cả bao dung hết thảy trăm sông, hư không trùm chứa tất cả vạn loại. Cũng
vậy, từ bi của Phật dung chứa mọi loài hữu tình, bất luận quý tiện,
miễn có lòng tin thuận quy ngưỡng. Nên biết từ bi là mạch sống của nhân
sanh, là hơi thở của vạn hữu, là trái tim của đạo pháp. Không từ bi thì
không có gì tồn tại được. Có từ bi thì trăm việc đều thành. Muốn trưởng
dưỡng từ bi thì việc giữ giới là yếu tố then chốt. Tôi xin đưa ông đến
yết kiến Phật và tin chắc rằng Phật sẽ hoan hỉ đón nhận ông. Ông khỏi
lo!
Quả nhiên như lời Xá Lợi Phất nói, khi Phật gặp Ưu Bà Ly, ngài vô cùng hoan hỷ, âu yếm nhìn Ưu Bà Ly bảo rằng:
-
Này Ưu Bà Ly! Thoạt thấy ông, ta biết căn khí ông không nhỏ. Trải qua
nhiều kiếp, ông đã từng ra công tu luyện và từng giữ giới rất tinh
nghiêm. Tương lai trong giáo đoàn ta, ông sẽ là bậc Trì Giới số một. Hay
lắm! Hay lắm! Ta phải làm lễ thế phát cho ông ngay bây giờ. Lễ thế phát
của các vương tử sẽ cử hành sau, để cho họ có ngày giờ lãng quên thân
phận vương công của họ.
Sử
liệu cũng ghi rằng tuy Ưu Bà Ly và các vương tử xuất gia cùng ngày,
nhưng lễ xuất gia của các vương tử chỉ được chính thức cử hành sau khi
Phật đã thu nhận Ưu Bà Ly. Không những thế, trong ngày Bạt Đề chính thức
gia nhập tăng đoàn, Phật bảo Bạt Đề phải đảnh lễ Ưu Bà Ly vì tuổi đời
của Ưu Bà Ly lớn hơn. Dụng ý của Phật trong việc này cốt thể hiện tinh thần bình đẳng của giáo pháp mình, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp xã hội.
Đây
là người nô lệ Thủ đà la đầu tiên được Phật thâu nhận. Đây cũng là
người nô lệ Thủ đà la đầu tiên tham dự vào hoạt động tôn giáo trong lịch
sữ văn minh Ấn độ.
Theo sử liêïu Bắc truyền, sau khi Phật diệt độ, trong cuộc kiết tập
kinh
điển lần đầu tiên dưới quyền chủ tọa của Ma Ha Ca Diếp, chính Ưu Bà Ly
là vị trưởng lão tụng đọc tám mươi lần các giới luật Phật chế cho đại
chúng nghe, kết thành bộ Bát Thập Tụng Luật là quyển luật căn bản đầu
tiên của Phật giáo.
Theo
sử liệu Nam truyền, không những Ưu Bà Ly kết tập Tạng Luật, ngài còn là
vị sơ tổ kế tiếp Phật lãnh đạo tăng đoàn, chứ không phải Ca Diếp như
truyền thống Bắc tông. Sự kiện này tưởng đáng cho ta suy xét, phải chăng
vì Nam tông chú trọng hành trì giới luật nên tôn Ưu Bà Ly lên hàng đầu,
còn Bắc tông chú trọng lý tưởng giác ngộ nên tôn Ca Diếp lên hàng đầu.
Xét kỹ thì bên nào cũng có sở cứ vững vàng. Và chính đây là đầu mối phân
rẽ giữa Nam và Bắc tông.
9.- A NAN ĐÀ (Ananda) Đa văn số 1
A Nan Đà hay A Nan là con thứ của Bạch Phạn Vương, em ruột của Đề Bà Đạt Đa, tức em con chú của Phật.
A
Nan sanh trong đêm Phạt thành đạo, nên còn có tên là Khánh Hỷ, tuổi so
với La Hầu La còn trẻ hơn nữa, nhưng tình nguyện theo chân Phật thuộc
nhóm bảy vương tử trong ngày Phật về thăm quê lần đầu tiên. Trong tăng
đoàn, ngài là người đẹp trai nhất và thông minh nhất. Ngược hẳn với Chu
Lỵ Bàn Đà Già học một câu kệ ba tháng không thuộc, An Nan lại nghe một
biết mười, nghe nhiều hơn bất cứ ai trong chúng, vì ngài là thị giả
Phật, không một hội thuyết pháp nào mà không có ngài dự. Thế mà oái oăm
thay, chính Chu Lỵ Bàn Đà Già lại chứng quả trước A Nan ngay khi Phật
còn tại thế. Còn A Nan mãi đến khi Phật nhập diệt đã ba tháng mới chứng
quả, tức là một hôm trước ngày đại hội kiết tập lần thứ nhất.
Theo
Phật cho đến khi chính thức thọ giới Tỳ kheo, A Nan được tăng chúng đề
nghị cho làm thị giả hầu cận Phật. E ngại sự tỵ hiềm có thể xảy ra vì
việc này, A Nan đề xướng năm khoản thỉnh nguyện, yêu cầu Mục Kiền Liên
chuyển trình lên Phật trước khi đảm nhận trách nhiệm:
(1) Nhất thiết không mặc áo Phật cho, dù mới hay cũ.
(2) Không bao giờ đi trước mỗi khi có thí chủ thỉnh Phật về nhà riêng cúng dường.
(3) Được ra ngoài hay đi chỗ khác trong khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu sự hiện diện của thị giả không cần thiết.
(4) Không ăn đồ thừa của Phật.
(5) Được tùy tiện sắp xếp hoặc cho hay không cho, mỗi khi có khách muốn đến yết kiến Phật.
Năm
khoản ấy sau khi trình lên Phật, được chấp nhận ngay, Phật biết ý A Nan
muốn tránh tỵ hiềm trong tăng chúng và muốn tránh không nghe những mẫu
giáo lý chưa hoàn bị mà vì cơ duyên, Phật cần nói riêng với một số tín
chúng chưa thuần thục.
Vì
A Nan rất đẹp trai, tánh lại rất hoan hỷ đối với phụ nữ, nên được tất
cả nữ giới kính mến ưa chuộng. Ngày Ma ha Ba Xà Ba Đề và năm trăm cung
nữ đến xin Phật xuất gia, bà hết sức năn nỉ với chúng tăng nhờ trình lên
với Phật, nhưng không một ai chịu chuyển trình. Riêng A Nan hoan hỷ
nhận lời ngay. Lại một hôm, cùng đi du hóa trong đoàn của Ma Ha Ca Diếp,
ngang qua một lan nhã của Tỳ kheo ni, nhóm này vừa trông thấy ùa ra đón
rước. Mặc dù Ca Diếp là vị trưởng lão niên xĩ đạo cao lạp trưởng, thế
mà họ chỉ vây quanh A Nan để hỏi đạo, rồi sau mới quay sang bái vấn Ca
Diếp. Một hôm khác, nhân có việc đi một mình gặp một cô gái nô lệ tên
Bát Cát Đế (Praksti hay Pakati) trong dòng họ Ma đăng già (Matànga). A
Nan bị cô gái này yêu say mê mệt, quyết cướp cho được làm chồng, may nhờ
Phật phương tiện tìm cách giải cứu mới thoát khỏi.
Từ
khi A Nan bị nạn Ma đăng già, Phật không cho ngài xuất ngoại một mình.
Phật đi đâu luôn luôn có A Nan đi theo. Vì vậy trong các hội thuyết pháp
luôn luôn có mặt A Nan. Pháp Phật như biển cả, nước biển ấy hoàn toàn
chảy hết vào tâm A Nan, không sót một giọt.
Một
hôm trên đường du hóa, nhân trời nắng gắt, Phật ngồi nghỉ dưới bóng
cây, bảo A Nan mang bình ra sông lấy nước về uống. A Nan mang bình không
về, trình rằng nước sông quá đục không dùng được, vì trên mạn thượng
lưu cách đó không xa, có nhiều ngựa voi lội qua, quậy nước đục ngầu.
Phật truyền cứ múc nước lên uống, A Nan đành trở lui xuống sông thì ngạc
nhiên biết bao, nước sông trở lại trong vắt như mắt mèo. A Nan hỏi
duyên cớ, Phật mỉm cười không nói.
Khi
Phật về già, một hômA Nan nằm mộng thấy bảy việc kỳ quái, lòng rất
hoang mang lo sợ, sáng dậy trình lại Phật biết để thỉnh ý kiến. Bảy sự
việc ấy như sau:
(1) Lửa dữ rực cháy, thiêu đốt khắp biển lớn nhỏ và sông hồ ngòi lạch.
(2) Mặt trời rơi rụng, thế giới tối tăm, A Nan vươn lên đầu cao ngang núi Tu di.
(3) Tỳ kheo bỏ giới luật, treo áo cà sa.
(4) Tỳ kheo pháp y tơi tả, lận đận khốn cùng trong lao lý chông gai.
(5) Heo rừng từng đoàn kéo đến bới gốc rễ cây chiên đàn to lớn xanh um.
(6)
Voi con không nghe lời voi mẹ, tung tăng rong chơi khắp xứ, lạc bước
vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói chết khát ngổn ngang.
(7)
Sư tử chết, các loài phi trùng, điểu thú không dám lại gần, dòi bọ từ
trong ruột sư tử bò ra lô nhô lúc nhúc, rút rỉa thịt xương sư tử.
Nghe
A Nan kể lại bảy việc thấy trong giấc mộng. Phật rầu rầu nét măït, dạy
rằng: "Này An Nan! Mộng tuy do tâm tạo, nhưng đó cũng chính là triệu
chứng báo trước tương lai giáo pháp của ta đấy.
-
Này A Nan! Lửa dữ thiêu đốt sông biển, đó là điềm trong tương lai có
hạng Tỳ kheo được tín chúng cúng dường đầy đủ, lại khởi xướng đấu tranh,
vi phạm giáo pháp thanh tịnh của ta.
-
Này A Nan! Mặt trời rơi rụng, thế giới tối tăm, đầu ông cao ngang núi
Tu di, đó là điềm sau khi ta niết bàn, đại chúng Tỳ kheo cùng chư thiên
và quần chúng sẽ yêu cầu ông tuyên dương chánh pháp.
-
Này A Nan! Tỳ kheo bỏ giới treo áo cà sa, đó là điềm trong tương lai có
hạng tỳ kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông mà không thực sự tu hành.
-
Này A Nan! Tỳ kheo lận đận khốn cùng, pháp y tơi tả, đó là điềm trong
tương lai có hạng tỳ kheo vợ con đùm đề, bỏ giới không tu, xuôi theo thế
tục hưởng lạc.
-
Này A Nan Heo rừng đào bới rễ chiên đàn, đó là điềm trong tương lai có
hạng tỳ kheo buôn bán Như lai, xem chánh pháp như phương tiện trao đổi
để cầu lợi dưỡng.
-
Này A Nan! Voi con không nghe lời voi mẹ đến đổi bị đói khát mà chết,
đó là điềm trong tương lai có hạng tỳ kheo thiếu niên hậu học không nghe
lời giáo huấn của trưởng lão, không tin tội phước quả báo, chết đọa vào
địa ngục.
-
Này A Nan! Dòi bọ từ trong bụng sư tử chết bò ra, rút rỉa xương thịt sư
tử chết mà ăn, đó là điềm trong tương lai chính đệ tử Phật trở lại phá
hoại giáo pháp Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá nổi".
Một
trong bảy mộng triệu trên đây đã được kiểm chứng đúng, ngay sau khi
Phật nhập diệt ba tháng. Đó là việc A Nan được đại hội kiết tập kinh
điển lần thứ nhất giao phó trách nhiệm đứng lên tụng lại các kinh điển
của Phật cho đại chúng nghe. Tương truyền rằng trước khi khai hội, A Nan
xin dự nhưng bị chủ tọa là Ma Ha Ca Diếp từ chối. Uất ức vì không được
tham dự, A Nan tìm một chỗ vắng trong động để tham thiền tìm cho ra lẽ.
Ngồi như thế một ngày một đêm mệt quá, vừa ngã lưng xuống định nghỉ xả
hơi thì hoát nhiên đại ngộ. Sau đó, A Nan xin đến gặp Ca Diếp trở lại,
được Ca Diếp hoan hỷ đón vào và giao cho trách nhiệm kết tập kinh điển.
10.- LA HẦU LA (Rahula) Mật Hạnh số 1
La
Hầu La là con ruột của Phật khi ngài còn là thái tử. Sau khi thái tử
xuất gia, La Hầu La là một trong những người có thể thừa kế vương vị Ca
Tỳ La. Nhưng điều mà Phật đã từ bỏ, ngài không muốn cho con ngài làm. Vì
vậy khi về thăm quê lần đầu tiên, Ngài phương tiện tìm cách đưa La Hầu
La đi xuất gia và giao cho Xá Lợi Phất dạy bảo.
Với
sự xuất gia của La Hầu La, chế độ Sa di bắt đầu khai xuất. Bấy giờ, La
Hầu La khoảng 15,16 tuổi, chưa ý thức được tầm quan trọng của con đường
mới và cũng chưa đủ sức lãnh nạp giáo pháp Phật. Đối với sanh hoạt tăng đoàn, chẳng qua cha bảo sao con nghe vậy, không ưa thích cũng chẳng chống báng.
Để
tẩy trừ tập khí vương giả quen thói chỉ tay năm ngón, Phật bảo Xá Lợi
Phất giao cho La Hầu La công việc quét dọn đình viện hàng ngày. Một hôm
quét xong trở về phòng thì phòng đã bị một khách tăng chiếm ở và quăng y
bát của La Hầu La ra ngoài. La Hầu La đành ôm y bát ra sân ngồi. Thình
lình trời mưa, La Hầu La lại ôm y bát vào ngồi cầu xí. Việc này sau khi
Phật biết, trở thành nguyên nhân khiến Phật lập quy chế mới, cho Sa di ở
chung phòng với Tỳ kheo. Từ đó La Hầu La sát gót Xá Lợi Phất. Nhân một
hôm cùng đi khất thực với bổn sư, tín chúng cúng dường không đồng đều,
La Hầu La bất bình, nên từ đó Phật chế ra luật Lục hòa kỉnh.
Một
hôm cùng với Xá Lợi Phất vào thành Vương Xá khất thực, hai thầy trò gặp
một gả mất dạy bỏ cát vào bình bát của Xá Lợi Phất rồi dùng gậy đánh
lên đầu La Hầu La. Nhìn gương mặt phừng phừng tức giận của La Hầu La, Xá
Lợi Phất ôn tồn khuyên bảo:
-
Nếu là đệ tử của Phật, nhà ngươi nên có tinh thần nhẫn nhục, không nên
cưu hận và nên thường vận dụng tâm từ bi thương xót tất cả chúng sanh.
Vinh nhục, khen chê không đáng cho ta lưu ý. Phật dạy trên thế gian này
không có sức mạnh nào lớn đến đâu có thể thắng nổi sức mạnh của nhẫn
nhục.
Việc này sau khi Phật biết, lại được Phật dạy thêm:
-
Này La Hầu La, người không biết nhẫn nhục không thể nào thấy Phật,
thuận Pháp, gần Tăng, thường bị đọa lạc vào đường dữ. Có nhẫn nhục mới
có bình an, mới tiêu trừ được họa hoạn, phát triển trí tuệ. Trí tuệ tối
cao là con đẻ của nhẫn nhục. Người có trí tuệ mới thấy rõ quả báo thâm
viễn, khắc phục sân tâm, thường hành tinh tấn, thể hiện chân tinh thần
và chân ý nghĩa của Phật pháp, hòa hợp với thế tục mà không ô nhiễm.
Nhẫn nhục là tăng thượng duyên của đạo pháp, giúp hành giả sớm chứng
giải thoát.
Được
Phật và Xá Lợi Phất kềm sát và từ mẫn giáo hóa, tập khí cương cường của
dòng máu vương giả trong người La Hầu La mỗi ngày mỗi lạt phai và tánh
tình lần lần trở nên ôn hòa nhu thuận. Duy chỉ có một tánh chưa bỏ được,
đó là tánh ưa bông đùa dối gạt để mua vui. Nhằm sửa trị tánh này, một
hôm Phật bảo La Hầu La bưng một chậu nước đến cho ngài rửa chân. Rửa
xong, Phật hỏi La Hầu La:
- Nước này có thể uống được không?
- Thưa không.
- Vì sao?
- Vì đã ô uế.
-
Nước ô uế không dùng được, tâm ô uế cũng thế. Mang danh xuất gia mà
không tịnh tâm tu học, không giữ gìn lời nói, lòng tràn đầy ba độc cấu
uế thì khác gì mớ nước ô uế này. Đã không dùng được thì hãy đổ đi.
Phật bảo La Hầu La đem chậu đi dổ rồi mang chậu không về. Hỏi:
- Chậu này có dùng đựng cơm được không?
- Thưa không.
- Vì sao?
- Vì mặt chậu bám đầy chất dơ.
-
Chậu dơ không dùng được, thân dơ cũng thế. Mang danh xuất gia mà không
tu giới định huệ, không thanh tịnh thân khẩu ý, mình dính đầy ba độc cấu
uế thì khác gì cái chậu dơ này. Đã không dùng được thì thà đập bể còn
hơn.
Phật đá nhẹ vào chậu khiến chậu vỡ đôi. Hỏi:
- Nhà người có tiếc cái chậu không?
- Thưa không, vì là chậu dơ.
-
Này La Hầu La! Nhà ngươi không tiếc chậu dơ như thế nào thì tăng đoàn
không dung người dơ cũng như thế. Mang danh xuất gia mà không biết trọng
uy nghi, hý ngôn lộng ngữ thì ai mà yêu mến nhà ngươi đuợc?
Từ
đó, La Hầu La thề quyết tâm hoán cải, nghiêm trì giới luật, tinh tấn
đạo tâm, suốt ngày kín tiếng lặng hơi, quyết luyện mật hạnh. Tu như vậy
trong mấy năm liền, vẫn không thấy tiến bộ, nhưng một hôm nhân một câu
nói của Phật mà hoát nhiên khai ngộ. Hôm ấy cùng Phật đi du hóa, Phật
chỉ cảnh vật xung quanh bảo La Hầu La rằng:
-
Hãy nhìn vạn tượng sum la kia, rồi nhìn trở lui vào tâm niệm và thân
thể của mình, để xem thử có gì đứng yên một chỗ không? Vô thường! Vô
thường tất cả! Nên biết như thế và đừng để cho tâm chấp trước dính mắc
vào đâu hết.
Sau một thời gian chăm chú luyện mật hạnh, câu nói đơn giản trên đây của Phật như có mãnh lực của dông sấm đập
- PHẬT VÀ THÁNH CHÚNG
- Xuất bản: Phật Học Viện Nha Trang, Phật lịch 2513
THÁNH CHÚNG
Trong
suốt bốn mươi chín năm giáo hóa, từ thành đạo cho đến niết bàn, Phật
quy tụ xung quanh hào quang của ngài một số đệ tử, cả xuất gia lẫn tại
gia nhiều không kể xiết. Riêng chúng xuất gia cũng đã lên đến con số
kinh khủng rồi. Trong số nầy, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh
quả A La Hán, gồm có 1255 vị mà kinh điển thường ghi con số tròn là
1250. Đặc biệt nhất có mười vị mệnh danh là Thập Đại đệ tử. Gọi là Đại
vì những vị trong số mười người này đều có sở trường riêng, sở chứng
riêng và đạo hạnh riêng. Mười vị đại đệ tử ấy gọi là Thánh chúng của
Phật, mà giáo điển Đại thừa liệt kê như sau:
1.- Xá Lợi Phất, Trí tuệ số 1.
2.- Mục Kiền Liên, Thần thông số 1.
3.- Phú Lâu Na, Thuyết pháp số 1.
4.- Tu Bồ Đề, Giải không số 1.
5.- Ca Chiên Diên, Luận nghị số 1.
6.- Đại Ca Diếp, Đầu đà số 1.
7.- A Na Luật, Thiên nhãn số 1.
8.- Ưu Ba Ly, Trì giới số 1.
9.- A Nan Đà, Đa văn số 1.
10.- La Hầu La, Mật hạnh số 1.
1.- XÁ LỢI PHẤT (Sàriputra) Trí Tuệ số 1
Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai đệ tử cao cấp nhất của Phật. Cả hai
vốn là đôi bạn thâm giao từ ngày còn trẻ. Bấy giờ, hai người cùng ở
trong môn phái San Xa Dạ Tỳ La Lê Tử, một trong sáu nhóm Lục sư ngoại
đạo. Xá Lợi Phất từng nổi tiếng về biện tài vô ngại, còn Mục Kiền Liên
nổi tiếng về năng lực thần thông. Mỗi ngài đều có dưới gối một trăm đồ
chúng. Cả hai cùng ước hẹn với nhau rằng hể ai đắc đạo trước thì phải
thông báo ngay cho người kia biết để cùng theo chung một đường.
Một
hôm Xá Lợi Phất gặp Mã Thắng, tức A Xả Bà Thệ, một trong năm Tỳ kheo
đầu tiên, đang đi khất thực trong thành Vương Xá. Thấy phong độ uy
nghiêm tự tại của Mã Thắng, Xá Lợi Phất lân la đến hỏi, được vị này cho
biết ông đang theo Phật học đạo. Hỏi về giáo lý pháp Phật thì được giảng
cho nghe về lý duyên sanh của các pháp, rằng các pháp do nhân duyên mà
có sanh rồi cũng do nhân duyên mà có diệt, rằng tinh túy của giáo pháp
này tóm gọn trong một bài kệ là:
Chư pháp tùng duyên sanh
Diệc phục tùng duyên diệt
Ngã Phật đại sa môn
Thường tác như thị thuyết.
(Các pháp do duyên sanh
Lại cũng do duyên diệt
Thầy tôi là đức Phật
Thường dạy tôi như thế)
Nghe
xong đạo lý duyên sanh, Xá Lợi Phất như bừng tỉnh, rồi xin đi theo Mã
Thắng về yết kiến Phật. Được Phật khai thị rõ thêm về các đạo lý vô ngã,
niết bàn v.v... Xá Lợi Phất ước hẹn với Phật xin trở về đưa Mục Kiền
Liên đến, rồi cả hai cùng quy y Phật. Cùng theo về với hai người có thêm
hai trăm đồ chúng. Sự trở về này đã tăng thêm uy thế lớn lao cho Phật,
vì hai người nguyên là hai lãnh tụ tôn giáo vốn đã có nhiều uy tín trong
giới đạo học thời bấy giờ.
Riêng về Xá Lợi Phất, ngài là cháu gọi Câu Hy La tức
Trường trảo phạn chí bằng cậu ruột. Ông này cũng là một lãnh tụ ngoại
đạo tên tuổi và có tài biện luận. Sau khi thấy cháu theo Phật, ông rất
đổi ngạc nhiên, tìm đến hỏi lý do, được Xá Lợi Phất khai thị, rồi cũng
xin theo luôn.
Tương
truyền mẹ ngài Xá Lợi Phất, bà Xá Lợi (Sàri), chị ruột Câu Hy La, cũng
là một người đàn bà đặc biệt. Bà rất thông minh, biện tài còn giỏi hơn
em và chỉ thua con mà thôi. Thân phụ ngài tên là Ưu Bà Đề Xá hay Ưu Ba
Thất Sa (Upatisya). Tên ấy cũng được dùng để gọi ngài. Nhưng phong tục
Ấn Dộ bấy giờ có thói quen gọi con bằng tên mẹ. Như Sàriputra, phiên âm
Xá Lợi Phất Đa La, hay gọi tắt Xá Lợi Phật, có nghĩa là: con bà Xá Lợi
(Sàri: bà Xá Lợi; putra: con). Vì vậy Xà Lợi Phất, Tàu còn gọi là Xá Lợi
Tử.
Sau
khi theo gót Phật, suốt trên bốn mươi năm, Xá Lợi Phất mặc dù là bậc
trí tuệ kỳ vỹ, nhưng đối với Phật vẫn luôn luôn bách y bách thuận. Ngài
chưa bao giờ phạm một lỗi lầm nhỏ nào khiến Phật phiền lòng. Ngài thật
xứng đáng là bậc trưởng lão đứng đầu hàng Thánh chúng. Trong thời kỳ
kiến thiết tịnh xá Kỳ Viên, ngài được Phật ủy thác trông coi và lo liệu.
Chính ngài là người đầu tiên đem chánh pháp gieo rắc tại Xá Vệ và đưa
ngoại đạo về với Phật, trước khi Phật chưa quang lâm đến. Lại cũng chính
ngài là người được Phật đăïc biệt ủy thác giáo hóa La Hầu La.
Sự
tích ghi chép rằng, một hôm La Hầu La đi khất thực về, gương mặt có vẻ
không vui. Phật kêu lên gạn hỏi thì La Hầu La phàn nàn rằng trong đoàn
khất thực của mình chỉ có trưởng
lão Xá Lợi Phất và các Tỳ kheo lớn tuổi mới được tín thí cúng dường vật
thực béo bổ. Kỳ dư hạng sa môn như La Hầu La thì chỉ được tặng cho một
tý xíu xác mè ép và rau đồng trộn với cơm; ăn uống như thế thì làm sao
có đủ sức khỏe để tu hành. Phật rầy La Hầu La không nên có niệm đố kỵ,
dạy La Hầu La lui, rồi cho mời Xá Lợi Phất đến bảo rằng:
- Hôm nay ông ăn phải thức ăn bất tịnh, ông có biết không?
Xá
Lợi Phất giật mình, vì chính hôm ấy sau khi ăn xong thì đồ ăn ẩu ra
hết. Ngài ngạc nhiên không hiểu vì sao Phật lại biết được việc ấy. Riêng
ngài cũng tự xét chưa bao giờ làm trái hay thi hành lệch lạc luật khất
thực của Phật.
Nhân
cơ hội này, Phật chế ra pháp Lục hòa kỉnh. Pháp này gồm có sáu điểm cơ
bản quan trọng quy định nguyên tắc sanh hoạt trong nội bộ của chúng
tăng:
a.- Thân hòa đồng trú ( cùng ở chung với nhau một chỗ).
b.- Khẩu hòa vô tránh (không tranh cãi nhau).
c.- Ý hòa đồng duyệt (thông cảm cởi mở với nhau).
d.- Lợi hòa đồng quân ( chia đều lợi lộc để chung hưởng)
e.- Giới hòa đồng tu (cùng tu theo giới luật như nhau).
f.- Kiến hòa đồng giải (san sẻ kiến giải với nhau).
Sáu điểm cơ bản này quyết định sanh mạng của giáo đoàn. Vì vậy nghe xong, Xá Lợi Phất hoan hỷ tín thọ và áp dụng ngay.
Một
hôm, tại tịnh xá Kỳ Viên, sau ba tháng hạ an cư, Xá Lợi Phất từ giả
Phật để lên đường đi bố giáo. Ngài vừa ra khỏi cổng thì một Tỳ kheo lên
đầu cáo với Phật rằng Xá Lợi Phất vô cớ nhục mạ y rồi nhân cơn giận dữ,
thác cớ bố giáo để bỏ đi, chớ không có ý đi bố giáo thật sự. Phật cho
gọi Xá Lợi Phất lui. Sau khi được Phật cho biết lý do gọi về, Xá Lợi
Phất trầm tỉnh bạch rằng:
-
Bạch Phật! Từ ngày theo gót Phật học đạo, đến nay tuổi đã gần tám mươi,
để tử chưa hề sát hại sanh mạng, chưa hề nói dối, ngày ngày chỉ chăm lo
sám hối tội cũ. Nhờ hồng ân Phật, suốt thời gian dài đăng đẳng trên bốn
mươi năm, đệ tử rất sung sướng được thấy tâm mình trong lặng như nước
biếc. Vì vậy, đệ tử chưa từng biết khinh thị ai, nói chi đến việc lăng
nhục!
Bạch
Phật! Đất bùn là biểu trưng cho nhẫn nhục. Tất cả những gì bất tịnh
nhất trên thế gian này như máu mủ, đờm giải, phẩn nước tiểu v.v... đất
bùn đều lãnh thọ được hết. Đệ tử có thể xác quyết với Phật rằng đệ tử
muốn làm đất bùn và nguyện không làm trái ý bất cứ một ai. Dòng nước
không hề có niệm yêu ghét và trên thế gian này bất cứ một vật gì nhơ
nhớp cũng nhờ nước mà tẩy sạch. Đệ tử nguyện làm dòng nước gội tẩy ô uế
thế gian. Cái chổi không hề có niệm phân biệt, không chọn tốt xấu trước
khi quét phủi. Đệ tử nguyện làm cái chổi quét sạch bụi trần cho chúng
sanh. Từ khi lãnh thọ giáo pháp Phật, đệ tử luôn luôn an trú trong chánh
niệm, chưa hề biết phân biệt là gì, khinh thị là gì. Nếu quả thật đệ tử
có lỗi mà vị Tỳ kheo nào đó thấy được, xin vị ấy từ mẫn chỉ bảo, đệ tử
xin hướng đến vị ấy thành khẩn sám hối.
Phật
cho gọi vị Tỳ kheo đầu cáo ra đối chứng. Vị này hổ thẹn vì đã nói dối,
xin Phật và Xá Lợi Phất thứ dung. Đáp lại, Xá Lợi Phất không những không
tỏ ý giận dỗi, mà còn từ ái an ủi khuyên răn.
Một
hôm khác, nhân Xá Lợi Phất đi bố giáo về tối , phòng ở của ngài bị nhóm
Lục Quần Tỳ kheo chiếm ngủ. Xá Lợi Phất lẵng lặng ra ngoài trời, ngủ
dưới gốc cây. Sáng ngày, Phật biết chuyện này cho triệu tập đại chúng
lại rầy la. Lục Quần Tỳ kheo cãi bướng rằng Xá Lợi Phất không phải Bà la
môn, cũng chẳng phải Sát đế lỵ thì không có quyền dành riêng chỗ ngủ.
(Lục Quần Tỳ kheo gồm sáu người lếu láo nhất trong số đệ tử Phật, thường
hay toa rập nhau quấy rối làm những điều ngỗ ngáo). Phật dạy rằng trong
hàng đệ tử của ngài, sinh hoạt tuy bình đẳng, nhưng đối với những bậc
niên xỉ và pháp lạp cao, hết thảy Tỳ kheo khác có bổn phận cung kính
cúng dường, nhường nhịn nơi ăn chốn ở tốt nhất, nước uống thức ăn tốt
nhất. Xá Lợi Phất rất cảm động về lòng ưu ái của Phật đối với mình.
Lại
một hôm, sau khi được hung tin người lão hữu Mục Kiền Liên bị bọn Lõa
hình ngoại đạo ám hại trong khi đang đi bố giáo tại thành Thất La Phiệt
(tức Xá Vệ). Bấy giờ, đa số tăng chúng đang trú đóng tại Tỳ Xá Ly. Chỉ
có Phật, Xá Lợi Phất và một ít tỳ kheo hầu hạ Phật ở lại Vương Xá. Nghe
tin chẳng lành, Xá Lợi Phất ngất đi một hồi lâu, ngài xót xa thương cảm
bạn vô hạn, Phật phải dỗ dành an ủi mấy ngày liền. Sau đó, Phật triệu
tập tăng chúng lại, báo cho tất cả biết hung tin và đồng thời cũng cho
hay rằng trong ba tháng nữa, chính Phật cũng sẽ tấn nhập Niết bàn.
Nhận
tiếp hai tin chẳng lành, bạn chết và thầy sắp ra đi, Xá Lợi Phất cảm
thấy cô đơn đau xót, ngài xin Phật cho phép về quê thăm mẹ già tuổi đã
trên trăm, tại thôn Ca La Tý Noa Ca. Ngài dắt thêm một sa di tên Quân
Đầu. Về tới nhà ngài cho triệu tập dân cư trong vùng lại, cùng họ hàn
huyên ấm lạnh, rồi đem giáo pháp Phật giảng giải cho mọi người cùng
nghe, khuyên bảo họ nên theo gương từ bi nhẫn nhục của Phật mà sanh
hoạt. Sau khi vui vẻ từ giả mẹ già, bà con lối xóm, ngài nhập đại định
và thị tịch luôn. Theo gương các cao đệ của Phật trong quá khứ, ngài
không muốn chứng kiến cảnh Phật nhập niết bàn.
Linh
cốt của Xá Lợi Phất được Quân Đầu mang về trình Phật. Phập tập họp
chúng Tỳ kheo lại, nhìn vào xá lợi của vị cao đệ trưởng lão mà bảo rằng:
"Linh
cốt này trước khi còn là Đại trí Xá Lợi Phất, đã từng vì chúng sanh
thuyết pháp bố giáo khắp nơi. Trí tuệ của bậc đại trí này rộng lớn vô
biên, ngoài Phật ra không ai sánh kịp. Nhờ trí huệ ấy, bậc đại trí này
đã chứng ngộ pháp tánh, thiểu dục tri túc, dõng mãnh tinh thấn, thường
tu thiền định, vì người giáo hóa, không có ngã chấp, biện tài vô ngại
nhưng không ham tranh cãi, xá lánh người dữ, hàng phục ngoại đạo, tuyên
dương chánh pháp, xa lìa đau khổ, chứng ngộ giải thoát.
Đây là vị đệ tử số một của ta. Các người nên theo gương vị đại đệ tử ấy".
2.- MỤC KIỀN LIÊN (Maudgalyàyana) Thần thông số 1
Là
bạn tâm giao của Xá Lợi Phất từ ngày còn tu theo môn phái Sa Xa Dạ, Mục
Kiền Liên là vị đại đệ tử số hai của Phật, sau Xá Lợi Phất.
Thân
phụ ngài tên là Câu Lỵ Ca (Kolita), thân mẫu ngài thuộc họ Mục Kiền
Liên, nên trong kinh có chỗ gọi ngài là Câu Lỵ Ca hay Câu Luật Đà, nhưng
danh xưng thông dụng nhất là Mục Kiền Liên (Maudgalyàyana hay
Maudygapaputra).
Sau
khi về hầu Phật, ngài rất hăng say trong việc phổ biến Phật pháp. Không
khó khăn nào mà ngài không quyết tâm khắc phục để thủ thắng cho kỳ
được. Ngài không chấp nhận thỏa hiệp. Ỷ vào sức thần thông, trong khi
đấu phép với ngoại đạo, ngài luôn luôn chiến thắng họ.
Đặc
tánh của Xá Lợi Phất là mặc dù có biện tài vô ngại, đối với Phật thủy
chung vẫn bách y bách thuận. Ngược lại, đặc tính của Mục Kiền Liên là ỷ
vào thần thông, đối với ngoại đạo luôn luôn áp đảo bách chiến bách
thắng.
Phật
thường quở ngài về tánh tự thị này, Phật bảo: "Thần thông tuy là một
phép tu cao cường, nhưng không phải là pháp căn bản, vì thần thông không
quan hệ đế sự nghiệp giải thoát sanh tử. Ngày thành Ca Tỳ La bị Tỳ Lưu
Ly vây khổn, Mục Kiền Liên không nghe lời Phật, đã từng dụng thần thông
đến cứu dòng họ Thích Ca, nhưng cuối cùng thần thông vẫn không thắng nổi
nghiệp quả. Lúc ngài đi bố giáo trong thành Thất La Phiệt, bị ngoại đạo
dùng gậy gộc vây đánh, thần thông cũng không cứu được ngài thoát chết,
vì không thắng được nghiệp báo.
Về
giá trị thần thông, trong giáo điển Phật giáo còn ghi lại một mẫu
chuyện khá lý thú: một hôm Phật gặp một đạo sĩ Bà la môn đang trổ tài
thần thông cho dân chúng hiếu kỳ xem bên một bờ sông. Thấy Phật, ông
dương dương tự đắc, Phật hỏi ông tu bao lâu và chứng được quả gì. Ông
cho biết ông ra công luyện thần thông từ trên ba mươi năm và thành quả
đạt được là tự cất mình bay qua một con sông rộng trăm thước. Phật cười
đáp lại rằng nếu mất nữa đời người để chỉ làm một công việc mà bất cứ ai
có một đồng xu trong tay cũng làm được, thì quả là đắt.
Giá
trị thần thông ở chỗ giúp kẻ chứng nó soi suốt lòng người, không quản
xa gần, bất cứ ở đâu, không phân biệt trong tâm hay ngoài thân. Về công
năng thấu suốt bén nhạy ấy, trong kinh sách Phật giáo lại có một câu
chuyện như sau:
Một
hôm Mục Kiền Liên đi qua một viên lâm, tình cờ gặp một phụ nữ trung
niên rất xinh đẹp tên là Liên Hoa Sắc đón đường gạ chuyện. Nhìn nàng,
Mục Kiền Liên biết ngay là một cô gái điếm đến mê hoặc mình. Không những
thế, ngài còn thấu suốt được những uẩn khúc của lòng nàng, những nỗi
khổ nhục mà nàng trải qua khiến cho nàng vốn là người có bản chất tốt
như hoa sen mà phải lăn lộn hụp lặn trong chốn bùn nhơ, Ngài nói với
Liên Hoa Sắc:
-
Người cô hình dáng thật là mỹ miều xinh đẹp lại thêm trang sức lộng
lẫy, bên ngoài coi bộ duyên dáng hấp dẫn, nhưng bên trong chứa đầy ô uế
ngày đêm tiết rĩ không ngừng. Thân thể và tâm hồn cô hiện tại cực kỳ bất
tịnh. Cô đang vùng vẫy trong bùn nhơ, nhưng càng vùng vẫy thì càng lún
sâu thêm mãi.
Liên Hoa Sắc kinh hãi, bất giác rơi lệ thưa rằng:
- Tôi không còn cách nào hơn.
Mục Kiền Liên an ủi:
-
Không nên tự khí, dù quá khứ như thế nào, người ta cũng có thể xây dựng
lại được cuộc đời, miễn là chịu thành khẩn sám hối lỗi trước. Áo quần
dơ, thân thể bẩn thì lấy nước giăït rửa. Tâm hồn bất tịnh thì dùng Phật
pháp lau chùi. Nước trăm sông dù dơ, chỉ cần chảy vào biển cả, thảy đều
lắng xuống gạn trong. Thầy ta là đức Phật dạy rằng, nếu chịu khó tẩy uế
tâm hồn thì bất cứ ai cũng ngộ đạo và được giải cứu.
- Nhưng tội lỗi quá khứ của tôi khủng khiếp lắm, nói ra e tôn giả phải bỏ chạy vì khiếp hãi.
- Cứ nói đi.
-
Tôi tên là Liên Hoa Sắc, con của trưởng giả trú tại thành Đức Xoa Thi
Ca. Lúc mười sáu tuổi lấy chồng. Sau đó không bao lâu, chẳng may cha
chồng quá vãng, mẹ chồng góa bụa lại tư thông với chồng tôi. Bấy giờ tôi
đã sanh được một gái. Chứng kiến cảnh loạn luân ngang trái ấy, tôi uất
ức quá bỏ nhà ra đi. Bỏ luôn đứa con cho chồng. Lang thang phiêu bạc mấy
năm, tôi tái giá với một người chồng
khác. Y là một thương gia hằng ngày ngược xuôi theo nghiệp buôn bán.
Một hôm từ thành Đức Xoa Thi Ca về, nhân buôn bán phát tài, y mua về một
nàng hầu đem dấu cất ở một nhà riêng. Nghe hàng xóm đâm tin, tôi nổi
máu ghen lên, dùng trăm mưu nghìn kế dò cho ra sào huyệt của con dâm phụ
để xé xác nó ra. Đến khi thấy mặt thì hởi ôi! đó chính là con gái tôi
với người chồng trước. Tôi té xuống chết giấc. Không hiểu nghiệp báo gì
của tôi kỳ dị đến thế. Trước kia bà già chồng tranh cướp chồng tôi, giờ
dây con gái tôi lại cũng tranh cướp chồng tôi. Chung chồng với mẹ, rồi
lại chung chồng với con, như thế làm sao tôi có thể sống nỗi? Chán ngán
nhân tình thế thái, tôi mang thân ra làm gái điếm, mua vui bằng cách đùa
cợt với mọi người, dùng tiếng hát để nhận chìm thế gian. Đối với tôi,
đời sống còn có nghĩa gì đâu, ngoài tiền bạc của cải. Tiền bạc là vạn
năng, người ta mua tiếng cười của tôi có khi đến hàng ngàn lượng bạc.
Rồi với số tiền ấy, tôi vung tay cho sướng, khiến cho ai ai cũng phải
thần phục dưới chân tôi. Ấy tội tôi như thế đấy, làm sao sám hối cho hết
được?
Mục
Kiền Liên nghe qua, biết rằng Liên Hoa Sắc đau khổ lắm. Bề ngoài giọng
nói và luận điệu tuy có vẻ khinh bạc, nhưng bên trong thiện tâm vẫn chưa
khô cạn. Ngài đem giáo lý duyên sanh giảng giải cho nàng nghe và tìm đủ
mọi phương tiện thiện xảo để an ủi nàng. Dần dần nàng tỉnh ngộ, cùng
với Mục Kiền Liên, nàng đi đến yết kiến Phật.
Về
sau, Liên Hoa Sắc trở thành một vị Tỳ kheo ni gương mẫu, chứng thánh
quả A La Hán và là vị thần thông số một về phái nữ, ngang hàng với Mục
Kiền Liên là vị thần thông số một về phái nam.
Cải
quá tự tân là mục đích quan trọng của giáo pháp Phật. Bất cứ ai phạm
bất cứ một tội lỗi nào dù là tội ngũ nghịch thập ác, hễ thành tâm sám
hối, tinh tấn tu hành, thảy đều được cứu độ. Đó là diệu dụng của pháp
môn Bất nhị. Theo pháp môn này, khổ vui vốn không hai, lìa khỏi khổ đau
thì chính đó là an vui rồi. Ý nghĩa chứng quả của Liên Hoa Sắc là ở chổ
đó.
Trở
về với ngài Mục Kiền Liên, ngài không những nổi tiếng là bậc thần thông
số một trong hàng đệ tử Phật. Ngài còn nổi tiếng là bậc đại hiếu thờ mẹ
hết lòng, xử dụng đủ mọi phương tiện thiện xảo để hướng dẫn mẹ về đường
ngay nẻo chánh mà không làm phật lòng mẹ, mặc dù bà rất khó tánh .
Tương truyền rằng ngài từng vì cứu mẹ mà đi xuống địa ngục, vì cứu mẹ mà
làm công đức bố thí. Lễ Vu Lan Bồn mà Phật tử Bắc tông tổ chức hằng năm
vào ngày trăng tròn tháng bảy sau mùa hạ an cư của chư Tăng là để kỷ
niệm gương sáng chí hiếu ấy.
Với
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là một trong hai cánh tay đắc lực nhất của
Phật trong công việc bố giáo. Hai ngài thường thay thế Phật trong nhiều
trường hợp và dự phần quan trọng trong nền hưng thạnh của Phật giáo thời
Phật còn tại thế. Nhưng Phật giáo càng hưng thạnh thì ngoại đạo càng
căm tức ganh ghét. Đối với họ, Phật là cái đinh trước mắt cần phải nhổ
đi. Nhưng vì không hại nổi Phật, họ lập tâm hại chúng đệ tử mà người sắc
cạnh và hăng hái nhất chính là Mục Kiền Liên.
Một
hôm, Mục Kiền Liên đang đi khất thực trong thành Thất La Phiệt với hai
đệ tử là Mã Túc và Mãn Túc thì bị bọn Lõa hình ngoại đạo mai phục sẵn
xông ra đón đánh. Chỉ trang bị bằng gậy gộc mà thôi, nhưng vì chúng quá
đông vây kín ngài lại, Mã Túc và Mãn Túc không chống trả nổi, nên ngài
đã bị chúng đánh chết.
Có
sách nói bọn Lõa hình ngoại đạo này mai phục trên núi Y Tư Xa Lê, chờ
ngài đi ngang qua, ném đá xuống như mưa khiến ngài tử thương. Ngài chết
bằng cách nào, việc ấy chưa ai xác quyết rõ ràng (1), nhưng việc ngài bị
Lõa hình ngoại đạo ám hại là một sự kiện lịch sử không choấi cải. Tin
nầy khi đến tai vua A Xà Thế, khiến nhà vua rất phẫn nỗ. Ông hạ lệnh
tróc nã hung thủ ngay. Đa số trong bọn chúng là đạo sĩ Lõa hình, thảy
đều bị xử giảo bằng cách ném sống vào hầm lửa.
Nhục
thân ngài Mục Kiền Liên sau khi hỏa táng, xá lợi được Mã Túc và Mãn Túc
rước về trao lại cho Phật, như trường hợp Xá Lợi Phất sau đó. Linh cốt
hai ngài được tôn thờ và gìn giữ nguyên vẹn cho đến ngày Ấn độ bị đăït
dưới quyền thống trị của ngưới Anh trong thế kỷ 18, được người Anh mang
về trưng bày tại Bảo tàng viện Luân đôn và mới quy hoàn cho chánh phủ
Nehru sau khi Ấn độ độc lập vào năm 1947.
Khi tiếp nhận xá lợi của Mục Kiền Liên từ tay Mã Túc và Mãn Túc, Phật bảo các đệ tử:
-
Nhục thể là vô thường, nghiệp báo mới là quan trọng. Chỉ có Mục Kiền
Liên khi xả bỏ xác thân mà tâm hồn vẫn không mê. Trước cứu cánh giác
ngộ, việc sống chết không thành vấn đề. Có sanh tất có diệt. Không có gì
phải hoang mang lo sợ. Điều cần yếu là khi chết, có cái gì nắm chắc
trong tay. Cái đó Mục Kiền Liên đã có. Hơn nữa, Mục Kiền Liên vì tuyên
dương giáo pháp Như lai mà hy sinh tuẩn nạn, đó là việc phước đức tốt
lành nhất cho một tông đồ truyền giáo.
******
(1)
Lại có sách ghi: Một hôm, trên đường đi du hóa trở về, hai ngài Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên bị đồ chúng của ông Bảo Lạc Noa, thuộc phái Ni
Kiền Tử (Lõa hình), cầm gậy chận đường gây sự. Bọn này khi thấy Xá Lợi
Phất đi tới, chận lại hỏi rằng: "Trong chúng chánh mạng (họ tự xưng như
thế), có Sa môn không?" Xá Lợi Phất vốn là bậc Trí tuệ số một, đón biết ý
chúng nên trả lời rằng: "Chúng chánh mạng sa môn không, chúng Thích Ca
sa môn có, nếu A la hán còn tham ái là không có kẻ ngu si". Chúng không
hiểu, tưởng ngài khen chúng nên để ngài đi. Đến lượt ngài Mục Kiền Liên
đi tới, chúng lại hỏi câu ấy, ngài Mục Kiền Liên đáp: "Trong chúng các
ngươi làm gì có quả sa môn!" Chúng cho là nhục mạ chúng, bèn vây đánh
nhừ tử rồi bỏ đi. Ngài Xá Lợi Phất quay lại thấy bạn, mình mẫy bầm nát,
thịt rơi từng mảnh, liền lấy áo cà sa bọc đem về tịnh xá. Được hỏi tại
saongài là bậc thần thông nổi tiếng mà lại để bị như thế, ngài đáp: "Khi
nghiệp lực đến, chỉ một chữø thần còn chưa nhớ được, huống nữa là phát
thông!" Nói xong, ngài thị tịch.
******
3.- PHÚ LÂU NA (Pùrana) Thuyết pháp số 1
Pùrana tức Phú Lâu Na, còn gọi là Pùra Maitràyani putra, Tàu dịch là Mãn Từ Tử (con bà Mãn Từ)
Ngài
là bậc có tín tâm thâm hậu, thái độ uy nghi, rất có tài hùng biện, xử
dụng ngôn từ vô cùng xảo diệu, giúp Phật hết sức đắc lực trong công việc
tuyên dương chánh pháp và được bất cứ loại thính chúng nào cũng đều
nhiệt liệt hoan nghinh. Ngoài ba đức tánh cần có của một nhà đại hùng
biện nói trên, ngài lại còn hơn tất cả các đại đệ tử ở một diểm vừa căn
bản vừa đặc biệt khác nữa: ấy là tinh thần bố giáo cao độ của Ngài.
Thông
lệ của Phật là hàng năm sau ba tháng hạ an cư, Phật phân bổ chúng đệ tử
thành nhiều đoàn phụ trách bố giáo tại từng địa phương. Trong số các
giáo khu phân bổ, Phú Lâu Na chưa thấy tên nước Du Na (Suna), một vùng
biên địa rất hiểm trở, giao thông khó khăn, dân tình quen thói man rợ
bạo ngược. Đó là một xứ mà trước kia người ngoài chỉ nghe tên chứ ít ai
dám bước chân đến, vì sợ mất mạng. Phú Lâu Na đề nghị với Phật xin cho
mình đến đấy bố giáo một phen.
Phật hỏi: "Ông không sợ nguy hiểm sao?"
Phú
Lâu Na mỉm cười bạch rằng : "Vì mục đích bình đẳng độ sanh, thì tất cả
địa phương nào cũng đáng được lưu ý ngang nhau. Hơn nữa, dân tình chỗ
nào càng man rợ bao nhiêu thì lại càng phải được thừa hưởng sự giáo hóa
nhiều bấy nhiêu. Như vậy mới thật là bình đẳng. Đối với đệ tử, nguy hiểm
hay không nguy hiểm không thành vấn đề. Vấn đề là làm sao trên báo đáp
được hồng ân Phật, dưới hóa độ được chúng sanh. Vì sứ mạng thiêng liêng
cao cả ấy, thân này dù có tan xương nát thịt, tưởng cũng chưa vừa".
Phật hỏi: "Giả sử đến Du na mà bị người ta mắng nhiếc nhục mạ thì ông nghĩ sao và đối trị bằng cách nào?"
- Đệ tử nghĩ rằng như thế họ còn quá tốt, chưa phải đã hoàn toàn dã man. Vì họ chửi rủa mà không dùng gậy gộc đánh đuổi.
- Nếu họ dùng gậy gộc đánh đuổi hoặc dùng gạch ngói đá sõi ném vào người ông thì ông nghĩ sao?
- Họ cũng còn là người tốt, vì không nhẫn tâm gây thương tích cho đệ tử.
- Nếu họ gây thương tích?
- Cũng vẫn còn là người có lương tri, vì họ không nỡ giết hại đệ tử một cách oan uổng.
- Nếu họ giết ông?
Cũng
chưa phải là người xấu, vì nếu họ chấm dứt cái thân hư ảo này của đệ tử
thì đó chính là họ ban trợ đệ tử mau nhập niết bàn, đem đến cho đệ tử
một cơ hội hiếm có, được mang thân mạng này báo đáp hồng ân Phật. Việc
ấy nếu xảy ra, đệ tử không ân hận mà còn hân hoan đón nhận. Có ân hận
chăng là họ đã không được nghe chánh pháp mà thôi.
Phật cảm động, ban khen rằng:
-
Này Phú Lâu Na! Ông quả không hổ danh là một đại đệ tử chân chánh của
ta. Hạnh tu đạo, hạnh bố giáo, hạnh nhẫn nhục của ông thật là viên mãn.
Quay lại chúng đệ tử, Phật bảo:
-
Này các Tỳ kheo, muốn theo đuổi sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, nên có
tinh thần như Phú Lâu Na. Phàm làm giảng sư đi bố giáo, cần hội đủ mười
đức tánh sau đây:
(1) Thông hiểu giáo nghĩa.
(2) Nói năng lưu loát.
(3) Không e sợ trước đám đông.
(4) Có biện tài vô ngại.
(5) Vận dụng phương tiện khéo léo.
(6) Biết tùy thuận hoàn cảnh và căn cơ chúng sanh.
(7) Có đầy đủ oai nghi.
(8) Tinh tấn dõng mãnh.
(9) Có sức khỏe thể xác và tinh thần.
(10) Hội đủ oai lực.
Này
các Tỳ kheo! Tất cả các đức tánh ấy Phú Lâu Na đều có đủ. Ông là người
duy nhất trong tăng chúng hội đủ điều kiện cần thiết đến bố giáo tại Du
Na. Ta không còn e ngại gì nữa.
Quả
như lời Phật dạy, Phú Lâu Na đã thành công rực rỡ tại Du Na. Ở nước này
chưa đầy một năm, ngài đã thâu nhận vào tăng đoàn hơn măm trăm đệ tử và
kiến lập khoảng năm mươi cảnh già lam.
Từ
đó, trong tăng chúng ai ai cũng công nhận ngài là bậc Thuyết pháp số
một. Được như thế là nhờ ngài đã thành tựu được bốn pháp bồ tát:
- Đối với bất cứ giáo pháp nào chưa từng nghe, thái độ ngài luôn luôn trầm tỉnh để tư lương nghĩa lý mà không vội phê phán.
-
Không cần đa văn, vì đa văn thì dâm dục đễ khởi; không cần nhàn hạ, vì
nhàn hạ thì lạc tâm dễ sanh. Trái lại lo tu Từ quán để đoạn trứ sân
nhuế, tu Bất tịnh quán để đoạn trừ tham dục, tu Nhân duyên quán để đoạn
trừ ngu si.
-
Thấu rõ triệt để năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân
duyên để thành tựu trí vô sở đắc. Trí nầy có thành tựu mới không còn
niệm phân biệt và nhờ đó mới đủ sức tuyên dương đại pháp.
- Rộng thực hành bố thí, sâu nghiêm trì giới luật, thường dũng mãnh nhẫn nhục, tịnh tinh tấn bồ đề.
4.-TU BỒ ĐỀ (Subhùti) Giải Không số 1
Các
chi tiết về dấu tích của ngài Tu Bồ Đề không thấy ghi chép rõ như đối
với các đại đệ tử khác. Tuy nhiên, căn cứ theo truyền thuyết của kinh
sách Đại thừa thì sự tích ấy được tóm lược như sau:
Lúc
ngài mới sanh, trong gia đình hoàn toàn hiện ra những triệu chứng
"không". Các đồ vật trong nhà từ kho lẫm, thùng hôïp, lu vại v.v... thảy
đều tự nhiên trống không. Hỏi về ý nghĩa điềm lạ này thì được thầy
tướng bảo rằng đó là điềm cực lành. Nhân vì điềm "không" ấy, cha nẹ ngài
mới đăït tên cho ngài là Tu Bồ Đề nghĩa là Không sanh. Lại cũng có
nghĩa là Thiện Cát (tốt lành) hay Thiện Hiện (hiện điềm tốt).
Tương
truyền một hôm Tu Bồ Đề đang ngồi vá áo trong động Kỳ Xà trên núi Linh
Thứu thì bỗng nhiên ngài quán thấy Phật du hóa phương xa đang trên con
đường trở về. Ngài định rời động xuống núi đón Phật, nhưng lại nghĩ rằng
Phật dạy không có cái ta, cũng không có cái của ta. Đã không có cái ta
và cái của ta thì tướng các pháp vốn không tịch vắng lặng. Phật đã chứng
được thật tánh không tịch vắng lặng tuyệt đối ấy mà thực hiện tự ngã vô
ngã siêu tuyệt không hai trong nhân loại, thì không có cái gì mà không
phải là Phật, không ở đâu mà không có Phật. Vậy hà tất phải xuống núi
mới gọi là đi đón Phật. Nghĩ như thế xong, ngài bình thản ngồi tiếp tục
vá áo.
Bấy
giờ Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc nhờ đã chứng được thần thông như Mục Kiền
Liên, biết được Phật sắp về, liền xuống núi nghênh đón. Bà lấy làm tự
hào nghĩ rằng trong Thánh chúng chỉ có mình bà hay tin Phật về và đi đón
Phật trước hơn ai hết. Phật nhìn Liên Hoa Sắc mỉm cười bảo rằng:
- Trước nhà ngươi đã có Tu Bồ Đề đón ta rồi.
Liên
Hoa Sắc nghe nói giật mình, bàng hoàng không hiểu vì sao Phật dạy như
thế. Khi lên tới động, Phật họp đại chúng lại, rồi bảo riêng Tu Bồ Đề:
-
Ông có biện tài, lại thấu rõ sâu xa đạo lý chân không. Vậy ông hãy nói
cho đại chúng nghe về không lý để họ có dịp bổ túc thêm kiến thức.
Đại
chúng nghe Phật dạy đều nghĩ bụng rằng Tu Bồ Đề nói pháp này là phát
xuất từ biện tài của riêng ông, hay ông thừa thọ oai lực của Phật mà
nói?
Tu Bồ Đề soi thấu tâm lý ấy của đại chúng, bèn đón trước mà nói rằng:
-
Phật đã truyền dạy, tôi đâu dám trái mạng! Chư huynh đệ nên ý thức rằng
phàm làm sứ mạng thuyết giáo thì bất luận giáo thuyết ấy nông hay cạn,
điều cốt yếu là phải khế cơ khế lý mới mong khuyên được người đời tu
học. Mà đã khuyên được người đời tu học tức là thừa thọ uy lực của Phật
rồi. Vì sao? Vì có thừa thọ uy lực của Phật mới thông cảm được chân ý
của Phật, nhờ đó khiến chúng sanh chứng được bản tánh các pháp và tương
ưng được với thật tướng các pháp để thực hiện vô ngã. Giờ đây, thừa sắc
mạng của Phật để thuyết minh đạo lý chân không, tôi cũng chỉ nương vào
uy lực của Phật mà thôi.
Thưa
chư huynh đệ, thuyết minh đạo lý chân không tức là đặt vấn đề tương ưng
giữa pháp bồ tát và pháp không trí, nghĩa là giữa chủ thể và đối tượng.
Muốn được như thế, trước hết cần quán sát để thấu rõ pháp gì gọi là
pháp bồ tát và pháp gì gọi là pháp không trí? Quả tình tôi không thấy
pháp nào gọi là bồ tát, cũng chẳng thấy pháp nào gọi là pháp không trí
cả. Ngoài cái ngã của hai danh xưng ấy ra, thật không có gì sai khác để
phân biệt giữa hai pháp ấy. Tánh của chúng là bất khả đắc. Chủ thể và
đối tượng tuyệt đối im bặt, cho nên không tìm thấy đâu là chủ thể, đâu
là khách thể. Chủ và khách đều vắng lặng trong không tánh. Pháp tương
ưng giữa bồ tát và không trí là như thế.
- Bạch Phật! như thế đã đủ để bổ túc sở học của chúng bồ tát chưa?
Phật hoan hỷ bảo Tu Bồ Đề:
-
Hay thay! Tu Bồ Đề! Bồ tát chỉ có cái danh xưng suông là bồ tát. Không
trí cũng chỉ có cái danh suông là không trí. Cũng như vậy, bồ tát quán
không trí cũng chỉ là danh xưng suông mà thôi. Cái đó vốn không sanh
diệt, chẳng qua là để tiện việc tuyên thuyết nên mới giả lập danh xưng.
Cái giả danh ấy không ở trong, không ở ngoài, chẳng ở trung gian. Bản
lai nó vốn là cái bất khả đắc. Cũng ví như nói ngã. Ngã chỉ là giả danh.
Bản thể của ngã vốn bất sanh bất diệt. Để chứng cái bất sanh bất diệt
ấy, cần phải tu học các giả pháp về bồ tát. Và thuyết minh giả danh và
giả pháp không trí, tức như nương vào bóng trăng giả dưới nước để tìm
bắt mặt trăng thật trên không. Trong việc nương giả để bắt thật, điều
quan yếu là đừng chấp trước dính mắc vào đâu hết. Nếu có chấp trước dính
mắc, thì không bao giờ đạt được giải thoát.
Trong
số đệ tử Phật, chỉ một mình Tu Bồ Đề là có nhận thức sâu sắc về không
tánh của các pháp, vì ngài thật chứng không trí và hiểu rốt ráo không
lý, cho nên được tôn xưng là bậc Giải Không số một.
Không
trí và không lý này, hơn sáu trăm năm về sau, được Bồ tát Long Thọ
triển khai thành giáo nghĩa Bát Nhã với luận lý Bát Bất mà tái lập Trung
đạo và xây dựng thế giới quan chơn không diệu hữu của Phật giáo Đại
thừa.
5.- CA CHIÊN DIÊN (Kàtyàyana) Luận Nghị số 1
Ngài Ca Chiên Diên có biệt tài dùng lời nói rất đơn giản khiến những ai vấn nạn ngài đều phải thần phục.
Một hôm đang đi hành hóa, ngài gặp một Bà la môn chận lại cật vấn rằng:
- Tôi có điều nghi hoặc này tự mình không giải đáp được, mong ngài giải trừ cho.
- Thử xem.
- Tôi thấy trên đời này, Sát đế lỵ tương tranh với Sát đế lỵ, Bà la môn tương tranh với Bà la môn. Như thế là vì nguyên nhân gì?
- Vì tham dục mê hoặc.
- Thế thì Sa môn với Sa môn tương tranh là vì nguyên nhân gì?
- Vì bị ngã kiến chấp trước.
- Thế thì trên thế gian này còn ai là người không bị tham dục mê hoặc và ngã kiến chấp trước để nương theo?
- Phật.
Lại một hôm, Ca Chiên Diên gặp một Bà la môn khác vặn hỏi:
-
Tôi nghe đồn ông vốn là Bà la môn xé rào qua theo Phật làm Sa môn,
nhưng mỗi khi gặp lại những bậc trưởng lão Bà la môn cũ, ông không chịu
đứng dậy nghinh tiếp, cũng không chịu ngồi chung chiếu với họ. Nếu đúng
như lời đồn đãi, tôi tưởng rằng ông không thực hành đúng chánh pháp
chăng?
-
Lời đồn quả tình đúng sự thật. Việc không chịu lễ bái một số trưởng lão
Bà la môn lại cũng rất đúng chánh pháp. Tôi theo Phật và nhờ Phật, hiện
tôi có chứng đắc một cái mà người ta gọi là thánh quả. Trên đường tu
chứng đạo đức, ông không nên nói đến niên xĩ cao thấp. Bà la môn già tám
chín chục tuổi, nếu còn đam mê ái dục, giam hãm mình trong tà kiến tham
sân thì có ích gì cho ai. Đức hạnh không lấy tuổi đời mà đo, phải căn
cứ vào tuổi đạo mà xét.
Một
hôm khác, trong khi đang du hóa tại nước A bàn đề, Ca Chiên Diên gặp
một người đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non bên bờ sông. Thấy cảnh
thương tâm, Ca Chiên Diên lại gần hỏi:
- Vì sao khóc thảm não thế? Có thể cho biết lý do để thử xem có giúp ích được gì cho bà chăng?
-
Trên đời nầy thật là tối bất công! Bà già nói. Kẻ giàu thì giàu nức đố
đổ vách, ngựa xe ngất ngưỡng; trái lại, người nghèo thì nghèo rớt mồng
tơi, cất đầu không lên. Tôi là một kẻ cùng khổ, chẳng may sanh ra trong
một gia đình nô lệ nghèo mạt rệp, từ khi sanh ra, liên miên chịu khổ nọ
đến khổ kia, đến nay thì không còn sức để chịu đựng được nữa. Tôi muốn
chết quá, nhưng nói với ông cũng vô ích. Ông là một Sa môn nghèo làm sao
giúp được tôi?
-
Cần gì khóc lóc! Ca Chiên Diên đáp lại. Trên đời này thiếu gì người
nghèo khổ, đâu phải riêng mình bà. Nghèo thì khổ đã đành, nhưng chắc gì
giàu đã sướng. Thiếu gì người giàu còn khổ gấp mấy người nghèo, vì tham
dục hành hạ. Hạnh phúc không phải tại chỗ giàu nghèo. Hạnh phúc chỉ ở
chỗ biết tiết chế ham muốn và biết tự bằng lòng với những gì mình có.
Người đàn bà khóc thét lên:
-
Ông nói như thế được, vì ông là Sa môn xuất gia. Sinh hoạt của chúng
tôi ở thế gian này khác hẳn. Chỉ có người giàu sang mới muốn sao được
vậy, còn bần cùng như hạng chúng tôi thì đâu có dễ dàng và giản dị như
lời ông nói. Hiện tôi là một nô tỳ cho một đại phú ông, cùng năm mãn đời
cơm không đủ no, áo không đủ ấm, thế mà vẫn phải phục dịch khổ sở từ
sáng đến khuya, ngày nào cũng như ngày nấy cất mặt không nổi, lại còn bị
chửi bới đánh đập không nương tay, cầu sống không xong, muốn chết chẳng
được. Bao nhiêu thống khổ triền miên ấy, nguyên do chỉ vì bần cùng mà
sanh ra. Hỏi làm sao không khóc nghèo được?
- Đã như thế thì hãy bán nghèo đi!
- Nghèo mà cũng bán được à? Ai điên gì đi mua cái của nợ đó.
- Tôi mua cho, nhưng bà có bằng lòng bán không?
- Thôi ông đừng đùa.
-
Tôi đâu có đùa. Trên đời này, nghèo có thể bán được. Nhưng chỉ vì không
biết phuơng pháp bán, nên suốt đời người ta mới chịu khổ sở. Người ta
bán nghèo bằng cách bố thí. Bà nên biết rằng trên thế gian này, mọi việc
đều có nguyên nhân. Giàu nghèo cũng nằm trong qui luật đó. Sở dĩ kiếp
này nghèo là vì kiếp xưa xan tham keo lẫn. Sở dĩ kiếp này giàu có là vì
kiếp xưa từng tu phước đức bố thí. Vì vậy, bố thí và phước đức là phương
pháp bán nghèo duy nhất.
- Nhưng tôi có gì để bố thí cho ông đâu?
- Hiện bà có vò nước. Bà hãy xuống sông múc một ít nước lên bố thí cho tôi, để tôi mua nghèo cho.
Người đàn bà nghe xong, liền tỉnh ngộ. Từ đó, thường hành hạnh bố thí, biết thiểu dục tri túc, sống một cuộc đời vui vẻ hơn xưa.
Trong
suốt một đời hành hóa, ngài Ca Chiên Diên nhờ tài nghị luận xảo diệu,
đã cảm hóa được rất nhiều người, khiến họ tỉnh ngộ trở về với Tam bảo,
sống cuộc đời thanh thản an vui.
6.- MA HA CA DIẾP (Maha Kasyapa) Đầu Đà số 1
Ma Ha Ca Diếp biết Phật nhân lúc phong trào dâng y rầm rộ do ngự y Kỳ Bà khởi xướng.
Đệ
tử Phật có nhiều vị cùng mang tên Ca Diếp, nên để phân biệt với các vị
kia, kinh thường gọi vị đại đệ tử này là Ma Ha Ca Diếp hay Đại Ca Diếp
(MaHa là lớn). Cũng nên biết thêm rằng theo Bắc tông thì sau khi Phật
nhập diệt, Ma Ha Ca Diếp là sơ tổ, theo Nam tông thì chính Ưu Bà Ly mới
là sơ tổ. Nêu hai sử liệu khác nhau trên đây là để người sau rộng đường
tra cứu chính xác hơn.
Như
đã nói trong một đoạn trước, Ma Ha Ca Diếp là người thôn Sa La Đà, nước
Ma Kiệt Đà, không xa thành Vương Xá. Trước khi chưa xuất gia, ngài là
một vị đại phú hào giàu địch quốc, thuộc dòng họ Bà la môn, học rộng tài
cao, thông minh quán chúng, từng nổi tiếng về hạnh thanh tịnh, tuy có
vợ nhưng không ngủ chung giường. Kịp khi gặp Phật, ngài cho phân tán tài
sản, thanh toán việc gia đình đâu vào đấy, rồi mang bình bát theo Phật
học đạo. Sở nguyện của ngài là tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh). Hạnh này
ngài khư khư giữ chặt cho đến hơi thở cuối cùng, ai lay cũng không
chuyển.
Nếu Phật là người bán sang mua hèn thì Ca Diếp là người bán giàu mua nghèo.
Tu theo hạnh đầu đà, cần phải giữ đúng mười điều sau đây:
(1) Chọn vùng hoang vắng để ở.
(2) Sinh hoạt bằng phép trì bình.
(3) Thường ở tại một nơi.
(4) Ngày ăn một bửa.
(5) Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
(6) Không có tài sản nào khác ngoài ba y, một bình bát và một ngọa cụ.
(7) Tư duy dưới gốc cây.
(8) Thường ngồi giữa đồng trống.
(9) Mặc áo phấn tảo.
(10) Sống tại các bãi tha ma.
Sanh
hoạt theo hạnh đầu đà là một lối sanh hoạt cực kỳ đơn giản nhằm mục
đích tịnh hóa tâm hồn, rất thích hợp với những ai thích tu phạm hạnh như
Ca Diếp.
Sự
tích ghi chép rằng: Một hôm Ca Diếp hành hóa trong thành Vương Xá, thấy
một bà già ăn mày ốm yếu nằm rên rỉ bên vệ đuờng. Ngài đến gần hỏi
rằng:
-
Này lão bà! Nhìn tình cảnh lão bà, tôi rất lấy làm đau xót. Theo tôi
nghĩ, sở dĩ có tình cảnh như thế này là vì kiếp trước lão bà quá keo lẫn
không chịu bỏ đồng xu nào bố thí cho ai. Tôi đây là đệ tử của Phật, là
ruộng phước của nhân gian. Rất mong lão bà bố thí cho tôi chút đỉnh thức
ăn, tôi xin nhường lại lão bà tất cả các món phước điền của tôi để kiếp
sau lão bà thoát khỏi cảnh khốn cùng này.
-
Bạch tôn giả, bà già khóc đáp. Tôi rất cảm thông tấm lòng ưu ái của tôn
giả vì muốn cứu tôi nên mới xin tôi thức ăn. Nhưng xin thú thật với tôn
giả rằng từ ba hôm nay, tôi vẫn chưa hề có hột cơm nào trong bụng. Hiện
tôi chỉ có chút ít nước mả đã nặng mùi của người ta đem đổ mà tôi dành
lại được. Chả lẽ đem nước mả heo chê ấy cúng dường tôn giả?
-
Có quan hệ gì đâu! Ca Diếp đáp. Tôi đây chính là Đại Ca Diếp bán giàu
mua nghèo này. Vì mục đích mua nghèo, tôi rất sung sướng được tiếp thọ
sự cúng dường của lão bà.
Bà già cảm động, hai tay run run dâng lên bình nước mả. Ca Diếp đón lấy và uống ngay trước mặt bà lão.
Ca
Diếp chuyên lo việc khuyến thiện và nhiếp phục người bằng những hành vi
ưu ái thực tế. Không một hành vi nhỏ nhặt nào của ngài mà không thể
hiện lòng từ bi rộng lớn và không nhằm xoa dịu đau khổ cho thế gian. Vì
vậy ngài đến đâu là được quần chúng ở đấy kính mến tôn trọng. Xung quanh
thân ngài như có hào quang rực chiếu, thu hút hết mọi ánh sáng khác,
cho nên tên ngài còn được gọi là Ẩm Quang (uống ánh sáng).
Quá
chú trọng đến hoạt động cứu độ tích cực và thiết thực, ngài lại rất ít
quan tâm đến việc hoằng pháp, ngược hẳn với hai ngài Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên. Lúc hai ngài này chưa niết bàn, hai ngài thường khuyến khích
Ca Diếp tham gia vào phong trào vận động văn hóa chung của Phật bằng
hình thức thuyết pháp. Ca Diếp từ chối và kiên định lập trường của mình
một cách dứt khoát:
-
Công việc hoằng pháp, xin nhường lại chư huynh đệ tài cao. Tôi chỉ chú
trọng đến những vấn đề thực tế và chỉ trong mong làm sao cho thế gian
trong hiện tại cũng như trong tương lai biết sống một đời thiểu dục tri
túc là mãn nguyện lắm rồi.
Vì
lập hạnh như thế, nên quanh năm suốt tháng, đêm cũng như ngày, mưa cũng
như nắng, Ca Diếp chỉ thích sống trong rừng sâu, ngồi tư duy dưới bóng
cây, hoặc quan sát xương trắng ở các bãi tha ma, bất quản nắng lửa mưa
dầu, chẳng ngại hùm beo rắn rết, coi thường gió giật sấm rền. Mặc ai
khuyên can, ngài vẫn khư khư giữ chí không chuyển, lòng không sờn.
Cho
đến khi tuổi đã cao, sức đã mỏn mà ngài vẫn nhất mực giữ lối sinh hoạt
ấy. Phật thấy không đành lòng, bèn dỗ dành ngài nên về trường trú tại
tịnh xá Kỳ Viên, thì ngài bạch rằng:
-
Bạch Phật! Đệ tử rất cảm động được Phật từ mẫn ưu ái chăm sóc, nhưng đệ
tử tự xét rằng từ mạng của Phật không thể không vâng, nhưng bản nguyện
của đệ tử cũng không thể không theo. Nếu vâng theo từ mạng của Phật trở
về trường trú tại đây thì không thể nào theo nếp sống của toàn thể. Mà
nếu theo nếp sống chung thì hạnh đầu đà của đệ tử đành phải dứt ngang. Ở
đây, cảnh trí hoàn toàn tươi vui, gió mát trăng trong, chim hót hoa
cười, mỗi ngọ ăn xong là kinh hành, nghe pháp hoăïc nhập định tham
thiền, mũi không được tiếp xúc với mùi xú uế của thây ma, mắt không được
trông thấy một mảnh xương trắng nhỏ, thì e rằng khó tu các pháp quán vô
thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh. Đệ tử chỉ thấy thân tâm hoàn toàn
an lạc khi được ngồi ở giữa bãi tha ma, hoặc nơi đồng trống, hoặc dưới
bóng cây. Mình mặc áo vá, miệng niệm kinh mà quán thây ma, bụng đói thì
tùy ý khất thực, chân tự do ra vô cửa thành, không phiền lụy ai mà cũng
chẳng ai phiền lụy mình. Mệt không đi được thì no lòng với củ cây trái
rừng, không bận lòng vì cơm áo, không quan tâm đến đắc thất, đó là sở
nguyện của đệ tử. Xin Phật từ bi doãn nạp cho.
Bạch
Phật! Đệ tử trộm nghĩ công việc độ sanh có nhiều phương diện, phải tùy
tánh tình và khả năng riêng mà phân nhiệm để phụ trách. Quí hồ là ai
trong nhiệm vụ nấy phải làm tròn. Công việc thay Phật phổ biến chánh
pháp, đệ tử xin không dám nghĩ đến, vì đã có chư huynh Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên và nhiều huynh đệ tài hoa khác phụ
trách. Đệ tử chỉ xin được trọn nguyện nghiêm túc sanh hoạt tăng đoàn,
gây được tập quán cho các thế hệ về sau quen với nếp sống nhẫn nại,
không ham tiếng khen, không cầu lợi dưỡng, nhất tâm nhất đức, sống vì
chánh pháp, sống cho chúng sanh. Người ta có thể chê rằng sống như thế
là sống cho riêng mình nhiều hơn. Nhưng nếu chính mình không giải thoát
thì làm sao giải thoát được chúng sanh? Vì vậy, theo đệ tử nghĩ tu hạnh
đầu đà là trực tiếp củng cố tăng đoàn và gián tiếp lợi lạc quần sanh.
Thành khẩn yêu cầu Phật cho Ca Diếp này được giữ sự cố chấp ấy.
Nghe xong, Phật cảm động hướng về đại chúng bảo rằng:
-
Các ông đã nghe rõ những lời thành khẩn của trưởng lão Ca Diếp chưa?
Những lời ấy xuất phát tự đáy lòng của một đại đệ tử thật tâm lo âu cho
tiền đồ chánh pháp. Trong tương lai, nếu chánh pháp bị hủy diệt, thì đó
không phải do sự phá hoại của thiên ma ngoại đạo hay của thế lực cường
quyền, mà chính là tại tăng đoàn hủ hóa băng hoại. Muốn chánh pháp
trường tồn với thế gian, việc quan trọng bậc nhất là phải củng cố tăng
đoàn. Muốn củng cố tăng đoàn, phải nghiêm túc sanh hoạt. Chánh pháp của
ta nếu được hạng người như trưởng lão Ca Diếp thừa kế phụ trách thì mới
chủ trì lâu dài được.
7.- A NA LUẬT (Anirudha) Thiên Nhãn số 1
A
Na Luật là em ruột của Ma Ha Nam, con thứ của Cam Lộ Phạn Vương, cùng
xuất gia một lần trong nhóm bảy vương tử khi Phật về thăm quê lần đầu
tiên.
Trước
khi chưa xuất gia, A Na Luật được nhiều thiếu nữ vương tộc yêu mến say
mê vì vóc dáng anh dũng, diện mạo khôi ngô. Nhưng A Na Luật bản tánh vốn
đoan chính nên chưa hề bị sắc đẹp làm giao động thân tâm.
Sau
khi xuất gia, một hôm đang du hóa đi lỡ độ đường, gặp lúc trời mưa đêm
tối, mà trong vùng tuyệt nhiên không có cảnh già lam nào để tạm trú. A
Na Luật đành đến gõ cửa một nhà thường dân xin ngủ nhờ một đêm. Thiếu nữ
trong nhà ra mở cửa, thoạt nhìn thấy A Na Luật thì lòng vô cùng hoan
hỷ, vội vàng tiếp đón vào. Trong nhà hiu quạnh vắng vẻ, ngoài thiếu nữ
là chủ nhà, khôn còn ai khác. Gặp thế kẹt, A Na Luật bèn ngồi kiết già,
nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng đợi trời sáng.
Nửa
đêm thiếu nữ mò đến gạ chuyện, nói xa nói gần, buông lời cợt nhả. Thấy A
Na Luật làm thinh, thiếu nữ bèn kể lể nỗi niềm tâm sự của mình, nào là
có trưởng giả nọ cầu hôn, nào là có Bà la môn kia ngấp nghé, nhưng nàng
đều cự tuyệt. Nay gặp được A Na Luật là người dung mạo tú lệ, xứng đôi
vừa lứa, nàng muốn kết nghĩa trăm năm, và yêu cầu A Na Luật ở lại với
nàng đừng đi đâu nữa. Nàng thì khẩn khoản van lơn, A Na Luật thì hai mắt
nhắm riết, cố giữ nhất tâm bất động. Cuối cùng tưởng chừng cá đã ăn
câu, nàng dở trò dâm loạn, đưa tay mân mê sờ mó, bị A Na Luật cự tuyệt
dữ dội. Thấy nàng quá xấu hổ, A Na Luật bèn dịu giọng tìm lời khuyên
bảo, đưa nàng về đường ngay nẻo thẳng. Sau đó vì cảm mến đức đoan chánh
dịu dàng của A Na Luật, nàng xin quy y làm đệ tử.
Trong
tăng chúng cũng như ngoài nhân gian, A Na Luật nổi tiếng là bậc tu hành
rất mực thanh tịnh, không bao giờ bị nữ sắc cám dỗ, vì vậy được mọi
người kính ngưỡng. Duy có một tật nhỏ, A Na Luật dù đã cố gắng nhiều
nhưng chưa hề thành công, đó là tật ưa ngủ gục mỗi khi ngồi nghe Phật
thuyết pháp. Vì tật này, A Na Luật đã từng bị Phật quở trách đôi ba
phen.
Một hôm, Phật gọi A Na Luật đến bên mình, bảo rằng:
- Này A Na Luật! Ông xuất gia học đạo là vì sợ phép nước hay sợ trộm cướp?
- Thưa, không phải như vậy.
- Thế lý do gì ông đi xuất gia?
- Vì chán sanh tử và mong muốn giải thoát.
- Muốn giải thoát mà ngủ gục trong khi nghe pháp thì biết đến bao giờ mới thành tựu?
A Na Luật liền quỳ xuống, phát lời thề độc rằng:
-Bạch
Phật! Từ rày sắp sau, đệ tử sẳn sàng chịu mọi cực hình miễn sao diệt
trừ được tật ngủ gục. Xin Phật từ bi lượng thứ cho lần cuối cùng này.
Từ
đó, A Na Luật lập hạnh "không ngủ", từ đầu hôm cho đến suốt sáng, từ
tảng rạng đến chiều đêm, A Na Luật ngồi mở to đôi mắt, trân tráo nhìn
vào khoảng không, không chớp mắt. Ngồi chong như thế hết ngày nọ sang
ngày kia cho đến một hôm hai mắt sưng vù.
Phật thấy thế lấy làm lo ngại, bèn dạy rằng:
-
Này A Na Luật! trong việc tu hành, bất cập cố nhiên không bao giờ đạt
đạo, nhưng ngược lại, thái quá cũng chẳng đi đến đâu. Ông không nên tiếp
tục cái hạnh quái gở ấy nữa.
- Bạch Phật! đệ tử đã phát nguyện xin Phật cho đệ tử được giữ tròn.
-
Nhưng con mắt là cơ quan cần yếu, không nên hành hạ nó. Nó mà hỏng đi
thì cả đại sự giải thoát cũng hỏng luôn. Phàm tất cả chúng sanh ai ai
cũng cần ăn mới sống. Không ăn thì chết. Mà thức ăn của con mắt chính là
giấc ngủ. Ông bỏ ngủ tức là ông không cho con mắt ăn. Nó chết đi, ông
làm sao lần bước tiến tới Niết bàn được. Ông nên biết rằng niết bàn cũng
cần thức ăn.
- Niết bàn cũng cần thức ăn nữa à?
-
Vâng, thức ăn "Bất phóng dật" tức là không buông lung mới đến được niết
bàn. Và trước khi đến đó, con mắt cần phải ăn, ức là cần phải ngủ.
Mặc
dù Phật từ mẫn khuyên bảo như thế, nhưng A Na Luật vẫn khăng khăng
không chịu nghe, cứ tiếp tục hành hạ đôi mắt. Chẳng bao lâu hai mắt mù
tịt. Chứng kiến cảnh mù lòa của A Na Luật, Phật thương xót lắm, tìm đủ
cách chửa trị.
Một hôm A Na Luật đang ngồi nghĩ cách may áo, nhưng chưa biết tìm ai giúp đỡ mình. Phật đoán biết ý nghĩ, bèn nói:
- Để ta xâu chỉ giúp cho.
A
Na Luật giựt mình không biết vì sao Phật đọc được ý nghĩ thầm kín của
mình. Phật lấy kim xâu chỉ xong, tự mình đem trao tận tay cho A Na Luật.
A Na Luật đang loay quay chưa biết tính sao, Phật liền bảo:
- Để ta giúp cho.
Suốt
một ngày Phật cầm tay A Na Luật chỉ cách đưa mũi kim lên xuống, và đến
tối thì may xong ba áo. Trong khi cầm tay A Na Luật cùng may, Phật dạy A
Na Luật phương pháp tu định để khiến mắt sáng ra. Vốn tin Phật một cách
tuyệt đối và triệt để thực hành, không bao lâu A Na Luật sáng mắt trở
lại và chứng được thiên nhãn thông. Bất luận xa gần trong ngoài, mắt A
Na Luật đều thấy suốt. Trong hàng đệ tử Phật, ngài là bậc Thiên nhãn số
một.
Sau khi đạt được thiên nhãn, A Na Luật vô cùng cảm kích, bèn đến trước mặt Phật bạch rằng:
-
Đệ tử thường nghĩ rằng với người tu đạo thiểu dục tri túc, dũng mãnh
tinh tấn là những điều kiện ắt có; dẹp bỏ tiểu ngã để phục vụ nhân sanh
là trách nhiệm thường hằng. Nhưng cuối cùng để đi đến niết bàn và hoàn
thành giác ngộ thì phải làm những gì, xin Phật từ bi khai ngộ.
-
Hay thay! Hay thay! Phật đáp. Câu hỏi thật là đúng lúc. Vấn đề ông nêu
ra quả là quan trọng mà bất cứ một đại nhân nào cũng cần phải biết. Vấn
đề đó gồm trong chương trình tám điểm sau đây:
(1)
Nên biết rằng: thế gian vô thường, hoàn cảnh mong manh, bốn đại khổ
không, năm ấm vô ngã; rằng hết thảy đều sanh diệt đổi dời, luống dối
không thật; rằng tâm là nguồn gốc tội ác, thân là môi trường kích động.
Quán sát như vậy thì dần dần lìa được sanh tử.
(2)
Nên biết rằng: đa dục là nguồn gốc của đau khổ, là đầu mối của sanh tử;
rằng chỉ có thiểu dục vô vi mới khiến được thân tâm tự tại.
(3)
Nên biết rằng: lòng tham không đáy, càng thỏa mãn thì càng mong cầu và
càng tăng trưởng tội ác; rằng bồ tát ngược lại thường nhớ điều tri túc,
vui đạo quên nghèo, chăm lo xây dựng sự nghiệp trí huệ.
(4)
Nên biết rằng: lười nhác trụy lạc là điều đáng tủi hổ, vì vậy cần luôn
luôn tinh tấn phá trừ phiền não, hàng phục bốn ma để mau ra khỏi tù ngục
của ấm giới giam hãm.
(5)
Nên biết rằng: ngu si là đầu mối của sanh tử, vì vậy bồ tát chăm lo học
rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí huệ để sớm thành tựu biện tài mà tìm
niềm vui trong việc giáo hóa chúng sanh.
(6)
Nên biết rằng: nghèo khổ hay sanh lòng oán hận gây thêm duyên dữ; rằng
bồ tát thì không nhớ oán xưa, không ghét người ác, oan thân thảy đều
bình đẳng.
(7)
Nên biết rằng: dục lạc là cội nguồn họa hoạn, vì vậy dù còn ở thế,
nhưng tâm không nên say đắm dục tình, nên hướng tâm về chí nguyện xuất
gia giữ đạo thanh bạch, cầu hạnh thanh tịnh, lấy từ bi nhuầm thấm tất cả
mọi loài.
(8)
Nên biết rằng: lửa dữ sanh tử ngày đêm đốt thiêu, biển khổ không bờ,
cần phát tâm độ khắp chúng sanh, thay thế tất cả chúng sanh chịu vô
lượng đau khổ, khiến thảy đều được an vui.
Này
A Na Luật! Tám việc trên đây từng được chư Phật khai thị. Người tu học
đạo giác ngộ cần vận dụng tâm từ bi rộng lớn làm căn bản cho việc tu
phước và huệ, thành tựu cứu cánh niết bàn an lạc.
8.-ƯU BÀ LI (Upàli) Trì Giới số 1
Ưu Bà Ly vốn thuộc giai cấp Thủ Đà La, xuất thân làm nghề thợ cạo tóc, hầu hạ trong vương cung, dưới trướng của vương tử Bạt Đề.
Ngày
Phật về thăm Ca Tỳ La lần đầu tiên và chấp nhận cho các vương tử xuất
gia, Ưu Bà Ly tủi hổ cho thân phận mình sanh ra trong chốn hạ tiện, ở
thế gian làm thân nô lệ đã đành, muốn lìa thế gian đi tu cũng không được
phép. Hờn thân tủi phận, Ưu Bà Ly ngồi giọt dài giọt vắn, nước mắt trào
tuôn. Chợt có Xá Lợi Phất đi ngang qua trông thấy, hỏi rõ nguyên nhân,
bèn an ủi rằng:
-
Này Ưu Bà Ly! Ông đừng có ngại, giáo pháp Phật không phân biệt kẻ trí
người ngu, kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, hoặc giai cấp trên
dưới. Giáo pháp ấy mênh mông như biển cả, khoáng đạt như hư không. Biển
cả bao dung hết thảy trăm sông, hư không trùm chứa tất cả vạn loại. Cũng
vậy, từ bi của Phật dung chứa mọi loài hữu tình, bất luận quý tiện,
miễn có lòng tin thuận quy ngưỡng. Nên biết từ bi là mạch sống của nhân
sanh, là hơi thở của vạn hữu, là trái tim của đạo pháp. Không từ bi thì
không có gì tồn tại được. Có từ bi thì trăm việc đều thành. Muốn trưởng
dưỡng từ bi thì việc giữ giới là yếu tố then chốt. Tôi xin đưa ông đến
yết kiến Phật và tin chắc rằng Phật sẽ hoan hỉ đón nhận ông. Ông khỏi
lo!
Quả nhiên như lời Xá Lợi Phất nói, khi Phật gặp Ưu Bà Ly, ngài vô cùng hoan hỷ, âu yếm nhìn Ưu Bà Ly bảo rằng:
-
Này Ưu Bà Ly! Thoạt thấy ông, ta biết căn khí ông không nhỏ. Trải qua
nhiều kiếp, ông đã từng ra công tu luyện và từng giữ giới rất tinh
nghiêm. Tương lai trong giáo đoàn ta, ông sẽ là bậc Trì Giới số một. Hay
lắm! Hay lắm! Ta phải làm lễ thế phát cho ông ngay bây giờ. Lễ thế phát
của các vương tử sẽ cử hành sau, để cho họ có ngày giờ lãng quên thân
phận vương công của họ.
Sử
liệu cũng ghi rằng tuy Ưu Bà Ly và các vương tử xuất gia cùng ngày,
nhưng lễ xuất gia của các vương tử chỉ được chính thức cử hành sau khi
Phật đã thu nhận Ưu Bà Ly. Không những thế, trong ngày Bạt Đề chính thức
gia nhập tăng đoàn, Phật bảo Bạt Đề phải đảnh lễ Ưu Bà Ly vì tuổi đời
của Ưu Bà Ly lớn hơn. Dụng ý của Phật trong việc này cốt thể hiện tinh thần bình đẳng của giáo pháp mình, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp xã hội.
Đây
là người nô lệ Thủ đà la đầu tiên được Phật thâu nhận. Đây cũng là
người nô lệ Thủ đà la đầu tiên tham dự vào hoạt động tôn giáo trong lịch
sữ văn minh Ấn độ.
Theo sử liêïu Bắc truyền, sau khi Phật diệt độ, trong cuộc kiết tập
kinh
điển lần đầu tiên dưới quyền chủ tọa của Ma Ha Ca Diếp, chính Ưu Bà Ly
là vị trưởng lão tụng đọc tám mươi lần các giới luật Phật chế cho đại
chúng nghe, kết thành bộ Bát Thập Tụng Luật là quyển luật căn bản đầu
tiên của Phật giáo.
Theo
sử liệu Nam truyền, không những Ưu Bà Ly kết tập Tạng Luật, ngài còn là
vị sơ tổ kế tiếp Phật lãnh đạo tăng đoàn, chứ không phải Ca Diếp như
truyền thống Bắc tông. Sự kiện này tưởng đáng cho ta suy xét, phải chăng
vì Nam tông chú trọng hành trì giới luật nên tôn Ưu Bà Ly lên hàng đầu,
còn Bắc tông chú trọng lý tưởng giác ngộ nên tôn Ca Diếp lên hàng đầu.
Xét kỹ thì bên nào cũng có sở cứ vững vàng. Và chính đây là đầu mối phân
rẽ giữa Nam và Bắc tông.
9.- A NAN ĐÀ (Ananda) Đa văn số 1
A Nan Đà hay A Nan là con thứ của Bạch Phạn Vương, em ruột của Đề Bà Đạt Đa, tức em con chú của Phật.
A
Nan sanh trong đêm Phạt thành đạo, nên còn có tên là Khánh Hỷ, tuổi so
với La Hầu La còn trẻ hơn nữa, nhưng tình nguyện theo chân Phật thuộc
nhóm bảy vương tử trong ngày Phật về thăm quê lần đầu tiên. Trong tăng
đoàn, ngài là người đẹp trai nhất và thông minh nhất. Ngược hẳn với Chu
Lỵ Bàn Đà Già học một câu kệ ba tháng không thuộc, An Nan lại nghe một
biết mười, nghe nhiều hơn bất cứ ai trong chúng, vì ngài là thị giả
Phật, không một hội thuyết pháp nào mà không có ngài dự. Thế mà oái oăm
thay, chính Chu Lỵ Bàn Đà Già lại chứng quả trước A Nan ngay khi Phật
còn tại thế. Còn A Nan mãi đến khi Phật nhập diệt đã ba tháng mới chứng
quả, tức là một hôm trước ngày đại hội kiết tập lần thứ nhất.
Theo
Phật cho đến khi chính thức thọ giới Tỳ kheo, A Nan được tăng chúng đề
nghị cho làm thị giả hầu cận Phật. E ngại sự tỵ hiềm có thể xảy ra vì
việc này, A Nan đề xướng năm khoản thỉnh nguyện, yêu cầu Mục Kiền Liên
chuyển trình lên Phật trước khi đảm nhận trách nhiệm:
(1) Nhất thiết không mặc áo Phật cho, dù mới hay cũ.
(2) Không bao giờ đi trước mỗi khi có thí chủ thỉnh Phật về nhà riêng cúng dường.
(3) Được ra ngoài hay đi chỗ khác trong khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu sự hiện diện của thị giả không cần thiết.
(4) Không ăn đồ thừa của Phật.
(5) Được tùy tiện sắp xếp hoặc cho hay không cho, mỗi khi có khách muốn đến yết kiến Phật.
Năm
khoản ấy sau khi trình lên Phật, được chấp nhận ngay, Phật biết ý A Nan
muốn tránh tỵ hiềm trong tăng chúng và muốn tránh không nghe những mẫu
giáo lý chưa hoàn bị mà vì cơ duyên, Phật cần nói riêng với một số tín
chúng chưa thuần thục.
Vì
A Nan rất đẹp trai, tánh lại rất hoan hỷ đối với phụ nữ, nên được tất
cả nữ giới kính mến ưa chuộng. Ngày Ma ha Ba Xà Ba Đề và năm trăm cung
nữ đến xin Phật xuất gia, bà hết sức năn nỉ với chúng tăng nhờ trình lên
với Phật, nhưng không một ai chịu chuyển trình. Riêng A Nan hoan hỷ
nhận lời ngay. Lại một hôm, cùng đi du hóa trong đoàn của Ma Ha Ca Diếp,
ngang qua một lan nhã của Tỳ kheo ni, nhóm này vừa trông thấy ùa ra đón
rước. Mặc dù Ca Diếp là vị trưởng lão niên xĩ đạo cao lạp trưởng, thế
mà họ chỉ vây quanh A Nan để hỏi đạo, rồi sau mới quay sang bái vấn Ca
Diếp. Một hôm khác, nhân có việc đi một mình gặp một cô gái nô lệ tên
Bát Cát Đế (Praksti hay Pakati) trong dòng họ Ma đăng già (Matànga). A
Nan bị cô gái này yêu say mê mệt, quyết cướp cho được làm chồng, may nhờ
Phật phương tiện tìm cách giải cứu mới thoát khỏi.
Từ
khi A Nan bị nạn Ma đăng già, Phật không cho ngài xuất ngoại một mình.
Phật đi đâu luôn luôn có A Nan đi theo. Vì vậy trong các hội thuyết pháp
luôn luôn có mặt A Nan. Pháp Phật như biển cả, nước biển ấy hoàn toàn
chảy hết vào tâm A Nan, không sót một giọt.
Một
hôm trên đường du hóa, nhân trời nắng gắt, Phật ngồi nghỉ dưới bóng
cây, bảo A Nan mang bình ra sông lấy nước về uống. A Nan mang bình không
về, trình rằng nước sông quá đục không dùng được, vì trên mạn thượng
lưu cách đó không xa, có nhiều ngựa voi lội qua, quậy nước đục ngầu.
Phật truyền cứ múc nước lên uống, A Nan đành trở lui xuống sông thì ngạc
nhiên biết bao, nước sông trở lại trong vắt như mắt mèo. A Nan hỏi
duyên cớ, Phật mỉm cười không nói.
Khi
Phật về già, một hômA Nan nằm mộng thấy bảy việc kỳ quái, lòng rất
hoang mang lo sợ, sáng dậy trình lại Phật biết để thỉnh ý kiến. Bảy sự
việc ấy như sau:
(1) Lửa dữ rực cháy, thiêu đốt khắp biển lớn nhỏ và sông hồ ngòi lạch.
(2) Mặt trời rơi rụng, thế giới tối tăm, A Nan vươn lên đầu cao ngang núi Tu di.
(3) Tỳ kheo bỏ giới luật, treo áo cà sa.
(4) Tỳ kheo pháp y tơi tả, lận đận khốn cùng trong lao lý chông gai.
(5) Heo rừng từng đoàn kéo đến bới gốc rễ cây chiên đàn to lớn xanh um.
(6)
Voi con không nghe lời voi mẹ, tung tăng rong chơi khắp xứ, lạc bước
vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói chết khát ngổn ngang.
(7)
Sư tử chết, các loài phi trùng, điểu thú không dám lại gần, dòi bọ từ
trong ruột sư tử bò ra lô nhô lúc nhúc, rút rỉa thịt xương sư tử.
Nghe
A Nan kể lại bảy việc thấy trong giấc mộng. Phật rầu rầu nét măït, dạy
rằng: "Này An Nan! Mộng tuy do tâm tạo, nhưng đó cũng chính là triệu
chứng báo trước tương lai giáo pháp của ta đấy.
-
Này A Nan! Lửa dữ thiêu đốt sông biển, đó là điềm trong tương lai có
hạng Tỳ kheo được tín chúng cúng dường đầy đủ, lại khởi xướng đấu tranh,
vi phạm giáo pháp thanh tịnh của ta.
-
Này A Nan! Mặt trời rơi rụng, thế giới tối tăm, đầu ông cao ngang núi
Tu di, đó là điềm sau khi ta niết bàn, đại chúng Tỳ kheo cùng chư thiên
và quần chúng sẽ yêu cầu ông tuyên dương chánh pháp.
-
Này A Nan! Tỳ kheo bỏ giới treo áo cà sa, đó là điềm trong tương lai có
hạng tỳ kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông mà không thực sự tu hành.
-
Này A Nan! Tỳ kheo lận đận khốn cùng, pháp y tơi tả, đó là điềm trong
tương lai có hạng tỳ kheo vợ con đùm đề, bỏ giới không tu, xuôi theo thế
tục hưởng lạc.
-
Này A Nan Heo rừng đào bới rễ chiên đàn, đó là điềm trong tương lai có
hạng tỳ kheo buôn bán Như lai, xem chánh pháp như phương tiện trao đổi
để cầu lợi dưỡng.
-
Này A Nan! Voi con không nghe lời voi mẹ đến đổi bị đói khát mà chết,
đó là điềm trong tương lai có hạng tỳ kheo thiếu niên hậu học không nghe
lời giáo huấn của trưởng lão, không tin tội phước quả báo, chết đọa vào
địa ngục.
-
Này A Nan! Dòi bọ từ trong bụng sư tử chết bò ra, rút rỉa xương thịt sư
tử chết mà ăn, đó là điềm trong tương lai chính đệ tử Phật trở lại phá
hoại giáo pháp Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá nổi".
Một
trong bảy mộng triệu trên đây đã được kiểm chứng đúng, ngay sau khi
Phật nhập diệt ba tháng. Đó là việc A Nan được đại hội kiết tập kinh
điển lần thứ nhất giao phó trách nhiệm đứng lên tụng lại các kinh điển
của Phật cho đại chúng nghe. Tương truyền rằng trước khi khai hội, A Nan
xin dự nhưng bị chủ tọa là Ma Ha Ca Diếp từ chối. Uất ức vì không được
tham dự, A Nan tìm một chỗ vắng trong động để tham thiền tìm cho ra lẽ.
Ngồi như thế một ngày một đêm mệt quá, vừa ngã lưng xuống định nghỉ xả
hơi thì hoát nhiên đại ngộ. Sau đó, A Nan xin đến gặp Ca Diếp trở lại,
được Ca Diếp hoan hỷ đón vào và giao cho trách nhiệm kết tập kinh điển.
10.- LA HẦU LA (Rahula) Mật Hạnh số 1
La
Hầu La là con ruột của Phật khi ngài còn là thái tử. Sau khi thái tử
xuất gia, La Hầu La là một trong những người có thể thừa kế vương vị Ca
Tỳ La. Nhưng điều mà Phật đã từ bỏ, ngài không muốn cho con ngài làm. Vì
vậy khi về thăm quê lần đầu tiên, Ngài phương tiện tìm cách đưa La Hầu
La đi xuất gia và giao cho Xá Lợi Phất dạy bảo.
Với
sự xuất gia của La Hầu La, chế độ Sa di bắt đầu khai xuất. Bấy giờ, La
Hầu La khoảng 15,16 tuổi, chưa ý thức được tầm quan trọng của con đường
mới và cũng chưa đủ sức lãnh nạp giáo pháp Phật. Đối với sanh hoạt tăng đoàn, chẳng qua cha bảo sao con nghe vậy, không ưa thích cũng chẳng chống báng.
Để
tẩy trừ tập khí vương giả quen thói chỉ tay năm ngón, Phật bảo Xá Lợi
Phất giao cho La Hầu La công việc quét dọn đình viện hàng ngày. Một hôm
quét xong trở về phòng thì phòng đã bị một khách tăng chiếm ở và quăng y
bát của La Hầu La ra ngoài. La Hầu La đành ôm y bát ra sân ngồi. Thình
lình trời mưa, La Hầu La lại ôm y bát vào ngồi cầu xí. Việc này sau khi
Phật biết, trở thành nguyên nhân khiến Phật lập quy chế mới, cho Sa di ở
chung phòng với Tỳ kheo. Từ đó La Hầu La sát gót Xá Lợi Phất. Nhân một
hôm cùng đi khất thực với bổn sư, tín chúng cúng dường không đồng đều,
La Hầu La bất bình, nên từ đó Phật chế ra luật Lục hòa kỉnh.
Một
hôm cùng với Xá Lợi Phất vào thành Vương Xá khất thực, hai thầy trò gặp
một gả mất dạy bỏ cát vào bình bát của Xá Lợi Phất rồi dùng gậy đánh
lên đầu La Hầu La. Nhìn gương mặt phừng phừng tức giận của La Hầu La, Xá
Lợi Phất ôn tồn khuyên bảo:
-
Nếu là đệ tử của Phật, nhà ngươi nên có tinh thần nhẫn nhục, không nên
cưu hận và nên thường vận dụng tâm từ bi thương xót tất cả chúng sanh.
Vinh nhục, khen chê không đáng cho ta lưu ý. Phật dạy trên thế gian này
không có sức mạnh nào lớn đến đâu có thể thắng nổi sức mạnh của nhẫn
nhục.
Việc này sau khi Phật biết, lại được Phật dạy thêm:
-
Này La Hầu La, người không biết nhẫn nhục không thể nào thấy Phật,
thuận Pháp, gần Tăng, thường bị đọa lạc vào đường dữ. Có nhẫn nhục mới
có bình an, mới tiêu trừ được họa hoạn, phát triển trí tuệ. Trí tuệ tối
cao là con đẻ của nhẫn nhục. Người có trí tuệ mới thấy rõ quả báo thâm
viễn, khắc phục sân tâm, thường hành tinh tấn, thể hiện chân tinh thần
và chân ý nghĩa của Phật pháp, hòa hợp với thế tục mà không ô nhiễm.
Nhẫn nhục là tăng thượng duyên của đạo pháp, giúp hành giả sớm chứng
giải thoát.
Được
Phật và Xá Lợi Phất kềm sát và từ mẫn giáo hóa, tập khí cương cường của
dòng máu vương giả trong người La Hầu La mỗi ngày mỗi lạt phai và tánh
tình lần lần trở nên ôn hòa nhu thuận. Duy chỉ có một tánh chưa bỏ được,
đó là tánh ưa bông đùa dối gạt để mua vui. Nhằm sửa trị tánh này, một
hôm Phật bảo La Hầu La bưng một chậu nước đến cho ngài rửa chân. Rửa
xong, Phật hỏi La Hầu La:
- Nước này có thể uống được không?
- Thưa không.
- Vì sao?
- Vì đã ô uế.
-
Nước ô uế không dùng được, tâm ô uế cũng thế. Mang danh xuất gia mà
không tịnh tâm tu học, không giữ gìn lời nói, lòng tràn đầy ba độc cấu
uế thì khác gì mớ nước ô uế này. Đã không dùng được thì hãy đổ đi.
Phật bảo La Hầu La đem chậu đi dổ rồi mang chậu không về. Hỏi:
- Chậu này có dùng đựng cơm được không?
- Thưa không.
- Vì sao?
- Vì mặt chậu bám đầy chất dơ.
-
Chậu dơ không dùng được, thân dơ cũng thế. Mang danh xuất gia mà không
tu giới định huệ, không thanh tịnh thân khẩu ý, mình dính đầy ba độc cấu
uế thì khác gì cái chậu dơ này. Đã không dùng được thì thà đập bể còn
hơn.
Phật đá nhẹ vào chậu khiến chậu vỡ đôi. Hỏi:
- Nhà người có tiếc cái chậu không?
- Thưa không, vì là chậu dơ.
-
Này La Hầu La! Nhà ngươi không tiếc chậu dơ như thế nào thì tăng đoàn
không dung người dơ cũng như thế. Mang danh xuất gia mà không biết trọng
uy nghi, hý ngôn lộng ngữ thì ai mà yêu mến nhà ngươi đuợc?
Từ
đó, La Hầu La thề quyết tâm hoán cải, nghiêm trì giới luật, tinh tấn
đạo tâm, suốt ngày kín tiếng lặng hơi, quyết luyện mật hạnh. Tu như vậy
trong mấy năm liền, vẫn không thấy tiến bộ, nhưng một hôm nhân một câu
nói của Phật mà hoát nhiên khai ngộ. Hôm ấy cùng Phật đi du hóa, Phật
chỉ cảnh vật xung quanh bảo La Hầu La rằng:
-
Hãy nhìn vạn tượng sum la kia, rồi nhìn trở lui vào tâm niệm và thân
thể của mình, để xem thử có gì đứng yên một chỗ không? Vô thường! Vô
thường tất cả! Nên biết như thế và đừng để cho tâm chấp trước dính mắc
vào đâu hết.
Sau
một thời gian chăm chú luyện mật hạnh, câu nói đơn giản trên đây của
Phật như có mãnh lực của dông sấm đập vào màn nhĩ, khiến La Hầu La
choáng váng bèn xin Phật trở lui về tịnh xá ngồi thiền.
Phật du hóa về, cho gọi La Hầu La lên bảo:
-
Ông đã chứng được tận cùng của Mật hạnh rồi đấy. Giờ đây hãy vận dụng
tâm từ bi đối xử với người và vật để mở rộng tâm lượng và dung nạp tất
cả chúng sanh vào lòng. Dung nạp được tất cả chúng sanh thì tội ác dứt
trừ. Bờ giải thoát đã gần kề.
vào màn nhĩ, khiến La Hầu La choáng váng bèn xin Phật trở lui về tịnh xá ngồi thiền.
Phật du hóa về, cho gọi La Hầu La lên bảo:
-
Ông đã chứng được tận cùng của Mật hạnh rồi đấy. Giờ đây hãy vận dụng
tâm từ bi đối xử với người và vật để mở rộng tâm lượng và dung nạp tất
cả chúng sanh vào lòng. Dung nạp được tất cả chúng sanh thì tội ác dứt
trừ. Bờ giải thoát đã gần kề.