- PHẬT VÀ THÁNH CHÚNG
- Xuất bản: Phật Học Viện Nha Trang, Phật lịch 2513
PHẬT GIÁO HÓA hay PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN
******
NGƯỜI ĐẦU TIÊN GẶP PHẬT
Trên
đường từ gốc Bồ đề đến thành Ca Thi, Phật gặp một người từ xa đi lại.
Ông này thấy tướng mạo trang nghiêm của Phật thì bất giác tâm hồn rúng
động, liền quỳ mọp bên vệ đường, bạch rằng:
-
Ngài có phải là người không? Sao tướng ngài đẹp đẽ từ hòa đến thế? Nhìn
ngài, sao tôi tự nhiên thấy vừa rờn rợn ớn lạnh, vừa phơi phới hoan hỷ
mà tâm hồn lại yên tỉnh khác thường? Ngài là thiên thần chăng? Ưu Ba Ca
này kính mong Ngài khai thị.
-
"Này Ưu Ba Ca! Phật bảo. Ta không phải thiên thần. Ta cũng không theo
học với thầy nào hết. Không có bạn bè nào cùng học chung với ta. Nhờ tự
lực, ta đã giác ngộ được diệu pháp mà trên thế gian này chưa ai đạt
được.
Này
Ưu Ba Ca! phiền não là kẻ thù đáng sợ nhất. Muốn hàng phục kẻ thù ấy,
nhất định phải có gươm báu trí tưệ. Trí tuệ ấy, ta đã chứng được. Đến
thành Ca Thi phen này, ta nhất quyết phải dóng trống chánh giác, khua
chuông trí huệ, để thức tỉnh thế gian đang chìm đắm trong cơn ác mộng
triền miên.
Này
Ưu Ba Ca! Lòng ta hiện rất thanh thản. Không kiêu ngạo cũng không nô
dịch vì bất cứ một lý do nào. Ta chỉ chuyên chú một việc: lưu bố chánh
pháp cứu giúp chúng sanh chìm đắm trong biển khổ. Trong một kiếp trước,
ta đã từng phát nguyện làm thuyền trưởng cứu vớt kẻ trầm luân chơi vơi
trong khổ hải. Nay điều kiện này đã đầy đủ, ta quyết thực hiện thệ
nguyện xưa. Bất cứ ai có thiện căn và nhân duyên sẽ đều được ta cứu vớt.
Ta phải thực hiện cho kỳ được sứ mạng của đấng đại trượng phu và đấng
đại y vương.
Này
Ưu Ba Ca! Không phải nhân vì có bóng tối mà dèn phát ra ánh sáng. Khu
trừ hết bóng tối thì ánh sáng tự nhiên của đèn hiện ra. Đèn ấy là đèn
trí huệ. Ta đốt đèn ấy lên là làm một việc thuận với tự nhiên để chiếu
phá bóng tối ngu si của chúng sanh.
Này
Ưu Ba Ca! Cưa gỗ thì có lửa. Không khí chuyển động thì thành gió. Đào
đất thì phải được nước. Đó là những việc đương nhiên. Việc ta sắp làm
đây cũng vậy"
Lắng
tai nghe Phật nói, Ưu Ba Ca tán thán không ngớt. Nghe xong, hứa trong
tương lai sẽ tìm gặp Phật và sẽ xin làm đệ tử. Sau đó hai người chia
tay.
I.- GIÁO ĐOÀN ĐẦU TIÊN
Đến
vườn Lộc Uyển trong rừng Khổ hạnh, Phật gặp ngay nhóm năm người Kiều
trần Như vẫn còn ở đấy. Xa trông thấy Phật uy nghi bước đến, thoạt tiên
năm ông tưởng Phật hối hận muốn trở lui xin sám hối để cùng tiếp tục tu.
Cả năm người ước hẹn cùng nhau tảng lờ, nhắm mắt giả bộ như không trông
thấy, để xem Phật xử sự ra sao. Nhưng khi Phật đến gần, không ai bảo
ai, tất cả đều bất giác phát sợ và cùng quỳ xuống đảnh lễ.
- Sao các ông không thực hành lời giao ước không đón tiếp ta? Phật bảo.
- Thái tử Tất Đạt Đa! Chúng tôi đâu dám nghĩ thế!
-
Các ông từ nay không nên gọi ta bằng tục danh. Hiện ta đã thành tựu
chánh giác. Hãy gọi ta là Phật. Phật chính là ánh sánh của vũ trụ. Muốn
thành thành Phật đâu cần phải tu khổ hạnh! Trái lại có bỏ lối tu ấy đi
thì mới mong thành Phạât được.
Này
Kiều trần Như! Năm ông hiện đang mắc phải một cái bệnh hiểm nghèo là
bệnh chấp chặt một phía. Bắt nhục thể chịu khổ chỉ càng khiến tâm thần
thêm rối loạn. Trái lại, cho thân tâm hưởng lạc thì lại khiến nó say đắm
ái trược. Tu hành mà thiên trọng bên này hay bên kia, đều không thể nào
thành tựu đại đạo căn bản. Vấn đề này, ta đã thấu rõ khi còn ở trong
vương cung và khi ta cùng các ông tu khổ hạnh sáu năm.
Xa lìa cả khổ lẫn lạc, đó là con đường tu hành trung đạo chân chánh, đưa đến giác ngộ tối cao.
Muốn đi đến đó, cần phải thực hiện tám điều:
1.- Kiến giải phải chính xác (chánh kiến)
2.- Tư tưởng phải thuần chơn (chánh tư duy)
3.- Nói phô phải hiền hòa thanh tịnh (chánh ngữ)
4.- Việc làm phải chánh đáng (chánh nghiệp)
5.- Mưu sinh phải hợp lý (chánh nghiệp)
6.- Tinh thần phải tích cực (chánh tinh tấn)
7.- Tín ngưỡng phải hợp chơn lý (chánh niệm)
8.- Sinh hoạt tâm linh phải quy nhất (chánh định)
Tu
học phải theo đúng tám hướng này mới giải thoát được khổ đau của phiền
não tích tụ từ lâu đời lâu kiếp. Có giải thoát đau khổ mới đạt được cảnh
giới tịch tịnh an vui.
Này
Kiều trần Như! Trên thế gian này, tất cả chúng sanh không ai thoát khỏi
khổ đau do sanh,già, bệnh, chết gây nên. Đã thế, lại còn dồn dập bao
nhiêu tai ương của tự nhiên giới như hỏa tai, thủy tai, phong tai, chấn
tai v.v... Ái ân mà phải xa lìa cũng khổ. Oán cừu phải gặp gỡ cũng khổ.
Ham muốn không được cũng khổ. Năm ấm thiêu đốt ngày đêm cũng khổ. Tất cả
các nổi KHỔ đau ấy đều bắt gốc từ cái ảo tưởng Ngã. Do ảo tưởng ngã ấy
mà tham, sân, si dấy khởi triền miên, tích lũy đời nọ qua kiếp kia thành
TẬP. Muốn giải trừ khối tham, sân, si tích tập ấy, cần phải tu ĐẠO. Có
tu đạo mới tiến nhập được cảnh giới tịch DIỆT.
Này Kiều trần Như! Ta cần chỉ cho các ông biết:
·Đó là Khổ, vì tánh nó hay bức bách.
·Đó là Tập, vì tánh nó thường chiêu cảm.
·Đó là Diệt, vì tánh nó có thể chứng được.
·Đó là Đạo, vì tánh nó có thể tu được.
Này Kiều trần Như! Ta khuyên các ông hãy tích cực:
·Vì nó là Khổ, các ông cần phải biết.
·Vì nó là Tập, các ông cần phải trừ.
·Vì nó là Diệt, các ông cần phải chứng.
·Vì nó là Đạo, các ông cần phải tu.
Này Kiều trần Như! Hãy xem gương ta thì rõ:
·Đó là Khổ, ta đã biết rồi.
·Đó là Tập, ta đã trừ xong.
·Đó là Diệt, ta đã chứng được.
·Đó là Đạo, ta đã tu thành.
Bốn
sự thật căn bản Khổ, Tập, Diệt, Đạo chỉ có thánh trí mới hội thông, nên
gọi là Bốn Thánh đế. Nếu không rốt ráo thấu hiểu Bốn Thánh đế ấy thì
không thể nào giải thoát. Các ông nghe rõ chưa?
Này
Kiều trần Như! thân năm uẩn này là thường chăng? Là không thường chăng?
Là khổ chăng? Là không khổ chăng? Là không chăng? Là không không chăng?
Là ngã chăng? Là vô ngã chăng?
- Bạch Phật! Năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đích thực là vô thường, khổ, không và vô ngã.
- Hay thay! Các ông đã lãnh hội được giáo pháp ta.
Sau
khi nghe Phật dạy, năm ông Kiều trần Như, A Xả Bà Thệ, Bạt Đề, Thập Lực
Ca Diếp và Ma Nam Câu Ly (con trưởng Học Phạn Vương) đều xin nguyện quy
y Phật. Đây là năm đệ tử đầu tiên. Với lời thuyết giáo trên là bài
giảng đầu tiên cho năm đệ tử dầu tiên ấy (1). Đến đây ngôi Tam Bảo đã
đầy đủ với đức Thích Ca là Phật bảo, Bốn Thánh đế là Pháp bảo và năm đệ
tử đầu tiên là Tăng Bảo.
******
(1)
Phê bình bài giảng này, các tư tưởng gia Đông Tây kim cổ đều cho đây là
tinh túy của Phật giáo, là đóa hoa thơm của nhân loại, lâu lâu mới thấy
nở một lần. Bảo đây là tinh túy, vì toàn bộ hệ thống giáo triết của nền
tư tưởng Phật giáo đều bắt rễ, nẩy mầm, đâm chồi, trổ hoa, kết trái
trên Bốn Thánh đế này.
Với Bốn Thánh đế và Năm đệ tử đầu tiên, Phật giáo từ đây đã viết được trang sử đầu tiên của chính mình.
******
II.- CƯ SĨ VÀ TÍN NỮ ĐẦU TIÊN
Sau khi lập xong giáo đoàn, hàng ngày Phật cùng đệ tử đi hành hóa dọc theo ven sông Phược Ra Ca.
Một
hôm trời hừng sáng, Phật xuống sông rửa mặt thì bổng thấy một thanh
niên từ bên kia thành Ca Thi lội bộ qua, mặt mày hốt hoảng, tinh thần
thác loạn, mồm không ngớt kêu khổ. Hỏi ra mới biết thanh niên ấy giữa
đêm thức giấc, thấy vợ (vốn là một vũ nữ), trong lúc ngủ mê hiện rõ chân
tướng xấu xí, bèn nổi khùng, lén bỏ nhà ra đi lang thang vô định. Kịp
đến sáng thì gặp Phật, Phật đem giáo lý vô thường ra giảng dạy. Bừng
tỉnh ngộ, thanh niên nằng nặc xin Phật xuất gia. Đây là đệ tử thứ sáu
của Phật tên là Da Xá, con của trưởng giả Câu lê Da, người thành Ca Thi.
Sau
khi Phật chấp nhận Da Xá làm đệ tử thì Câu lê Da trên bước đường tìm
con, cũng gặp Phật, được Phật giảng dạy về những nỗi khổ đau của kiếp
nhân sanh vô thường, như bọt nước, như sương sa. Để chế ngự khổ đau,
Phật nói công đức trì giới, bố thí. Sau đó, Câu lê Da phát nguyện quy y
làm đệ tử tại gia. Đó là vị Ưu bà tắc đầu tiên.
Hôm
sau Câu lê Da mời Phật và đệ tử về thọ trai tại nhà. Vợ Câu lê Da thấy
Phật tướng mạo trang nghiêm, trong lòng vô cùng phấn chấn, cũng theo
gương chồng xin quy y. Đây là vị Ưu bà di đầu tiên.
Tiếp
theo, năm mươi thanh niên bạn của Da Xá thấy Da Xá xuất gia đầu Phật,
được Phật cảm hóa tánh tình khác xưa, nhân đó cũng xin xuất gia. Giáo
đoàn giờ đây lên đến trên năm mươi người, hàng ngày chia nhau đi bố giáo
các vùng lân cận.
1.- BA ANH EM CA DIẾP QUY CHÁNH
Ngay
trong vùng Phật và đệ tử hoằng hóa, có một đạo sĩ nổi tiếng tên là Ưu
Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilvà Kàsyapa) cầm đầu năm trăm đệ tử theo đạo
Bái Hỏa (thờ thần lửa). Phật quyết đưa ông này về nẻo chánh, lập tâm đến
nhiếp phục cho được.
Trên
đường đi đến đền thờ thần Lửa của Ca Diếp, tình cờ Phật gặp ba mươi
thanh niên đương tìm kiếm một cô gái, trước kia vốn là gái điếm, nhưng
được cả nhóm mua về làm vợ cho một gã trong bọn họ. Lý do tìm kiếm là vì
dâm nữ ấy, đêm vừa rồi thừa lúc trong nhà ngủ say, đánh cắp tiền bạc
quần áo bỏ trốn. Thấy thanh niên mất vợ, vẻ mặt thiểu não u sầu, Phật
giảng giải đạo lý nhân sanh vô thường cho nghe, xong ngài hỏi: "Anh thử
nghĩ kỹ, nên đi tìm tự ngã anh hơn hay đi tìm người đàn bà ấy hơn".
Thanh niên chợt tỉnh ngộ, rồi cùng với hai mươi chín người bạn kia xin quy y theo Phật làm đệ tử.
Khi
đến gặp Ca Diếp thì trời gần tối. Ông này tỏ ý khinh khi cao ngạo, tự
coi mình là một thánh nhân. Quả thật, ông cũng thuộc hạng bác học đa văn
và nhất là ông đang được vua quan và dân chúng quanh vùng thành kính
tôn sùng.
Phật
biết vậy, bèn mượn cớ là người lữ hành đi nhỡ độ đường, xin cho tạm trú
một đêm. Ca Diếp cho ngủ trong đền dành riêng để chứa những khí cụ bái
hỏa, trong đó có một con độc long rất dữ. Ca Diếp có ác ý muốn cho độc
long hại Phật. Chính Phật cũng biết thâm ý ấy. Nhưng bằng những huyền
năng siêu nhiên, Phật hàng phục độc long một cách dễ dàng, khiến Ca Diếp
và nhóm đệ tử trở lại khiếp phục. Hôm sau tại đền Bái Hỏa có lễ lớn,
đông đảo dân cư quanh vùng quy tụ về xem Ca Diếp thi thố thần thông. Ca
Diếp có lòng đố kỵ, không muốn Phật hiện diện trong buổi lễ ấy, định
kiếm cách mời Phật ra khỏi đền để Ca Diếp khỏi áy náy. Phật biết ý tránh
mặt. Nhưng sau khi tan lễ, Ca Diếp vô cùng kinh dị, thấy Phật còn y
nguyên ở chổ cũ trong đền. Kết quả của chuyến gặp gỡ kỳ thú này là Ca
Diếp và năm trăm đệ tử đều vứt hết khí cụ bái hỏa xuống sông, dẹp đền
thờ thần lửa và xin quy y theo Phật.
Hai
em của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là Nan Đềø Ca Diếp (Nadi Kàsyapa) và Già
Da Ca Diếp (Gayà Kàsyapa) cũng thờ thần lửa và hai người thống lãnh hai
trăm năm mươi đồ chúng tu gần đấy, nghe tin anh mình quy y Phật, rất đổi
ngạc nhiên, tìm đến can ngăn, nhưng sau khi nghe anh ca tụng Phật và
chính tự mắt được nhìn thấy phong độ của Ngài, cũng bị nhiếp phục mà
tình nguyện xin theo luôn. Do sự quy chánh của ba anh em Ca Diếp, đệ tử
Phật tăng thêm được một ngàn người.
Nhân
ba anh em Ca Diếp thờ thần lửa, Phật khai thị cho họ biết về tai họa
của lửa. Ngài dạy họ rằng những cảm giác của chúng sanh bừng cháy đêm
ngày như lửa đốt. Đó là lửa tham, sân, si, lửa ảo mộng, lửa sanh tử
v.v.. Các thứ lửa ấy dấy khởi vốn có thủy tất phải có chung. Tiêu diệt
các thứ lửa ấy khiến cái quá trình hữu thủy hữu chung của nó ngưng lại, thì sẽ đạt được tịch diệt và bất tử ở cõi an lạc tối cao.
2.-VUA TẦN BÀ SA LA QUY Y
Nhớ
lời kết ước xưa, Phật dẫn đồ chúng đến gặp vua Tần Bà Sa La (Bimbisara)
tại thành Vương Xá, nước Ma kiệt đà. Dọc đường ngài dừng lại ở núi Linh
Thứu cách thành khoảng vài ba dậm, thiết lập đạo tràng tại đấy xong rồi
mới tiến vào thành sau.
Dân
trong thành, khi nghe tin đồn ba anh em Ca Diếp đầu Phật, đã vô cùng
kinh ngạc, nay lại nghe Phật quang lâm đến Vương Xá có ba anh em ấy theo
hầu, không ai bảo ai, tất cả đều thiết lập hương án chưng hoa xông
trầm, quỳ mọp hai bên vệ đường đợi Phật và chúng đệ tử đi qua để chiêm
bái. Riêng vua Tần Bà Sa La thì cho sứ giả đến tận núi Linh Thứu nghênh
đón. Đích thân nhà vua ra tận ngoài thành đảnh lễ. Thoạt nhìn thấy Phật
với diện mạo uy nghi rực rỡ bội phần hơn xưa, nhà vua biết rằng Phật đã
chứng quả đích thực rồi.
Đáp lời nhà vua hỏi: "Nếu không có ngã thì ai thọ quả báo", tại vương cung Phật dạy rằng:
-
Ngã này chỉ là một ảo tưởng của chúng sanh. Quả báo mà chúng sanh thọ
lãnh cũng là ảo tưởng nốt. Ảo tưởng nọ dấy khởi ảo tưởng kia. Phá được
ảo tưởng ngã thì đồng thời phá luôn được ảo tưởng quả báo mà giải thoát.
Nếu
bảo rằng nhất định phải có ngã để thọ quả báo thì hà tất phải tu khổ
hạnh? Nếu bảo rằng nhất định không có gì hết thì cầu giải thoát làm gì?
Trên thế gian này, thật không có sở tác của ngã. Cũng không có ngã làm
chủ tể. Chỉ có tự nghiệp lưu chuyển mà thôi.
Vì
nghiệp nên hình như có ngã. Hết thảy phiền não tham, sân, si đều bắt
gốc từ cái giả ngã ấy. Hiện tượng giống như đá chọi đá. Đá chọi đá có
khi phát tia lửa, có khi không phát . Khi đá không chọi đá, thì không
thể nói rằng đá là lửa. Sự kiện đó, trải qua những năm tu hành, ta đã
thấu rõ. Nhờ đó mà ly khai được ảo tưởng ngã (tức ngã chấp). Nhưng ly
khai ngã chấp không phải việc dễ. Hễ chưa ly khai được ngã chấp thì còn
đầy rẫy mê lầm, ngu si, điên đảo.
Muốn
phá trừ ảo tưởng ngã (tức ngã chấp), phải quên nó đi và thay vào đó,
tạm lấy chung sanh làm ngã. Tiếp theo, lại phải quên luôn chúng sanh mà
đi vào lãnh vực của tâm bất động. Đem tâm bất động ấy thể nhập vũ trụ,
hoà đồng với vũ trụ trong một bản thể chung cùng rộng lớn; đó mới chính
là thật ngã, mà cũng tức là Niết bàn bất sanh bất diệt vậy. Thật ngã ấy
hay Niết bàn chính là thật tướng bản lai của vũ trụ. Trong thật tướng
bản lai ấy, đâu còn sanh tử nữa.
Nghe Phật dạy xong về vô ngã và thật ngã, vua Tần Bà Sa La và tất cả thính chúng đều phát nguyện quy y.
Để
đền đáp ơn Phật, nhà vua cho xây cất tại vườn trúc Ca Lan Đà ở cạnh thủ
đô Vương Xá, một ngôi tịnh thất lấy tên là Trúc lâm tịnh xá, gồm mười
sáu ngôi nhà, mỗi ngôi gồm sáu chục phòng, năm trăm lầu gác, bảy mươi
hai giảng đường. Cất xong, nhà vua mời Phật và chúng tăng về thường trú
tại đó.
Sau
khi Phật tiếp nhận Tịnh xá Trúc lâm, tiếng đồn vang khắp đó đây. Bấy
giờ có hai đạo sĩ cự phách thuộc môn phái San Xa Dạ (Sanyaya, một trong
số sáu phái Luận sư ngoại đạo), là Ưu Ba Thất Sa (Upatisya) tức Xá Lợi
Phất (Sariputra) và Câu Luật Đà, cũng gọi là Câu Ly Ca (Kolita) tức Mục
Kiền Liên (Maudgalyayana hay Maudgalaputra), mỗi người lãnh đạo khoảng
một trăm đồ chúng, do môi giới của A Xả Bà Thệ, đem tất cả đồ chúng đến
xin đầu Phật.
Hai
vị này về sau đều là cao đệ của Phật, thuộc nhóm Thập Thánh chúng. Xá
Lợi Phật là Trí tuệ đệ nhất, Mục Kiền Liên là Thần thông đệ nhất.
Xá
Lợi Phất có người cậu ruột gọi là Trường Trảo phạn chí (đạo sĩ Bà la
môn để móng tay dài), nghe tin cháu mình đã theo Phật, kinh ngạc bèn tìm
đến xem sự tình ra sao, bị khiếp phục rồi cũng xin quy y làm đệ tử. Đó
là Ma Ha Câu Hy La, cũng gọi là Câu Sắc Chỉ La (Maha Kausthila) mà đoạn
mở đầu các kinh thường nhắc đến.
Một
hôm, Phật nhuốm bệnh, vua Tần Bà Sa La phái ngự y tên là Kỳ Bà đến chăm
sóc điều trị. Nhân thấy Phật đắp tấm y quá cũ, Kỳ Bà đem phép vệ sinh
ra thuyết giải và dâng Phật một tấm y mới do một quốc vương láng giềng
trao tặng để tạ ơn ông đã có công trị liệu cho chính quốc vương ấy,
nhưng Kỳ Bà tiếc không mặc, cất giữ đã lâu ngày. Phật lãnh thọ. Từ đó,
nhân dân thành Vương Xá noi gương, đua nhau dâng cúng y cho chư tăng. Và
cũng do đó, lần đầu tiên, Phật chế pháp phục cho tăng đoàn.
Phong
trào dâng cúng lan tràn. Tiếng đồn tới tai một vị đại phú hào, giàu
địch quốc tên là Ma Ha Ca Diếp (Maha Kàsyapa) người ở thôn Sa lan đà,
không xa thành Vương Xá lắm. Ông này là một nhân vật cự phách thuộc dòng
Bà la môn, học rộng tài cao, thông minh quán chúng, nghe tin đồn đãi,
ông tìm đến Vương Xá xin yết kiến Phật. Cảm phục đức độ tài năng cửa
Phật, sau mấy lần tiếp xúc, ông dẹp bỏ việc nhà, xin Phật thâu nạp làm
đệ tử. Về sau, ông trở thành vị Đầu đà đệ nhất, thuộc nhóm Thập Thánh
chúng. Ông còn là người thừa kế Phật thống lãnh tăng đoàn sau khi Phật
nhập diệt. (Nên biết rằng, bấy giờ Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều đã
thị tịch rồi).
Sau
khi nhiếp phục được Ma Ha Ca Diếp, tiếng tăm Phật thật là lẫy lừng rực
rỡ. Trí thức trong toàn cõi nước Ma kiệt đà đều đổ xô về xin thọ giáo.
Cơ sở Phật giáo của nước Ma kiệt đà như vậy là đã thành tựu viên mãn.
Tịnh xá Linh Thứu hoàn thành cũng chính lúc này.
Từ
đây sắp sau, Phật giáo bành trướng sang nước Kiều Tát La (Kosala) (1)
với thủ đô là Xá Vệ, do môi giới của cư sĩ Tu Đạt tức trưởng giả Cấp Cô
Độc. Kiều Tát La là một trong hai trung tâm văn hóa sáng chói bậc nhất
của toàn cõi Ấn Độ thời bấy giờ (trung tâm kia là Ma Kiệt Đà).
******
(1)
Kosala này là Kosala ở vùng trung châu sông Hằng, nơi về sau Bồ tát
Long Thọ đặt cứ địa xiển dương Đại thừa, khác với Kosala ở Nam Ấn và Bắc
Ấn.
******
3.-TỊNH XÁ KỲ VIÊN VÀ CƯ SĨ TU ĐẠT
Lúc
Phật ở tịnh xá Trúc lâm, một hôm có một đệ tử tại gia là trưởng giả Thủ
La (Cùda) thiết trai mời Phật và chúng Tăng thọ cúng tại nhà. Trước đó
một hôm, có trưởng giả Tu Đạt (Sudatta) biệt hiệu là Cấp Cô Độc (người
thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La, ở phía Tây Bắc Ma Kiệt Đà) đến dạm hỏi
con gái Thủ La cho người con thứ bảy của ông. Trong khi hai bên đàm đạo,
Tu Đạt rất ngạc nhiên thấy trong nhà rộn rịp treo đèn giăng hoa cực kỳ
linh đình rực rỡ, kẻ đi người lại trang trọng tấp nập. Hỏi thì được biết
toàn gia đang chuẩn bị cuộc tiếp rước Phật và chúng Tăng vào hôm sau.
Thủ La còn cho Tu Đạt biết rất tận tường về tư
cách, phong độ và trí tuệ siêu đẳng của Phật.
Ngay
đêm hôm đó, Tu Đạt tìm đến gặp Phật tại Trúc lâm. Cuộc gặp gỡ tay đôi
xảy ra dưới vầng trăng thanh, trong bầu không khí tịch mịch tuyệt đối
yên lặng.
Phật
giảng cho Tu Đạt nghe về pháp bố thí (chí tâm thí, tinh tấn thí, thời
thí, tịch mịch thí, vô úy thí v.v...), về quan hệ nhân duyên, về sức
chiêu cảm quả báo của nghiệp nhân.
Nghe
xong,Tu Đạt đại hoan hỷ, đảnh lễ xin quy y làm đệ tử tại gia và thỉnh
cầu Phật cùng chúng Tăng đến Xá Vệ (Sràvasti) hoằng truyền chánh pháp.
Tu Đạt cũng phát nguyện xin vì Phật và chúng Tăng, kiến lập tại đấy một
tịnh xá như Trúc lâm, để làm cơ sở hoằng hoá Phật giáo tại Kiều tát La.
Hôm sau, Tu Đạt vội vàng trở về Xá Vệ.
Bấy
giờ, vua nước Kiều Tát La là Ba Tư Nặc (Prasenajit) có người con trưởng
là thái tử Kỳ Đà (Jeta), có một khu vườn rất rộng ở sát ngay thủ đô Xá
Vệ, phong cảnh kỳ tú an nhàn, trồng đầy kỳ hoa dị thảo, bốn mùa chim hót
hoa cười. Tu Đạt đến thương lượng xin mua, Thái tử trong lòng không
muốn bán, nhưng vì nể tình trưởng giả là người có địa vị, có danh phận
trong nước, nên nói đùa rằng, ai muốn mua thì đem vàng đến lót khắp
rừng. Nói đùa như thế, khôngngờ hôm sau Tu Đạt cho người chở vàng đến
thật, Kỳ Đà rất đổi ngạc nhiên, không hiểu Phật là người thế nào mà
khiến Tu Đạt hoang phí cả gia tài của ông như thế. Sau khi nghe Tu Đạt
tỏ rõ hết nguồn cơn, Kỳ Đà bèn giao ước lại, là chỉ bán đất mà không bán
cây. Số cây trong rừng, Kỳ Đà xin lưu lại để tự mình cúng riêng Phật.
Mua
xong khu rừng, Tu Đạt lại trở qua Vương Xá báo cáo tự sự với Phật và
thỉnh thị ý kiến Phật về kiểu mẫu tịnh xá mới. Phật dạy từ nay đổi tên
khu rừng ấy là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (vườn của Cấp Cô Độc, cây của Kỳ
Đà) và phái trưởng lão Xá Lợi Phất cùng đi theo Tu Đạt qua Xá Vệ trong
nom việc xây cất.
Tịnh
xá Kỳ Viên này, sau khi hoàn thành, so với tịnh xá Trúc lâm, còn huy
hoàng và trang nghiêm hơn bội phần. Phòng ở, phòng ngủ kể đến mấy trăm;
ngoài ra lại còn có lễ đường, giảng đường, tụ hội đường, nhà dưỡng bệnh,
nhà tắm, nhà đọc sách .v... Nhà cao sân rộng không thua gì trong vương
cung của vua Ba Tư Nặc.
Trong
thời gian đang xây cất, có ngoại đạo thấy thế ganh ghét, tìm đến gặp Xá
Lợi Phất, nói giọng trịch thượng và đòi tranh biện. Trí tuệ và tài hùng
biện của Xá Lợi Phất đã khiến cả trăm luận sư ngoại đạo chịu thua.
Chính ngài Xá Lợi Phất đã đưa số ngoại đạo ấy về với Phật, trước khi
Phật chưa đích thân đến giáo hóa. Vì vậy, khi kiến thiết xong tịnh xá
này, ngày Phật và chúng Tăng tiến vào Xá Vệ, nhân dân trong thành tấp
nập đón rước linh đình.
Từ đấy, Phật giáo bành trướng ở trung tâm văn hóa thứ hai của Ấn Độ: Kiều Tát La.
4.-VUA BA TƯ NẶC QUY Y
Việc
làm kỳ đặc của Tu Đạt và sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhân dân Xá Vệ đồn
đến tai vua Ba Tư Nặc (Prasenajit). Một hôm, vua dẫn bá quan đến yết
kiến Phật tại Kỳ Viên.
Vua
hỏi: "Tôi được nghe nhiều kẻ tu hành xưa nay, thường phải trải qua
nhiều năm khổ hạnh trong rừng núi thâm u, mãi cho đến khi tóc bạc răng
rụng mà có rất nhiều người vẫn chưa chứng đạo quả. Ông nay tuổi mới trên
dưới bốn mươi mà đã chứng quả rồi sao?".
Đáp:
"Tâu Đại vương! rất nhiều người xua nay có thói quen miệt thị tuổi trẻ.
Đại vương nên biết rằng trên thế gian này có bốn điều không thể khinh
thị được. Một là vương tử hài nhi; hai là rồng con mới đẻ; ba là tàn lửa
cỏn con (tinh linh chi hỏa); bốn là tu sĩ thiếu niên. Vì sao vậy? Vương
tử tuy nay là hài nhi, nhưng mai sau khôn lớn sẽ là đại vương thống trị
cả một quốc gia. Rồng con mới đẻ tuy nay không ra gì, nhưng về sau
quyết sẽ thành rồng lớn. Tàn lửa cỏn con tuy nhỏ, nhưng gặp gió có thể
thiêu rụi cả lâu đài thành quách và rừng lớn cây cao. Tu sĩ mới xuất gia
nay tuy còn non dại, nếu tinh tấn tu hành, mai sau chắc chắn sẽ đạt đến
quả vị vô thượng chánh giác. Đại vương tàng ẩn trong vương tử hài nhi.
Rồng lớn tàng ẩn trong rồng con mới đẻ. Lửa lớn tàng ẩn trong tàn lửa
cỏn con. Chánh giác tàng ẩn trong chú tiểu non dại.
Vua
Ba Tư Nặc vốn là người cống cao ngã mạn, nhưng sau khi nghe xong, tâm
thần liền rúng động. Nhân đó Phật giảng đạo lý giải thoát cho nghe, vua
bèn phát tâm quy y và trở thành một trong những đệ tử hộ pháp đắc lực và
trung thành của Phật.
PHẬT TRỞ VỀ CA TỲ LA
Thành
Xá Vệ không cách thành Ca Tỳ La bao xa. Nhìn trên bản đồ thì Ca Tỳ La ở
về đông bắc Xá Vệ, cách Xá Vệ khoảng hơn một kinh tuyến, nghĩa là phỏng
chừng trăm cây số. Vì hai thành gần nhau nên tin tức qua lại không khó
lắm.
Một
hôm, vua Ba Tư Nặc cho sứ giả đến yết kiến Tịnh Phạn Vương, hết lòng ca
ngợi công đức của Phật. Sau ngót mười mấy năm xa cách, Tịnh Phạn Vương
cũng đang nóng lòng muốn gặp lại con, bèn sai đại thần là Ưu Đà Di sang
Xá Vệ đáp lễ vua Ba Tư Nặc, và nhân tiện dò thăm ý kiến Phật có muốn trở
về thăm quê không. Phật cho biết sẽ về một ngày nào đó xét ra thuận
tiện. Tịnh Phạn Vương chuẩn bị đón tiếp. Nhưng không ngờ khi Phật về,
Phật chẳng chịu báo tin trước. Thình lình một buổi sáng nọ, khắp thành
Ca Tỳ La xuất hiện vô số cà sa vàng rực, bước từng bước chậm rãi, chia
thành từng đoàn vào khất thực từng nhà bất kể quý tiện.
Tịnh
Phạn Vương nghe tin, lấy làm kinh hoàng. Điều mà lâu nay ông chờ đợi là
được thấy con vinh quy võng trước lọng sau, dè đâu lại đi mang bình bát
xin ăn khắp xóm, ngay cả ở những nhà ty tiện Thủ đà la.
Nhà vua cấp tốc xa giá đến yêu cầu Phật mau mau lên xe nhập cung, Phật từ chối:
-
Tâu Phụ vương, bần đạo nay không còn là thái tử Tất Đạt Đa nữa. Xin phụ
vương chiếu theo nề nếp tổ truyền của bần đạo mà xưng hô cho phải lẽ.
-
Tổ tiên nhà ngươi à! Tổ tiên nhà ngươi làm vua ở trong cung cấm. Tổ
tiên nhà ngươi đâu có đi lang thang khất thực ở đầu đường cuối ngõ như
vậy.
-
Tâu Phụ vương, khi nói đến tổ tiên là bần đạo muốn nói đến chư Phật, tổ
tiên của người xuất gia; nay vì bần đạo đã chứng Phật quả và đang thừa
kế pháp thống chư Phật.
Tịnh Phạn Vương ngao ngán, không hiểu sau mười lăm năm xa cách, giờ đây con mình đang nghĩ gì.
Phật
tiếp: "Phụ vương đã cho bần đạo một cái thể xác. Điều đó bần đạo không
chối cải. Bần đạo cũng không chối cải rằng buổi thơ ấu và ngay cả đến
ngày nay, bần đạo được phụ vương thương yêu tột mức. Ân đức cao dày ấy,
bần đạo những mong có ngày đền đáp xứng đáng. Theo bần đạo nghĩ, đền đáp
như thường tình thế gian dù trọng hậu đến đâu, cũng chỉ là lấy vô
thường nọ đáp ứng vô thường kia. Vàng bạc châu báu có tụ thì có tán.
Quyền cao chức trọng một ngày nào đó rồi cũng tiêu ma. Bần đạo chỉ muốn
dùng của báu cam lồ thù thắng hy hữu để báo đáp công ơn sanh thành dưỡng
dục của phụ vương, khiến phụ vương trở thành bất tử.
Tâu
phụ vương! trên thế gian này, mọi người đều vì tranh sống mà tự giết
mình. Họ tự giết bằng cách gây nên nguyên nhân luân hồi trong ba cõi sáu
đường, với kết quả tất nhiên là phải đem đến những khổ đau. Gốc khổ đau
bắt rễ từ Ái và Dục. Trừ khử gốc Ái dục vị kỷ đó đi, thì thanh tịnh hóa
được ba nghiệp thân, khẩu, ý, tích tụ được mười nghiệp lành, khiến niệm
niệm thuần thiện tiếp nối nhau ngày đêm không xen hở. Nhờ đó, lục trần
mới không nhiểu động tâm tư, vô minh mới không mê hoặc lý trí, và tự do
giải thoát thật sự mới thực hiện được. Đó là lợi ích lớn lao nhất.
Tâu
phụ vương! cảnh giới tự do giải thoát là cảnh giới vô ngã. Cảnh giới vô
ngã ấy chắc chắn không còn niệm ái dục của ba cõi. Ba cõi giống như nhà
lửa. Lại cũng giống như biển sâu không đáy. Đâu có gì là vui sướng? Ra
khỏi ba cỏi, một cảnh giới khác hiện ra, bấy giờ tâm chúng sanh quang
minh chiếu diệu như ánh sáng mặt trời mặt trăng soi khắp vũ trụ không
giây phút nào ngừng nghĩ. Đó là niềm hoan lạc chân chánh và thường tại.
Đó là Niết bàn vĩnh cửu mà người con hiếu này muốn đền đáp công ơn phụ
vương".
Nghe
Phật nói và nhất là nhìn gương mặt vừa điềm đạm từ hòa vừa lộng lẫy
sáng ngời của Phật, Tịnh Phạn Vương cảm thấy con mình hẳn đã thật sự
chứng một cái gì đó cao siêu xa vời lắm, khác với Tất Đạt Đa xưa kia,
nên tự nhiên lửa lòng cũng dìu dịu lắng xuống mà trở nên thoải mái nhẹ
nhàng, mặc dù lòng chưa hẳn tin.
Sau
cuộc gặp gỡ kỳ đặc này, Phật cùng Tịnh Phạn Vương dắt tay nhau tiến về
vương cung. Theo sau là chúng tăng đội ngũ chỉnh tề, tiếp theo nữa là bá
quan văn võ.
Tại
vương cung, sau phút tái ngộ mừng mừng tủi tủi giữa cha con, chồng vợ,
anh em, quyến thuộc, Phật tiến lên pháp tòa nói cho cả nhà biết lý do
ngài xuất gia và đem giáo pháp truyền giảng cho cả vương tộc và bá quan
cùng nghe.
Ma
Ha Ba Xà Ba Đề, Da Du Đà La, La Hầu La và ngay cả Tịnh Phạn Vương, sau
khi lãnh hội đều hoan hỷ tán thán. Trong lúc cả gia đình đang hoan lạc
đến tột bực đó, Tịnh Phạn Vương đứng dậy bạch Phật: "Nay phụ vương đã rõ
mục đích của Phật. Mục đích ấy là cứu khổ ban vui. Vậy vì mục đích cao
cả ấy và nhớ lại nỗi đau khổ của chính bản thân suốt mười lăm năm qua,
thỉnh cầu Phật từ rày về sau đừng chấp thuận cho bất cứ một ai xin xuất
gia mà không được cha me cho phép trước".
Phật cười và chấp nhận lời thỉnh cầu ấy.
1.- CÁC VƯƠNG TỬ VÀ ƯU BÀ LY XUẤT GIA
Sau
khi được Phật giáo hóa, các vương đệ, con của Bạch Phạn Vương là Đề Bà
Đạt Đa (Devadatta) và An Nan (Annanda); con của Cam Lộ Vương Phi là A Na
Luật (Anirudha); con của Học Phạn Vương là Bà Sa (?) đều xin xuất gia.
(Chú ý: Mahà NàMa tức Ma ha Nam, anh của A Na Luật, và Mahà Bhadrika tức
Ma Ha Bạt Đề anh của Bà Sa đều đã xuất gia từ trước, trong nhóm Kiều
trần Như). Hăng hái nhất trong số vương đệ là A Na Luật. A Na Luật cho
gọi ngay người thợ cạo tên là Ưu Ba Ly (Upàli) vốn là nô lệ hầu hà Bạt
Đề ngày trước, đến cạo đầu cho mình. Ưu Ba Ly thấy cảnh xuất gia vui vẽ
của các vương tử thì khóc nức nở, tủi hổ cho thân phận mình, vì giai cấp
mà ngay cả việc muốn thoát tục xuất gia cũng không được phép.
Nhân
gặp Xá Lợi Phất, Ưu Ba Ly đem tâm sự trình bày, được Xá Lợi Phất chuyển
trình lên Phật và Phật chấp thuận ngay. Đây là người nô lệ Thủ Đà La
đầu tiên xuất gia. Vì Ưu Ba Ly lớn tuổi hơn Bạt Đề, và để thể hiện giáo
pháp bình đẳng của mình. Phật muốn Bạt Đề phải đảnh lễ Ưu Ba Ly. Cách
đối xử này khiến Ưu Ba Ly vô cùng xúc động và dõng mãnh tinh tấn tu
hành, về sau được dự vào hàng Thập Thánh chúng, Trì giới đệ nhất. Trong
đại hội kiết tập lần đầu dưới quyền chủ tọa của Ma Ha Ca Diếp, chính Ưu
Ba Ly là vị chủ trì kiếp tập Luật tạng từ đó mà có bộ Bát Thập Tụng Luật
căn bản đầu tiên.
Trong
số các vương tử cùng xuất gia một lần với Ưu Ba Ly, về sau có hai người
cũng được dự vào hàng Thập Thánh chúng là A Na Luật, Thiên nhãn đệ nhất
và A Nan, Đa văn đệ nhất.
Ở
trong vương cung chỉ mấy hôm, sau đó Phật dẫn đệ tử ra ngoài thành, trú
đóng tại rừng Ni Câu Đà (Niagirdha), Phật thấy Tịnh Phạn Vương càng
ngày càng già yếu mà các lân quốc bốn phía đều là những nước lớn có ý
dòm ngó Ca Tỳ La, trong khi ấy La Hầu La (Rahula) còn non dại, và vương
đệ Nan Đà (Nanda) lại chỉ say mê tửu sắc, suốt ngày mãi mê quấn quýt bên
cô vợ đa tình là Tôn Đà Lỵ (Sundari). Bất nhất nếu phụ vương trăm tuổi,
vận mệnh dân chúng Ca Tỳ La thật như trứng để đầu đẳng. Nghĩ đến tương
lai đen tối ấy, Phật bèn phương tiện bày kế dỗ La Hầu La và Nan Đà tạm
thời xuất gia ít lâu để rèn luyện đức tánh trước khi kế vị cha ông.
Trước
tiên, Phật cho gọi La Hầu La đến rừng Ni Câu Đà, bảo Xá Lợi Phất làm lễ
thế phát cho La Hầu La thọ giới sa di. Đây là vị sa di đầu tiên, vì
hoàn cảnh nên Phật phương tiện chế ra giới pháp cho nhập chúng. Nhưng
nhờ túc duyên, về sau La Hầu La quyết chí tu hành và được dự vào hàng
Thập Thánh chúng, Mật hạnh đệ nhất.
Sau
khi La Hầu La xuất gia, một hôm Phật mang bình bát đến khất thực trước
cổng nhà của Nan Đà, dụ Nan Đà vào rừng Ni Câu La, đem những lạc thú cỏi
trời nói cho Nan Đà nghe, khiến Nan Đà say mê, đành hy sinh người đẹp
trần gian là Tôn Đà Lỵ để mong về sau được hưởng lạc thú thiên giới với
vô số tiên nữ đẹp hơn ở cõi trời. Sơ phát tâm của Nan Đà vốn chỉ nhằm
mỗi mục đích ấy. Nhưng nhờ Phật khéo giáo hóa, về sau Nan Đà nhất quyết
tu luôn và cũng chứng quả A la hán. Vì vậy mà vương vị Ca Tỳ La kế tiếp
Tịnh Phạn Vương đáng lý phải về tay, hoăïc của Nan Đà hoặc của La Hầu
La, thì về sau thuộc về Ma Ha Nam tức là Ma Nam Câu Ly, một trong năm đệ
tử đầu tiên của Phật và đồng thời cũng là con trưởng của Cam Lộ Phạn
vương.
2.- TỲ KHEO NI ĐẦU TIÊN
Tịnh
Phạn Vương thọ 93 tuổi thì băng hà. Nhận thấy Nan Đà không đủ sức kế vị
mà La Hầu La thì còn nhỏ tuổi, nên sau khi tang ma xong, Phật đề nghị
với hội đồng vương tộc đưa Ma Ha Na Ma tức Ma Ha Nam, con trưởng của Cam
Lộ Phạn Vương, anh ruột của A Na Luật lên nhiếp chánh. Sắp đăït xong
đâu vào đấy, Phật và chúng đệ tử rút ra ngoài thành Ca Tỳ La, trú đóng
tại rừng Ni Câu Đà.
Một
hôm Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn 500 phụ nữ trong dòng Thích Ca đến rừng bái
yết Phật và dâng cúng Phật hai tấm y mới do chính tay bà dệt. Phật tán
thán công đức bố thí của bà và bảo bà nên đem dâng cúng chư Tăng thì
công đức ấy sẽ lớn lao hơn. Bà tỏ ý không hài lòng. Để làm vui lòng Bà,
Phật nhận lấy một tấm nhưng với tư cách là một thành phần của tăng chúng
mà thọ cúng. Tấm còn lại Phật bảo bà cúng đường một vị tăng khác.
Nhân
việc dâng y này, Ma Ha Ba Xà Ba Đề thỉnh cầu Phật cho phép bà và 500
phụ nữ được xuất gia và thọ cụ túc giới như phái nam. Ba lần thỉnh cầu,
ba lần bị cự tuyệt.
Sau
đó, Phật và chúng đệ tử rời Ni Câu Đà đi du hóa khắp vùng lưu vực sông
Hằng, khi thì ở giảng đường Lộc Mẫu, khi thì ở giảng đường Trùng Các,
khi thì ở giảng đường Cù Sư v.v... nhưng trung tâm hoạt động chính vẫn
luôn luôn là tịnh xá Kỳ Viên nước Ma Kiệt Đà (Kosala) hoặc tịnh xá Trúc
Lâm và tịnh xá Linh Thứu nước Ma Kiệt Đà (Magadha).
Tương
truyền rằng Ma Ha Ba Xà Ba Đề và 500 phụ nữ nói trên, sau ba lần bị cự
tuyệt, một hôm nảy ra sáng kiến ngộ nghỉnh là tạo việc đã rồi để tỏ
thiện chí và quyết tâm sắt đá của mình: tự xuống tóc, khoác cà sa, bà và
500 phụ nữ ấy kéo nhau đến tịnh xá Na Ma Đề Kiện Ni là chỗ bấy giờ Phật
đương giáo hóa. Đến trước cổng tịnh xá, cả đoàn mệt lã người, nhất
quyết ngồi lỳ tại đấy. Tình cờ gặp ông A Nan đi ra, Ma Ha Ba Xà Ba Đề
năn nỉ với A Nan xin trình lại sự tình cho Phật biết.
Trước
nhiệt tâm hăng hái và ý chí tự nguyện cao độ ấy, Phật mới chịu đáp ứng
cho họ xuất gia. Phật còn buộc họ phải chấp nhận một số điều kiện tiên
quyết, căn cứ theo đó, Phật phương tiện chế thêm một số giới luật riêng.
Trong số các giới này, đứng đầu là Bát kỉnh pháp:
a.- Tỳ kheo ni phải y chỉ chúng Tỳ kheo mà cầu thọ giới cụ túc.
b.- Tỳ kheo ni cứ mỗi nữa tháng phải đến trú sở của chúng Tỳ kheo mà làm lễ. Thỉnh thầy giáo thọ.
c.-
Tỳ kheo ni mỗi năm một lần kiết hạ an cư. Nếu trong vùng không có chúng
Tỳ kheo nào thì tuyệt đối không được phép tự lập kiết hạ riêng.
d.- Tỳ kheo ni không được cử tội hay nói lỗi lầm của Tỳ kheo. Ngược lại, Tỳ kheo có quyền nói lỗi lầm của Tỳ kheo ni.
e.-
Tỳ kheo ni nếu lỡ phạm tội tăng tàng, phải tự mình xin sám hối trước
hai bộ chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni trong kỳ bố tát hàng tháng gần nhất.
f.-
Tỳ kheo ni dù đã thọ giới cụ túc lâu 100 trăm năm, nhưng đối với một Tỳ
kheo mới thọ giới vẫn phải cung kính đảnh lễ chắp tay vái chào.
g.-
Tỳ kheo ni sau mùa an cư phải đến trước Tỳ kheo xin chỉ những việc bất
xứng ý của mình, bất luận việc ấy đã được hoặc mắt thấy tai nghe hay ngờ
vực.
h.-
Tỳ kheo ni có điều gì cần hỏi Tỳ kheo mà nếu vì một cớ nào đó Tỳ kheo
không đáp, không được hỏi gặn thêm (Luật Tứ phần: Ni không được phỉ báng
Tăng).
Tám
kĩnh pháp trên đây được Phật phương tiện chế ra, vì ngài e ngại sự hiện
diện của nữ giới trong giáo hội có thể làm cho chánh pháp biến thể hoặc
điên đão.
Ma
Ha Ba Xà Ba Đề và 500 phụ nữ sau khi nghe Phật giao ước, thảy đều hoan
hỷ chấp thuận. Đây là những Tỳ kheo ni đầu tiên của Phật, mà đứng đầu là
Ma Ha Ba Xà Ba Đề. Một số trong nhóm này về sau cũng chứng quả rực rỡ
không thua gì nam giới.
Sau đó không bao lâu, Da du Đà La theo gương di mẫu cũng đi xuất gia và cũng được Phật chấp thuận.
3.- NHÂN DUYÊN CHẾ GIỚI LUẬT
Trong
một thời gian nọ, Phật đến giáo hóa tại nước Tỳ Xá Ly (Vaisàli) trên
sông Di Hầu (một chi nhánh sông Hằng), ở mạn bắc thị trấn Patna. Bấy
giờ, đức Phật trú tại giảng đường Trùng Các. Một hôm có một thanh niên
tên là Tu Đề Na, người thôn Ca Lan Đà, đã có vợ nhưng chưa có con, nhân
đến nghe Phật thuyết pháp mấy lần tại Trùng Các, được Phật nhiếp hóa,
liền xin theo Phật xuất gia. Phật đòi phải có sự ưng thuận của cha mẹ,
nhưng cha mẹ Tu Đề Na không khứng chịu vì lẽ y là con một, nếu cho đi
tu, sợ không có kẻ nối dõi tông đường. Tu Đề Na tuyệt thực sáu ngày
liền. Cực chẳng đã, cha mẹ y phải chấp thuận.
Sau
khi Tu Đề Na xuất gia không lâu, toàn vùng Tỳ Xá Ly gặp năm mất mùa,
nhân dân lâm vào tình trạng đói kém trầm trọng, Tu Đề Na đề nghị đưa một
số Tỳ kheo về sinh hoạt tại thôn nhà, vì Ca Lan Đà là vùng trù phú.
Nhân dịp này, Tu Đề Na gặp lại vợ cũ. Sau những ngày khắc khổ sống với
chúng tăng, giờ đây trở về gian nhà xưa, niềm ân ái trước kia vốn chưa
tắt hết lại được dịp sống dậy trong lòng. Trước lời cám dỗ đường mật đầy
khêu gợi của vợ, Tu Đề Na giao động tâm thần, bèn bị sa ngã.
Sự
việc đã lỡ, có người đem tâu trình Phật biết. Nhân đó, Phật cho triệu
tập tất cả chúng tăng và chế định giới luật, Ngài giảng cho chúng tăng
nghe về ý nghĩa của giới luật và sự lợi ích của sự trì giới: Phàm xuất
gia làm sa môn, không thể không giữ giới luật. Giữ giới có mười điều lợi
ích như sau:
1.- Được hòa hợp Tăng đoàn.
2.-Chúng Tăng được hoan hỷ.
3.- Điều phục được người ác.
4.- Biết tàm quý và nhớ đó được an vui.
5.- Không có điều phiền muộn trong đời hiện tại.
6.- Không có điều phiền muộn trong đời vị lai.
7.- Khiến kẻ vô đạo khởi được tín tâm.
8.- Khiến kẻ đã có tín tâm được tăng tiến.
9.- Khiến chánh pháp trụ thế lâu dài.
10.- Khiến tâm trở nên thanh tịnh mà không thối thất.
Năm
giới căn bản do Phật chế định trong dịp này là: không giết hại sanh
mạng (bất sát); không lấy của mà không có sự ưng thuận của người (bất dữ
thử); không giao dâm (bất dâm); không nói dối (bất vọng ngữ); không
uống rượu (bất ẩm tửu). Năm giới này cũng gọi là năm đại giới. Và đây là
lần đầu tiên từ khi thành lập tăng đoàn, Phật chế định giới luật răn
cấm đệ tử.
Mặc
dù đã có giới luật quy định, một số ít trong tăng chúng thỉnh thoảng
vẫn vấp phải. Tùy theo tánh chất nặng nhẹ của từng tội, tùy trường hợp
giảm khinh của từng hoàn cảnh, về sau Phật triển khai thành bốn giới Ba
la di, mười ba giới tăng tàn, hai giới bất định, ba mươi giới Ni tát kỳ
ba dật đề, chín mươi giới Ba dật đề, bốn giới Ba la di đề xá ni, bảy
giới diệt tránh, một trăm giới chúng học, cộng thành hai trăm năm mươi
giới của Tỳ kheo. Nếu là Tỳ kheo ni lại còn phải giữ thêm một trăm giới
nữa, cộng thành ba trăm năm mươi giới của Tỳ kheo ni.
Trong
các giới trên, nhẹ nhất là một trăm chúng học. Đây chẳng qua là những
giới quy định về các tế hạnh lặt vặt hàng ngày trong lúc đứng, đi, nằm,
ngồi v.v... Nặng nhất duy chỉ có một tội Ba la di mà đứng đầu là tội
gian dâm, thứ đến là tội trộm cắp, tiếp theo là tội giết người, cuối
cùng là tội nói lời hư dối. Phạm phải một trong bốn tội này thì không có
trường hợp giảm khinh, nhất thiết phải bị tẩn xuất khỏi đoàn thể tăng
chúng, nên gọi là Ba la di. Ba la di, Tàu dịch là Khí nghĩa là vứt bỏ.
Giới
là chế tài sanh hoạt của tăng đoàn, là mạng sống của Phật giáo, nhờ đó
mà giáo hội được thanh tịnh và thiện tâm của chư tăng mỗi ngày một
trưởng dưỡng. Vì vậy Phật dạy hễ giới còn là Phật còn, và tăng chúng
phải lấy giới làm thầy chỉ đạo, lấy giới làm đuốc soi đường. Lại cũng vì
vậy mà Phật còn quy định cho tăng chúng cứ mỗi tháng một lần, phải tập
hợp để thuyết giới và tụng giới, gọi là lễ bố tát.
Trên
đường tu hành, Phật triệt để khuyên răn đệ tử không nên tranh biện nhằm
mục đích thủ thắng. Vì tranh biện chỉ là một hình thức lý luận và càng
lý luận thì lại càng xa rời thực chất hồn nhiên. Chỉ có nhẫn nhục mới là
biện pháp thủ thắng chân chánh.
Giá
trị siêu việt sống động của biện pháp thủ thắng độc nhất vô nhị này
được Phật gói ghém trong lời di chúc của Trường Thọ Vương dặn con là
Trường Sinh đồng tử, trước khi bị Phạn Dự Vương hành hình:
"Nhẫn!
Nhẫn! Đó mới là đạo hiếu chân chánh mà người con hiếu phải theo. Không
nên kết oán, khiến nhân chuyền quả nối không bao giờ dứt. Điều tối khẩn
mà con phải ghi lòng tạc dạ là thực hành đại nguyện từ bi. Ngậm chứa
hung ác (Hàm hung), cưu mang nọc độc (Hoài độc), kết buộc hận thù (Kết
hận), mua chuốc oán cừu (Nhạ oán) là vun trồng họa hoạn thêm bền chặt
gốc rễ, muôn đời không nhổ lên được. Kẻ làm việc ấy không phải là người
con hiếu của cha. Con nên phải biết rằng từ bi của chư Phật bao hàm cả
trời đất, trong đó oán và thân đều bình đẳng. Trên hành trình tầm đạo
dấn thân và xả thân cứu chúng, cha còn áy náy lo sợ không đạt được đạo
hiếu. Nay giả sử con vì cha mà báo thù kết oán, việc làm của con rõ ràng
trái nghịch với hạnh nguyện của cha. Bất luận bằng hình thức nào, cha
cũng không thể chấp nhận cho con được lưu tồn ý nghĩ cừu oán trong lòng.
Con hãy ghi nhớ lời di ngôn này. Được như thế, con mới xứng đáng là
người con hiếu của cha".
Sở
dĩ Nhẫn được Phật không tiếc lời cổ xúy là vì chỉ có nhẫn mới dập tắt
được phiền não tranh chấp. Chỉ có nhẫn mới tạo được nếp sống an tịnh hòa
vui, khiến chúng sanh siêu phàm nhập thánh mà hòa đồng với bản thể chân
thật của vũ trụ.
4.- TỲ XÁ KHƯ PHÁT ĐẠI TÂM BỐ THÍ
Trưởng
giả Tu Đạt (Sudatta, cg. Anàthapindika) biệt hiệu là Cấp Cô Độc, vốn là
một hộ pháp vô cùng đắc lực của Phật như đã nói trong một đoạn trên,
thế mà ông lại có bà vợ vô cùng keo kiết tên là Tỳ Xá Khư (Visàkhà),
thường gọi là Lộc Mẫu. Hàng ngày thấy chồng lo cung phụng Phật và chúng
đệ tử, bà cho rằng Phật mê hoặc chồng bà để bòn rút của cải, bèn lập tâm
cương quyết không nhìn mặt Phật và chúng tăng. Mạt Lợi phu nhân (vợ vua
Ba Tư Nặc) biết được việc này, cho mời Tu Đạt vào cung bàn mưu tính kế
hóa giải. Tương truyền rằng việc hóa giải này được giao phó cho La Hầu
La, vì giữa Phật và Tỳ Xá Khư vốn không có thiện duyên từ các kiếp
trước.
Sau
khi hoá giải xong, Phật muốn thử lòng, một hôm mang bình bát đến khất
thực trước cổng nhà Tỳ Xá Khư. Tỳ Xá Khu đem cơm ra đơm đầy bình bát cho
Phật. Phật nói:
-
Gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn. Nhờ công đức
bố thí bát cơm này, nhà ngươi sẽ gặp được vô lượng phước báo.
Tỳ Xá Khư hỏi: Kẻ ngu phụ này không hiểu vì sao chỉ bố thí một bát cơm mà lại được phước báo nhiều như thế?
-
Nhà ngươi có thấy cây đại thọ Ni câu đà kia không? Thân cao ngất nghễu,
cành lá xum xuê, che phủ cả bốn năm dặm đường, mỗi năm hạt nó rụng
xuống đất, lấy hộc mà đong hàng vạn lần vẫn không hết, thế mà ban sơ chỉ
do một hạt nẩy mầm ra mà thôi!
Ví
dụ đơn giản này đã khiến được Tỳ Xà Khư lãnh hội trọn vẹn công đức bố
thí. Từ đó Tỳ Xá Khư và tất cả nhân dân trong thành Xá Vệ nô nức đua
nhau phát tâm hoan hỷ bố thí cúng dường Phật và chư tăng.
Từ
bản chất vô cùng keo lẫn, Tỳ Xá Khư trở thành vô cùng hào phóng, tìm
đến Kỳ Viên năn nỉ Phật xin được làm tám việc bố thí. Để kiểm chứng lại
thành tâm của bà, ban đầu Phật từ chối. Qua mấy hôm sau, Phật vặn hỏi lý
do của mỗi sự việc bố thí do bà yêu cầu và xét thấy quả thật bà đã giác
ngộ, Phật mới chuẩn nhận.
Tám việc bà yêu cầu được làm là:
a.-
Được bố thí tơi đi mưa cho tăng chúng, vì mỗi khi đi khất thực lỡ gặp
phải trời mưa, về đến tịnh xá nếu không có y khô thay liền, đành phải
thoát y để hong, thân mình trần truồng khó coi.
b.- Được bố thí các Tỳ kheo mới gia nhập tăng đoàn, vì thí chủ chưa quen mặt các vị này nên việc khất thực rất gian khổ.
c.- Được bố thí vật thực và tiền bạc cho các Tỳ kheo đi du hóa phương xa, phòng lỡ độ đường không có gì chi dụng.
d.- Được bố thí thuốc men cho Tỳ kheo lâm bệnh, vì lâm bệnh mà không chạy chữa kịp thời, dễ biến thành nguy kịch.
e.- Được bố thí vật thực thích đáng cho Tỳ kheo lâm bệnh, vì nhờ đó mà bệnh có thể mau thuyên giảm.
f.- Được bố thí vật thực cho Tỳ kheo săn sóc bệnh nhân, vì săn sóc bệnh nhân thì không có thì giờ để đi khất thực.
g.- Được dâng lúa mạch cho Tỳ kheo.
h.-
Được bố thí áo tắm cho Tỳ kheo ni, để khi ra sông tắm, thân thể khỏi
trần truồng, khác biệt với các hạng dâm nữ thường thấy tắm ở sông Hằng.
Mỗi
việc bố thí nêu ra đều có viện dẫn lý do xác đáng, Phật biết rằng Tỳ Xá
Khư quả thật đã phát tâm một cách chơn thành, bèn hoan hỷ chấp thuận:
"Nầy
Tỳ Xá Khư! Đến nay thì ngươi đã hiểu rõ công đức bố thí rồi đấy. Ngươi
không xả ly của cải thì khi chết, của cải cũng xả ly ngươi. Sao bằng xả
ly của cải để làm công đức, khiến cho của cải lại càng dồi dào bền chắc
hơn!"
Nhờ
công đức bố thí, về sau cả hai vợ chồng Tu Đạt đều nổi tiếng là Bố thí
đệ nhất, chồng đứng đầu trong hàng Ưu bà tắc, vợ đứng đầu trong hàng Ưu
bà di, và cặp vợ chồng này vẫn an hưởng phú quý trọn đời.
GIÁO PHÁP PHẬT TRONG SỨ MẠNG
KHẢI MINH SỰ SỐNG NHƯ THẬT
Suốt
đời Phật từ sau khi thành đạo, trọng tâm giáo hóa của Ngài luôn luôn
đặt ở một điểm xuất phát duy nhất: SỰ SỐNG. Có thể nói rằng cái thường
được mệnh danh là thành đạo, trong bản chất chính là sự sống hiện thực,
hồn nhiên và tròn đầy. Từ sự sống ấy tỏa chiếu dàn trải ra, đúc thành cả
một kho giáo lý sống động hàm súc và phong phú, trong đó không một lời
nói nào mà không phải là một lời nói như thật. Sự sống như thật có khải
minh được, thì mới đặt được con người nói riêng, chúng sanh nói chung
trở về trong quỷ đạo đích thực của nó, không để cho bất cứ một thành
kiến nào - dù là thành kiến được ngụy trang dưới danh xưng chân lý - làm
bế tắc mạch nguồn, mà khai thông cho dòng sống tràn tuôn triền miên bất
tận. Sư sống như thật ấy, Phật đã khải thị và minh xác trong nhiều
trường hợp khác nhau:
1.- TRƯỜNG HỢP MANG ĐỒNG TỬ
Mang
Đồng Tử (Malunkyaputra) đệ tử Phật, một hôm đang tĩnh tọa tư duy dưới
gốc cây trong vườn Cấp Cô Độc thì bổng vụt nảy ra ý nghĩ: "Có một vấn đề
tối quan trọng mà lâu nay Phật không hề đề cập đến và chính ta cũng
quên không gạn hỏi. Đó là vấn đề thế giới này là thường hay vô thường,
là hữu biên hay vô biên. Lại nữa, trong thế giới ấy, đức Như Lai sau khi
diệt độ, là còn có hay không còn có, hoặc là cũng có cũng không? Thế
nào ta cũng phải gạn hỏi xem Ngài có biết không? Có giải quyết được thắc
mắc này, ta mới có thể yên tâm theo Ngài tu học. Bằng không, ta sẽ cổi
áo hoàn tục không tu làm gì nhọc công vô ích!" Suy nghĩ như thế rồi tự
cho là đắc sách, Mang Đồng Tử liền đến xin Phật khai thị.
Phật nghiêm sắc mặt, vặn hỏi lại Mang Đồng Tử:
-
Trước khi theo ta tu học, có bao giờ ông đặt những điều đó làm điều
kiện tiên quyết buộc ta có giải quyết được thì ông mới tu không? Và có
bao giờ ta hứa với ông rằng ta sẽ dạy các ông những điều ấy không?
Sau khi quở trách Mang Đồng Tử, Phật cho gọi đại chúng lại, dạy rằng:
-
Này chư Tỳ kheo! Giả sử có kẻ ngu si nghĩ rằng nếu Phật không nói rõ
cho biết thế giới này là thường hay vô thường, là hữu biên hay vô biên
v.v... thì kẻ ấy không chịu gia công tu hành cho là vô ích; quan niệm
như thế, các ông nghĩ sao? Phải chăng là kẻ ngu ấy đã chết trước khi
chưa kịp biết gì hết không? Cuộc giải thoát của mỗi con người ra khỏi
kiếp đọa đày này, liên quan gì đến thế giới hữu biên hay vô biên hoặc
Như lai còn hay không còn sau khi báo thân Như lai diệt độ. Điều kiện kẻ
ngu si ấy đặt ra giống hệt như điều kiện của một kẻ ngu khác đương bị
trúng tên độc mà nhất quyết đòi phải tìm cho ra ai là người bắn tên độc
ấy, tung tích lý lịch ra sao, bắn tứ phương hướng nào lại v.v... chứ
chưa chịu để cho thầy thuốc rút ngay mũi tên ra và cấp tốc băng bó điều
trị vết thương cho kịp thời.
Này
chư Tỳ kheo! Dù thế giới này là hữu biên hay vô biên, là thường hay vô
thường v.v... thì chúng sanh cũng không vì thế khỏi bị ràng buộc bởi
muôn ngàn ưu bi của kiếp sống đọa đày trong sanh khổ, già khổ, bệnh khổ,
chết khổ. Nhằm mục đích tối thượng giải cứu kiếp sống đày ải ấy, ta mới
nói rõ bốn sự thật căn bản là Khổ đế, Tập đế, Diêït đế, Đạo đế. Bốn sự
thật căn bản ấy là đầu mối của phạm hạnh, cảnh tĩnh chúng sanh và mở cho
chúng sanh lối thoát đưa đến trí tuệ chân thật, giác ngộ chân thật,
giải thoát chân thật, mà khơi nguồn cho mạch sống lành mạnh tràn tuôn.
2.- TRƯỜNG HỢP LY XA BỘ TỘC
Bộ
tộc Ly Xa (Licchavi) là một bộ tộc thuộc dòng Sát đế Lỵ, lãnh chúa vùng
đất phì nhiêu Tỳ Xá Ly (Valsali) ở phiá bắc thành Ba Liên Phất
(Pataliputra) bên kia tả ngạn sông Hằng.
Một
hôm, Phật đến giáo hóa vùng này, đích thân chứng kiến một cảnh tượng
chém giết rùng rợn giữa hai phe tranh chấp một dòng nước. Hai phe có
ruộng nằm hai bên dòng nước ấy, phe nào cũng muốn chận riêng dòng nươc
lại, cho chảy vào cánh đồng có ruộng của phe mình. Không phe nào chịu
nhường nhịn phe nào. Cả hai, tay dao tay gậy hò reo xáp chiến, đánh nhau
u đầu lỗ trán. Một số chiến nạn đã chết nằm phơi thây sóng sượt bên
dòng nước, chẳng ai đoái hoài đến, vì tất cả còn mãi mê hăng say đánh
nhau. Giữa lúc ấy thì Phật đi đến, gạn hỏi nguyên do vụ tranh chấp lưu
huyết. Cả hai phe cùng trả lời với nội dung giống nhau. Phe nào cũng nói
vì sự sống riêng của phe mình mà quyết dành cho được dòng nước chung.
Phật giải thích cho tất cả nghe tánh chất trái thường nghịch lý của cuộc
tranh chấp ấy rồi giảng hòa cho hai phe:
-
Không ai tạo được sự sống cả, Ngài dạy. Thế mà ai cũng nhân danh sự
sống để trở lại tiêu diệt sự sống của nhau. Trong khi dòng nước chứa
giúp các ông điều kiện củng cố sự sống, thì chính các ông đã tự giết
chết sự sống của mình rồi. Mấy mạng người nằm sóng sượt kia là bằng
chứng. Hãy để cho dòng sống tự nhiên vương lên. Đừng ai dành riêng cho
mình hết thì mạch sống tự nó mới hoạt hiện một cách hồn nhiên.
3.-TRƯỜNG HỢP CỦA TẦN BÀ SA LA
Một
hôm vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) nghe lời xúi dục của giáo sĩ Bà la
môn, sắp cho giết cừu tại giáo đường, cạnh cung vua để tế thần chuộc
tội. Hay tin ấy, Phật vội vàng đến tìm gặp nhà vua để khuyên can.
Trước
sân giáo đường, một con cừu đực bị dùng làm vật hy sinh tế lễ, đã bị
buộc chặt vào cọc, đương kêu la bi thiết. Chung quanh cừu cái và cừu con
khiếp đảm, cũng cất tiếng kêu theo. Cạnh đó, một giáo sĩ Bà la môn thản
nhiên ngồi cặm cụi mài dao. Phật tiến đến hỏi giáo sĩ thì được ông này
giảng giải cho nghe lý do thiêng liêng giết cừu và nghi thức tế lễ. Ngài
đi tìm nhà vua, viện mọi lý lẽ chánh đáng can ngăn không nên tin nhãm:
-
Phàm tội lỗi, ai làm nấy chịu, không thể bắt súc vật chịu thay cho
mình. Muốn tránh tội lỗi, phương sách duy nhất là đừng gây ra nghiệp dữ.
Đã lỡ gây ra, chỉ còn một cách là chí thành sám hối. Có như thế mới gạn
lọc tâm mình trong sạch và không để cho tái phạm. Phi cách ấy ra, không
còn cách chuộc tội nào khác linh nghiệm hơn.
Quay sang giáo sĩ Bà la môn, Ngài bảo họ rằng:
-
Ai cũng tham sống. Thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng có thể giết
hại một cách dễ dàng. Mà có ai tạo được sự sống đâu? Dẫu muôn loài có
khác nhau, sự sống chỉ là một. Mình gây nên nhân thì cũng lại chính mình
thọ quả. Không thể lấy máu thú vật để rửa tội cho mình.
Theo
Phật dạy, sự sống có giá trị tối thượng và tuyệt đối thiêng liêng... Đó
là lời minh thị thiết tha nhất của Phật. Thiêng liêng, vì không có sự
sống thì không có gì hết. Và một khi sự sống đã bị đánh mất, cũng chẳng
ai cứu chữa nổi để hồi sinh trở lại. Câu chuyện Phật bảo người đàn bà có
đứa con mới chết, đang gào thét điên loạn, hãy đi xin cho ra một nắm
tro bếp của gia đình nào chưa có người chết đem về Phật làm phép cứu
sống cho, là một ngụ ý sâu xa rằng không ai không chết, và một khi đã
chết rồi thì gào khóc cũng vô ích, không cách gì làm sống trở lại được.
Vì vậy, khi sự sống đang phơi phới vươn lên, tuyệt đối không được phép
xâm phạm đến. Và để khỏi đánh mất nó, trong ngụ ngôn khác về việc con
chim bị Đề Bà giết hụt bay đến tìm sự che chở trong lòng thái tử Tất Đạt
Đa rồi bị Đề Bà đến tranh dành lại, Phật đã hạ một lời phán quyết rõ
ràng:
-
Nếu sự sống có giá trị thật, thì người đã cứu sống một con vật, đáng
giữ gìn hơn là người định tâm giết nó. Chỉ có người cứu sống nó mới có
quyền chăm sóc nuôi dưỡng.
Trên
thế gian này, ngoài sự sống và những gì nhằm mục đích phục vụ sự sống,
chẳng có gì đáng gọi là thiêng liêng cao cả. Nên Phật đã khẳng định một
cách dứt khoát:
"AI CŨNG THAM SỐNG, AI CỦNG SỢ CHẾT
CHỚ GIẾT, CHỚ BẢO GIẾT"
GIÁO PHÁP PHẬT TRONG SỨ MẠNG
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG THUẦN LƯƠNG
Hiệu
năng của giáo pháp Phật không chỉ riêng nhằm một mục đích tối cao duy
nhất là khai thông dòng sống mà mưu cầu giải thoát chúng sanh ra khỏi
ràng buộc của sanh tử luân hồi. Trọng tâm thứ hai của giáo pháp Phật là
nhằm thuần lương hóa đời sống xã hội trên bình diện luân lý. Phong tục
tập quán của xã hội Ấn độ trong thời Phật, chính nhờ giáo pháp Ngài mà
cải đổi rất nhiều. Nhân tâm cũng nhờ đó mà trở nên thanh khiết hơn. Có
ba trường hợp điển hình rất đáng ghi nhớ:
1.- TRƯỜNG HỢP ƯU ĐÀ DI
Ta
còn nhớ Ưu Đà Di (Udàyin) là vị đại thần sủng ái của Tịnh Phạn Vương.
Ông là một tay đắm say hoa nguyệt, nổi tiếng ăn chơi. Thời Phật còn là
thái tử, chính ông đã hiến kế cho Tịnh Phạn Vương bày trò hoa nguyệt tại
rừng Ni Câu Đà ở ngoài thành Ca Tỳ La để mê hoặc thái tử. Cũng chính
ông phụng mạng Tịnh Phạn Vương sang Xá Vệ dò la tin tức để rước Phật về
thăm quê. Sau khi Tịnh Phạn Vương băng hà, ông xin theo Phật xuất gia
làm đệ tử, đổi danh hiệu là Ca Lưu Đà Di (Kàlodayin). Quen thói đàng
điếm ăn chơi, ông nhiều phen phạm tội ghẹo nguyệt trêu hoa. Lợi dụng
tình bằng hữu với vua Ba Tư Nặc, ông ra vào vương cung tự do, lén nhìn
trộm Mạt Lợi phu nhân thay quần áo buổi sáng, rồi ra khoe với chúng
tăng. Ông dang díu với một cô gái Bà la môn nhưng sau vì sợ công việc
bại lộ bèn kiếm cách lánh mặt, bị phụ thân cô gái này tập hợp dân chúng
trong thôn lại vây đánh ở bờ sông v.v...
Tiếng
đồn tới tai Phật, ông bị Phật quở trách rất nặng. Tuy nhiên Phật vẫn
rất thương mến ông và tận tình giáo hóa ông, không cho ông rời Phật nữa
bước. Nhờ đó về sau, ông cải đổi tánh tình hoàn toàn. Hành chánh và
ngoại giao vốn là nghề riêng của ông trước kia, nay xuất gia, ông giúp
Phật rất đắc lực trong việc tổ chức nền móng tăng đoàn và thuyết phục
quần chúng bình dân theo Phật. Ở đâu có rắc rối, ông cũng thân hành đi
giải quyết và sau khi được ông giải quyết là mọi việc êm xuôi. Gia đình
nào có việc lộn xộn, ông cũng đến phân xử và sau khi được ông phân xử là
gia đình trở lại hòa thuận. Ông rất lanh lợi mẫn tiệp, nhưng đáng tiếc
vì nghiệp nhân đàng điếm quá khứ của ông quá sâu dầy, nên về sau ông
chết dưới tay một gian phu chỉ vì thiện chí của ông muốn cứu dâm phụ ra
khỏi tội ác.
2.- TRƯỜNG HỢP NGỌC DA
Ngọc
Da là con trưởng giả Thủ La, người thành Vương Xá được trưởng giả Tu
Đạt cưới làm vợ cho người con thứ bảy của ông. Gia đình Thủ La là gia
đình Phật hóa. Gia đình Tu Đạt, sau khi Tỳ Xá Khư (vợ Tu Đạt) được Mạt
Lợi phu nhân khéo léo sắp đặt để bà quy ngưỡng Phật, cũng là gia đình
Phật hóa. Cả nhà hai vợ chồng, bảy trai và sáu dâu đều thâm tín Phật,
duy chỉ Ngọc Da là cô dâu thứ bảy cương quyết chống báng.
Thể
theo lời yêu cầu của Tu Đạt, Phật dẫn chúng tăng đến tận nhà mở hội
thuyết pháp để giáo hóa Ngọc Da. Nàng biết ý lánh mặt trốn vào xó tường.
Nhưng âm vang giọng nói từ hòa của Phật, hào quang rực rỡ của Phật đã
soi thấu tâm cang của Ngọc Da khiến nàng lần hồi tỉnh ngộ, cuối cùng
buộc lòng phải xuất đầu lộ diện.
Để đối trị tánh cao ngạo của Ngọc Da, Phật dạy:
-
Làm thân phụ nữ dù đẹp đến đâu (Ngọc Da nổi tiếng đẹp) cũng không có lý
do gì để cao ngạo, vì phụ nữ có ba điều khuyết hãm và mười món nghiệp
chướng.
Ba
điều khuyết hãm là : khi chưa lấy chồng thì bị cha mẹ gò bó, không được
tự do như nam giới; lớn lên đi lấy chồng thì phải tùy thuận chồng,
riêng mình không có tự do; về già tóc bạc răng long thì thường bị dâu
con tiếng nặng tiếng nhẹ, cũng chẳng có gì là tự do.
Mười
món nghiệp chướng tập trung xung quanh quan niệm trọng nam khinh nữ của
xã hội nông nghiệp, xung quanh sứ mạng sanh đẻ thiên nhiên của phụ nữ,
và nhất là xung quanh bản chất đa cảm nông nỗi và yếu đuối của thân tâm
phụ nữ. Vì vậy đối với chồng, người đàn bà đẹp là người đàn bà biết làm
tròn bổn phận của người mẹ, của bề tôi, của em gái, của nô tỳ và của
người vợ. Người phụ nữ phải thương yêu chồng như cha mẹ thương yêu con;
phải ăn ở trọn nghĩa với chồng như bề tôi thờ chúa; phải dịu dàng kính
trọng chồng như em gái kính trọng anh ruột; phải tận tâm phục vụ chồng
như kẻ hầu hạ phục vụ chủ nhà và tân khách; phải xem gia đình chồng là
gia đình mình, vì phải trọn đời cùng nhau ăn ở, chung vui chung buồn. Có
như thế mới mưu cầu được hạnh phúc gia đình.
Ngọc
Da vở lẽ, từ đó hết cao ngạo, xin Phật cho thọ giới Ưu bà di, khiến
toàn gia đình trưởng giả Tu Đạt được sống trong cảnh gia đình hạnh phúc
hòa vui.
3.- TRƯỜNG HỢP THIỆN SANH
Thiện
Sanh là con trưởng giả giàu có ở trong thành Vương Xá (còn gọi là La
duyệt kỳ). Theo di ngôn của cha mẹ, mỗi sáng Thiện Sanh ra vườn, quay
mặt về sáu hướng mà làm lễ Lục phương. Công việc hàng ngày ấy, Thiện
Sanh làm như cái máy, tuyệt nhiên không hiểu ý nghĩa ra sao.
Phật
nhân lúc mang bình bát đi khất thực, chợt trông thấy bèn gọi Thiện Sanh
dạy vẽ mọi điều. Ngài khai thị cho Thiện Sanh biết về lẽ đắc thất,
trường đoản của bốn loại kiết nghiệp (sát, đạo, dâm, vọng) và sáu loại
tổn tài ( rượu chè, ăn chơi, phóng đảng, múa hát, bạn xấu, biếng nhác)
v.v... Phật bảo Thiện Sanh nên tiếp tục làm lễ Lục phương như lời cha mẹ
y trăn trối, nhưng lồng vào việc hành lễ ấy một ý nghĩa luân lý có tác
dụng giáo dục rõ ràng. Như lạy phương đông là cốt để tỏ lòng hiếu kỉnh
cha mẹ; lạy phương tây là cốt để tỏ lòng tri ân thầy bạn; lạy phương nam
là cốt để tỏ lòng kính yêu và nhường nhịn giữa vợ chồng; lạy phương bắc
là cốt để tỏ lòng mến phục lân mẫn đối với thân bằng; lạy phương hạ là
cốt để tỏ lòng thương xót nô bộc; lạy phương thượng là cốt để tỏ lòng
ngưỡng mộ sa môn. Mỗi lần lạy là một lần niệm ân để nhắc nhủ mình cư xử
thế nào cho hợp lẽ.
Từ
phép lạy Lục phương của Bà la môn có lẽ với dụng ý cầu tài cầu lợi,
Phật đã phương tiện chuyển đổi ý nghĩa thành một phép tu mà không cải
đổi mảy may hình thức, khiến tục lệ khỏi bị xáo trộn. Thật là phương
tiện thiện xảo. Từ đó Thiện Sanh quy y theo Phật và trở nên người gương
mẫu trong xã hội.
NGHỊCH CẢNH ĐẦU TIÊN CỦA PHẬT
Sự
đời vốn vô thường. Có thịnh thì có suy, có đầy thì có vơi. Từ ngày Phật
thành đạo và khởi chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, giáo
pháp Ngài lan truyền với một tốc độ phi thường khắp miền Trung Ấn, từ
Ma Kiệt Đà đến Kiều Tát La, nghĩa là khắp vùng trù phú của lưu vực sông
Hằng. Đây cũng chính là chốn chôn nhau cắt rún của nền văn minh Ấn Độ có
từ ngàn xưa, trước khi Phật ra đời. Đệ tử Phật, cả xuất gia lẫn tại
gia, gồm đủ bốn giai cấp Bà la môn, Sát đế lỵ, Phệ Đà và Thủ Đà la. Tín
đồ kể có hàng ức ngàn người, trên từ vua chúa quyền quý cao sang nhất
đời như Tần Bà Sa La và Ba Tư Nặc, dưới phổ cập đến bần dân ty tiện như
chàng hốt phân Ni Đề hay cô gái điếm Liên Hoa Sắc (sẽ nói trong mục
Thánh Chúng).
Với
một sức sống mãnh liệt như nước nguồn trào tuôn, giáo pháp Phật cuốn
phăng tất cả rác rưới của xã hội Ấn Độ hậu Phệ Đà mà nghiễm nhiên chiếm
địa vị ưu thế, chi phối gần trọn hết mọi hoạt động tư tưởng của Ấn Độ
thời bấy giờ. Ngoại trừ Kỳ Na giáo của giáo chủ Mahavira, tất cả ngoại
giáo Ấn Độ đều bị đánh bại. Bi đát nhất là Bà la môn giáo, một tôn giáo
đã từng chiếm địa vị độc tôn tuyệt đối ở Ấn độ trải qua hàng chục thế kỷ
trước đó.
Tình
hình bắt đầu nguy kịch và nghẹt thở đối với họ là khi có vị đạo sĩ Ba
la môn đầu tiên xé rào qua theo Phật giáo. Đạo sĩ ấy tên là Bà Tư Tra.
Mưu gian hãm hại Phật manh nha nẩy sinh bắt đầu từ đấy.
Các
lãnh tụ Bà la môn trong thành Xá Vệ dùng tiền bạc, vải vóc mua chuộc
một thiếu nữ tên là Chiến Già (Cinca), sắp đăït mưu kế cho cô ta hàng
ngày theo gót chúng tín nữ đến nghe Phật thuyết pháp tại tịnh xá Kỳ
Viên. Một hôm, sau khi nghe giảng đến chiều tối, Chiến Già cùng với
chúng tín nữ trở về thành Xá Vệ, nhưng vừa về đến nhà lại thay đổi xiêm y
cực kỳ rực rỡ rồi lén quay trở lại hướng Kỳ Viên, vào tá túc tại một tu
viện ngoại đạo gần đấy. Sáng hôm sau chúng tín nữ trong thành Xá Vệ đến
Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp thì gặp Chiến Dà từ Kỳ Viên đi ra. Hỏi đi
đâu sớm thế, thì cô ả bảo hôm qua ngủ trong hương điện của Phật, giờ
đây cần đi ra ngoài có việc.
Từ
đó về sau, bụng cô ả cứ mỗi ngày mỗi thấy nhô to lên. Cách đó bảy tám
tháng, một hôm Chiến Già đang cùng chúng tín nữ ngồi nghe Phật giảng
dạy, bỗng vụt đứng dậy tiến tới trước mặt Phật mà nói rằng:
-
"Phật có biện tài vô ngại, nói pháp rất hay, nhưng không làm được tích
sự gì. Trách vụ người chồng là phải lo toan kiến lập một cái nhà riêng
cho vợ ở cử, thế mà hẹn hoài vẫn chưa thấy gì cả. Nay vợ bụng mang dạ
chửa như thế này mà nhà đẻ vẫn chưa có, thật là người bạc tình".
Thính chúng nghe nói rất đổi xôn xao kinh hoàng. Phật vẫn ngồi an nhiên bình thản nhìn Chiến Già mà nói rằng:
- "Này cô em! những lời cô em thổ lộ ra đó, thật hay giả, chỉ có cô em và ta biết mà thôi".
Chiến Già cũng bình thản trả lời:
- "Thật vậy, chỉ có đôi ta mới rõ thấu sự tình mà thôi".
Mọi
người xô nhau đứng dậy. Giữa cuộc náo loạn, một cục gỗ lép từ bụng cô ả
rơi xuống đất. Tất cả chú mục nhìn vào cô ả, thấy bụng cô ả lép xẹp.
Mưu gian bị bại lộ, cô ả xấu hổ chạy trốn và Phật tiếp tục thuyết pháp
như không có gì xảy ra.
Một
lần khác, Bà la môn lại cho một cô gái tên là Tôn Đà Lỵ, cũng hằng ngày
đến nghe Phật thuyết pháp, rồi thuê một số dũng phu vô lại ám sát cô
ta. Chúng lợi dụng đêm tối, vác xác cô mai táng bên hông Kỳ Viên. Tôn Đà
Lỵ là con một đạo sĩ Bà la môn cao cấp, bị cha hy sinh dùng làm lợi khí
đấu tranh. Hôm sau, cha cô trình nhà chức trách về sự mất tích bí mật
ấy. Sau khi điều tra và phát giác tử thi, Bà la môn bèn tuyên truyền
rằng tăng đoàn của Phật có kẻ dan díu bậy bạ với cô gái, nhưng rồi sợ
việc làm bất chinh bị đổ bể, nên mới nhẫn tâm hạ sát để ém nhẹm. Việc
này đồn tới tai vua Ba Tư Nặc. Nhà vua biết ngay là mưu gian, ráo riết
cho điều tra, phanh phui ra sự thật, bắt được kẻ chủ mưu (chính cha cô
ấy) và hung thủ, đem ra pháp trường ngoài thành trừng trị.
Lại
một lần khác, Phật đến giáo hóa tại thành Câu Lỵ, thủ phủ của vua Thiện
Giác. Gặp Phật đang mang bình bát đi khất thực, Thiện Giác nổi dóa,
dùng lời thô bạo mạ lỵ Phật không tiếc lời:
-
Ông còn dám vác mặt đến thành này khất thực nữa à? Ta sẽ hạ lệnh cho
nhân dân trong thành không cung cấp cho ông một hột cơm. Ông không nghĩ
đến quốc gia, không đoái hoài cha mẹ, không thương xót vợ con. Ông hãy
mau mau ra khỏi địa phương của ta.
Trước những lời thóa mạ của vua Thiện Giác, Phật vẫn an nhiên tự tại và từ hòa đáp lại:
-
Yêu cầu ngài không nên nhục mạ tôi một cách sai lầm như thế. Tôi xuất
gia học đạo không phải vì không nghĩ đến quốc gia, không đoái hoài cha
mẹ, không thương xót vợ con. Tôi lấy cả vũ trụ làm quốc gia, lấy tất cả
chúng sanh làm cha mẹ, anh em, vợ con. Ngày nay tôi đã thành tựu chí
nguyện ấy. Tôi đã thành Phật, nghĩa là đã hòa đồng với vũ trụ thành một
thể, đem từ bi bao trùm khắp tất cả, không phân biệt kẻ thân người sơ.
Ngài là chủ thành Câu Ly; tôi là Phật của nhân gian. Ngài yêu thương dân
chúng trong thành ngài thế nào thì tôi cũng yêu thương tất cả chúng
sanh của tôi như thế ấy. Ngài có dụng tâm của ngài; tôi có dụng tâm của
tôi. Dụng tâm của ngài là ở nơi tình thương yêu riêng tư. Tôi cảm thông
và cũng rất tán đồng dụng tâm ấy. Nhưng đối trước chân lý thì dụng tâm
ấy đành phải xả bỏ. Ngài hãy nghĩ kỹ thì hẳn sẽ rõ vì sao. Thành này
không phải vĩnh viễn của ngài. Lương thực trong thành không phải sở hữu
riêng của một người. Chỉ có một điều duy nhất mà ngài phải nhận là sở
hữu riêng của ngài. Đó là hạnh nghiệp thiệc ác do chính ngài gây ra.
Nhân dân, lương thực, có ngày ngài phải ly khai. Hạnh nghiệp thiện ác do
ngài gây ra, sẽ luôn luôn theo sát gót chân ngài.
Vua Thiện Giác nói qua, Phật đáp lại, chẳng ai nghe ai. Sau đó bảy hôm, Thiện Giác Vương mắc phải bạo bệnh rồi chết.
1.- ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA PHẢN NGHỊCH
Đệ
tử xuất gia của Phật có nhiều hạng. Có hạng thánh giả như Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp cầm đầu chúng Tỳ kheo hoặc Ma Ha Ba Xa Ba Đề
cầm đầu chúng Tỳ kheo ni, đủ sức nhiếp phục hai chúng tại gia, bất cứ là
quốc vương, đại thần, học giả và thường dân. Đối với hàng thánh giả ấy
không ai là không mến phục. Nhưng trong số đệ tử xuất gia cũng có hạng
người kém cỏi, bất tiếu. Bất tiếu nhất trong hạng sau là Đề Bà Đạt Đa,
là con trưởng của Bạch Phạn Vương, anh ruột của A Nan, em con chú của
Phật, cùng xuất gia trong số bảy vương tử (Đề Bà, An Nan, A Na Luật, Bà
Sa, Bạt Đề, Nan Đà, La Hầu La) trong ngày Phật về thăm thành Ca Tỳ La
lần đầu tiên. Đề Bà có dã tâm mưu đoạt tăng đoàn của Phật và thay Phật
lãnh đạo tăng đoàn ấy. Y thường quá ngôn lộng ngữ, bài xích Phật. Tuy
nhiên, Phật vẫn một lòng từ ái khuyên bảo, nhưng tánh nào tật ấy vẫn
không bỏ.
Một
hôm, Đề Bà yêu cầu Phật dạy cho y luyện phép thần thông, Phật bảo y nên
luyện nhân cách cho hoàn bị đã, rồi sẽ dạy cho luyện thần thông sau. Y
không bằng lòng, bèn đến cầu học với Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Hai
ngài này cũng không chịu dạy mà chỉ khuyên y nên quán sát khổ, vô
thường, vô ngã. Từ đó, y khởi tâm âm mưu phá hoại giáo đoàn và hãm hại
Phật.
Một
hôm, Phật đang tọa thiền trong động Khâm bà la dạ xoa trên núi Kỳ Xà,
ngoài thành Vương Xá, Đề Bà dùng tiền lung lạc một sốn thanh niên lực
lưỡng, thuê họ đến ám sát Phật. Các thanh niên này vào động, thấy Phật
bỗng nhiên lòng sanh sợ hãi, nhắm mắt phủ phục trước mặt Phật rồi lấy
dao dâng nạp và xin quy y.
Mấy
hôm sau, Phật từ núi Kỳ Xà trở về thành Vương Xá, Đề Bà sai đệ tử của
mình tay dao tay gậy đón đánh Phật. Nhưng khi Phật đến gần, chúng không
dám động thủ, Phật gạn hỏi bọn họ lý do vì sao tập họp đông đảo, bọn họ
đáp rằng được nghe Đềø Bà cho người ám sát Phật, nên đến đây để bảo vệ
Phật. Phật cười bảo họ nên giải tán, vì dao gậy không bảo vệ được sanh
mạng của Phật mà chỉ có giới luật thanh tịnh mới bảo vệ nổi mà thôi.
Một
lần khác, Phật và A Nan cùng đi dưới chân núi Kỳ Xà. Đề Bà rình từ trên
núi cao trông thấy bèn xô một tảng đá xuống, quyết hại cho được Phật. A
Nan kinh hoàng chạy tránh nhưng Phật cứ điềm nhiên tiếp tục tản bộ như
không có việc gì xảy ra. Tảng đá lớn rơi ngay bên cạnh Phật mà không hề
hấn gì.
Lại
một hôm, Phật và A Nan đang đi bộ, bỗng thấy Đề Bà dẫn đầu đệ tử của y
xăm xăm tiến tới nói là để nghênh tiếp Phật. Phật bỏ tránh đi qua lối
khác. A Nan ngạc nhiên hỏi, được Phật trả lời rằng, không phải ngài sợ
Đề Bà, nhưng nên tránh y như tránh chó dữ cắn càn.
Bao
nhiêu âm mưu hãm hại Phật của Đề Bà thảy đều thất bại. Y bèn nghĩ rằng,
phải dựa vào thế lực chánh trị mới phá nổi Phật mà cướp lấy tăng đoàn.
Vì vua Tần Bà Sa La là đệ tử rất trung thành của Phật, ngày nào nhà vua
còn trị vì thì y chưa thi thố được mưu độc, y vụt nghĩ ra một kế đại
gian ác, là kết giao thân mật với A XàThế (con vua Tần Bà Sa La) rồi xúi
dục và sắp đặt cho A Xà Thế giết cha để cướp ngôi. A Xà Thế đối với Đề
Bà tỏ ra rất mực cung kính, xây cất cho Đề Bà một tăng viện nguy nga
trong vùng phụ cận thành Vương Xá. Hằng ngày, A Xà Thế cho xe chở mọi
thứ vật thực đến cúng dường Đề Bà. Nhờ thế lực đó, Đề Bà mộ được một đội
chúng lớn lao gồm năm trăm đệ tử, rồi khiến họ tôn mình lên ngôi giáo
chủ. A Xà Thế và Đề Bà trù tính với nhau rằng sau khi kế hoạch thành
tựu, A Xà Thế thừa kế vua cha canh tân lại nền chánh trị nước Ma Kiệt
Đà, còn Đề Bà thì thừa kế Phật, đứng lên canh tân nền đạo giáo và thống
lãnh giáo đoàn của Phật.
Sau
khi A Xà Thế lừa bắt được vua cha đem tống ngục giam đói, Đề Bà xúi A
Xà Thế thả voi điên ra hại Phật trong khi Phật đang mang bình bát đi
khất thực trong thành Vương Xá. Chúng tăng nhìn thấy voi điên từ xa xồng
xộc chạy đến, thảy đều kinh hoàng, tán loạn chạy tránh. Riêng Phật vẫn
điềm nhiên bất động. Khi voi điên vừa thấy Phật, nó liền dừng lại, quỳ
gối xuống đất, Phật thọ pháp tam qui cho nó, vỗ về nó rồi tiếp tục hành
trình.
Sau
khi A Xà Thế chính thức lên ngôi và biết chắc rằng Tần Bà Sa La đã chết
đói trong ngục tối, Đề Bà dương dương tự đắc, trân tráo dẫn chúng đệ tử
của y đến yết kiến Phật, yêu cầu Phật triệu tập tăng đoàn lại cho y
tuyên cáo. Y nói Phật nay tuổi già sức yếu, cần phải bảo trọng thân thể,
vì vậy Phật nên thối ẩn, trách nhiệm lãnh đạo tăng đoàn từ đây sẽ do y
phụ trách. Phật từ hòa đáp lại:
-
Đề Bà lo âu cho ta, việc ấy rất phải đạo.Vậy sau khi ta thối ẩn, các
cao đệ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên và Đại Ca Diếp sẽ lần lượt thừa kế ta
lãnh đạo tăng đoàn, vì chỉ có các vị này mới đủ sức. Còn nhà ngươi nên
đem tất cả không tâm ra mà tiếp tục học tập với các vị ấy.
Thất
bại keo này, Đề Bà bày keo khác. Cùng với đệ tử thân tín là Câu Ca Lỵ, y
đề xướng giáo pháp năm điều nhằm cải tạo toàn bộ sinh hoạt tăng đoàn:
a.- Tỳ kheo mặc áo may bằng giẻ rách vá lại.
b.- Tỳ kheo mỗi ngày ăn một bửa.
c.- Tỳ kheo không ăn mặn
d.- Tỳ kheo không tới nhà thí chủ thọ cúng.
e.- Tỳ kheo mùa hè ở ngoài trời, mùa đông về am tranh.
Có
A Xà Thế làm hậu thuẩn với giáo pháp khổ hạnh do y đề ra, Đề Bà tin
rằng phen này chắc chắn sẽ hạ được Phật mà thủ thắng. Y không hiểu rằng
tinh túy của giáo pháp Phật nằm ở Trung đạo, xa lìa hai cực đoan khổ
hạnh và khoái lạc. Đói ăn khát uống là việc tự nhiên. Ăn gì cũng được , ở
sao cũng được, miễn không chấp trước. Tinh thần Trung đạo thể hiện ngay
nơi sự không chấp trước ấy, chớ không phải ở nơi hình thức cứng đờ khô
chết.
Đa
số đệ tử Phật đã thấm nhuần tinh thần Trung đạo, nên năm điều của Đề Bà
khởi xướng chẳng ai thèm nghe. Đề Bà xoay lại hỏi em ruột mình là A
Nan, thì bị A Nan thóa mạ không tiếc lời. Uất ức vì bị chính em ruột cự
tuyệt, y dẫn đệ tử bỏ đi. Từ đó mất tích luôn, có thuyết cho rằng y chết
một cách thê thảm, nhưng không rõ chết như thế nào. Có thuyết cho rằng y
bị đọa xuống địa ngục Vô gián vì tội đại nghịch của y.
2.- A XÀ THẾ SÁM HỐI
A
Xà Thế (Ajàtasatru) và Đề Bà Đạt Đa giao du thân mật với nhau đến thế,
mà khi Đề Bà chết, A Xà Thế vẫn không tỏ ra bi ai. Rồi với ngày tháng
trôi qua, mọi sự cũng lắng quên dần.
Một
hôm, A Xà Thế nằm mộng thấy cha y hiện hồn về, đôi mắt đăm chiêu từ ái
nhìn y. Không những hồn vua cha không tỏ ra mảy may oán hận mà lại còn
như van nài năn nỉ y nên cải ác tùng thiện, sớm hối ngộ theo chánh đạo
quang minh. Tỉnh dậy, A Xà Thế suy tư về giấc mộng, so sánh cảnh vừa
thấy trong giấc chiêm bao và cảnh mình tàn nhẫn giết cha, lòng vô cùng
bàng hoàng bức rứt khó chịu.
Một
hôm khác, cùng ngồi ăn với mẹ là bà Vi Đề Hy (Vaidchi), đợi mãi không
thấy con trai đầu lòng ngồi vào bàn ăn, A Xà Thế cho người đi tìm thì
được biết cậu đang chơi với chó và nhất định không chịu ăn, nếu không
được phép đem chó vào ngồi bàn cùng ăn. Chiều con, A Xà Thế chấp nhận.
Ăn xong, A Xà Thế than với mẹ rằng người ngồi ăn chung với chó trông
thật là kỳ.
- Việc ấy có gì lạ! Vi Đề Hy nói. Nhà ngươi vì thương con mà ngồi ăn với chó, chưa bằng cha nhà ngươi khi
xưa vì thương nhà ngươi mà hút mủ. Nhà ngươi nên biết lúc còn nhỏ, nhà
ngươi đau lóng tay sưng vù. Đau lóng tay là một bệnh nhức nhối ác liệt
lắm vì cái nhọt nằm dưới móng cứng không cương mủ được. Suốt ngày đêm,
nhà ngươi khóc lóc gào thét không chợp mắt. Cha nhà ngươi bế ngươi để
lên đầu gối, dùng miệng mút tay nguơi để chuyền hơi ấm qua, khiến cho
cái ung nhọt chóng cương mủ và lóng tay đở đau. Mút tay để ủ nóng như
thế trong nhiều ngày, mủ mới chịu cương; rồi khi mủ chín, cha ngươi lại
mút mủ ra. Nhờ đó nhà ngươi mới lành bệnh. Nên biết rằng bệnh đau lóng
tay không nặng, nhưng hành hạ thân xác con bệnh chịu không nổi. Ai có
đau lóng rồi mới biết nổi đau đớn ấy. Kể lại câu chuyện cũ để nhà ngươi
biết lòng cha ngươi xưa kia thương yêu ngươi đến mức nào! Chắc chắc còn
hơn nhà ngươi ngày nay vì thương con mà phải chấp nhận ngồi ăn chung với
chó!
Nghe
xong câu chuyện, A Xà Thế thấy lòng mình như có một tảng đá lớn ngàn
cân đè lên buồng tim lá phổi. Sau đó ít lâu, A Xà Thế mắc phải bệnh ghẻ,
lở lói đầy mình, ngứa ngáy không ngủ được. Ông nghĩ rằng đây chắc là vì
nghiệp báo giết cha mà khiến phát sanh ra. Trong số đại thần, có nhóm
Lục sư ngoại đạo như bọn ông Nguyệt Xưng tìm cách trấn tỉnh nhà vua rằng
bệnh ấy do khí huyết sở sanh, chứ không dính dáng vì đến nghiệp báo vớ
vẫn. Nhưng mọi lời an ủi đều vô hiệu. A Xà Thế đau khổ vì bệnh ghẻ thì
ít, mà đau khổ vì hối hận thì nhiều. Ông bèn cho gọi ngự y Kỳ Bà đến. Kỳ
Bà một mặt lo chữa trị thân bệnh, một mặt khuyên nhà vua nên tìm Phật
chữa trị tâm bệnh. Nhớ lại những sự cấu kết độc ác xằng bậy với Đề Bà
khi xưa, ông ngần ngại không dám đến, sợ Phật cự tuyệt. Nhờ Kỳ Bà ra
công thuyết phục ráo riết, A Xà Thế mới vững tâm chịu nghe theo, nhưng
lại ngại rằng tội nghiệp mình quá sâu dày, e Phật cũng không cứu nổi. Kỳ
Bà lại ra công khuyến dụ, nói cho A Xà Thế biết chỉ có hạng xiển đề
(hạng người không tin nhân quả, đã đoạn thiện căn) thì quả tình Phật
không cứu được. Nhà vua nay biết hối hận đến mức ấy thì tức là không
phải thuộc hạng xiển đề.
Do lời thuyết dụ của Kỳ Bà, A Xà Thế sau một thời gian suy tính hơn thiệt, đến xin yết kiến Phật:
- Bạch Phật, xin ngài soi xét tâm tôi. A Xà Thế nói.
- Tốt! Ta đợi đại vương từ lâu rồi.
A
Xà Thế thất kinh, phủ phục dưới chân Phật, đem tất cả tội lỗi mình ra
trần tình, không sót mảy may và xin Phật từ bi cứu độ. Phật dạy:
-
Trên thế gian này chỉ có hai hạng người đạt được hạnh phúc chân thật.
Một là hạng người chuyên tu thiện nghiệp không tạo tội ác. Hai là hạng
người tuy đã tạo tội ác, nhưng chí thành sám hối. Đã chí thành sám hối
thì không còn tạo tội mới nữa. Hai bên không khác gì nhau. Tội nghiệp
không có thật thể. Nếu quả lòng chí thành thì đạt được không tâm, mà tâm
đã không thì tội cũng tiêu. Hiểu rõ tâm và tội vốn hư huyễn không thật,
đó là sám hối chân thật. Từ nay, đại vương hãy từ bỏ phi pháp và chỉ
nên lấy chánh pháp trị dân. Không nên thi hành chánh sách bạo ngược mà
chỉ nên dùng đức hóa dân. Thực hiện chánh trị nhân ái, tiếng lành đồn
xa, đức tốt nhuần thấm, nhân dân an lạc, trăm họ đề huề, đó là nguồn
khoái lạc chân chánh của bậc thánh vương. Tiến thêm một bước nữa, nếu
chịu khó tu học pháp môn trung đạo của ta, nhà vua còn có thể chứng được
giải thoát.
Từ
đấy, A Xà Thế quy y Phật, bệnh mỗi ngày thuyên giảm rồi lành hẳn. Ông
trở nên vị đệ tử hộ pháp đắc lực không kém gì vua cha là Tần Bà Sa La
hoặc vua Ba Tư Nặc. Và cũng từ đấy, ông luôn luôn nghe lời Phật khuyên
răn trong việc trị nước an dân. Ông thương yêu Phật như người con hiếu
thương yêu cha. Đêm Phật niết bàn, ông nằm mộng thấy mặt trời mặt trăng
rơi rụng ngã nghiêng. Tỉnh giấc, ông nghĩ đến Phật và khóc rú lên rất
thảm thiết. Linh tinh báo cho ông biết chắc Phật đã tịch. Hôm sau, ông
tức tốc cho người đi dò la tìm kiếm. Sau khi Phật niết bàn, tám quốc
vương đến Câu Thi Na tranh dành xá lợi; chính ông đứng ra phân xử điều
giải và phân chia xá lợi làm tám phần cho tám nước đem về xây tháp phụng
thờ. Lại cũng chính ông sắp đăït mọi việc ngoại hộ cho lần kiết tập
kinh điển dầu tiên của ngài Ca Diếp, ba tháng sau khi Phật niết bàn.
3.- BI VẬN THÀNH CA TỲ LA
Theo
giáo pháp Phật, về nhân sanh quan thì không một chúng sanh nào trên thế
gian này thoát khỏi bốn tướng luân hồi: sanh , già, bệnh, chết; về vũ
trũ quan thì không một vật nào trên thế gian này thoát khỏi bốn tướng
tương tục: thành, trụ, hoại, không. Đó là định luật dĩ nhiên và bất di
bất dịch.
Ca
Tỳ La hưng thạnh từ ngày lập quốc đến đức Phật cũng đã quá dài lâu. Bi
vận của Ca Tỳ La tất nhiên không thể tránh khỏi. Nguyên nhân khiến xảy
ra tai họa chỉ nhỏ bằng cái mảy mà nảy thành cái nia. Đó là nguyên nhân
gần. Còn nguyên nhân xa thì ngoài túc trái tiền khiên ra, tưởng khó có
cách nào khác hơn đủ để giải thích một cách công bằng và hợp lý.
Nguyên
từ trước khi vua Ba Tư Nặc chưa quy y Phật, nhà vua đã cho sứ giả qua
Ca Tỳ La cầu hôn với dòng họ Thích Ca. Các thân vương của dòng họ này tự
cao tự đại cho rằng dòng họ mình là cao quý nhất đời, không nên hạ mình
kết hôn với vua nước Kiều Tát La. Tuy nói huênh hoang như thế, nhưng họ
lại sợ uy thế của vua Ba Tư Nặc, vì Kiều Tát La bấy giờ là một cường
quốc như Ma Kiệt Đà trong vùng châu thổ sông Hằng. Do đó, dòng họ Thích
Ca mới dùng một nữ tỳ nô lệ hầu hạ trong cung là Mạt Lỵ (Malika), tráo
thành vương nữ đem gả cho Ba Tư Nặc. Mạt Lỵ tuy là gái nô lệ, nhưng tư
chất rất thông minh mà dáng mạo lại cực kỳ xinh đẹp, nên được vua Ba Tư
Nặc sủng ái, phong làm đệ nhất phu nhân.
Mạt
Lỵ phu nhân sanh con đầu lòng là Tỳ Lưu Ly (Virùdhaka), về sau mệnh
danh là Ác Sanh Vương. Năm Tỳ Lưu Ly lên tám, vua cha cho sang quê ngoại
để luyện tập bắn cung, vì Ca Tỳ La vốn nổi tiếng về môn xạ thuật.
Bấy
giờ, trong thành Ca Tỳ La mới kiến thiết xong một đại giảng đường nguy
nga dành để đón tiếp Phật mỗi khi Phật về thuyết pháp. Dòng họ Thích Ca
cho đây là chốn thiêng liêng, cấm không cho kẻ ty tiện bước vào. Không
dè Tỳ Lưu Ly nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chốn cấm địa ấy,
bị các thân vương bắt gặp, xỉ mạ không tiếc lời, bảo rằng con của gái nô
lệ Mạt Lỵ đã làm ô uế thánh địa. Họ đuổi Tỳ Lưu Ly ra và lập tức truyền
lệnh cho gia nhân cấp tốc đến bới đất cũ trong giảng đường lên rồi chở
đất mới về thay thế.
Tỳ
Lưu Ly nộ khí xung thiêng, bèn phát lời thề độc rằng: "Khi nào lên ngôi
vua, ta thề quyết tiêu diệt sạch dòng Thích Ca mới hả giận".
Về
sau, khi trở về Xá Vệ, Tỳ Lưu Ly ngày đêm mưu tính việc rửa hận. Một
hôm, nhân vua Ba Tư Nặc cùng Mạt Lỵ phu nhân xuất thành tuần thú, Tỳ Lưu
Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da Na tập họp quân đội lại, chặt đầu thị vệ
của vua cha, đoạt lấy vương miện và bảo kiếm. Nghe tin, Ba Tư Nặc hết
sức kinh hoàng, Mạt Lỵ khuyên nhà vua nên tạm lánh nạn lưu vong bên Ca
Tỳ La, chờ dịp khôi phục. Nhưng không bao lâu, ông chết tại bên ấy thọ
tám mươi tuổi.
Tỳ Lưu Ly nghe tin vua cha băng hà, hạ lệnh cô lập thái tử Kỳ Đà, rồi tự tuyên bố thừa kế vương vị. Bi vận Ca Tỳ La bắt đầu.
Một hôm nhân đại triều, Tỳ Lưu Ly truyền hỏi bá quan:
-
Nếu kẻ nào xỉ nhục đấng quốc vương tôn quý của mình, khinh thị đấng
quốc vương ấy là con dòng hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị như
thế nào?
Muôn miệng đáp rằng tội ấy đáng tru di
-
Dòng họ Thích Ca tự cao tự đại, Tỳ Lưu Ly nói tiếp. Họ cho rằng ta là
con của một gái nô lệ, vậy nay phải hưng binh tru diệt họ.
Ba
lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu Ly gặp Phật cản đường tìm cách ngăn trở.
Nhưng đến lần thứ tư, biết rằng không ngăn đón được nữa vì nghiệp nhân
quá khứ của dòng họ Thích Ca quá nặng, Phật xót xa báo trước cho A Nan
hay rằng trong bảy ngày nữa thì dòng họ Thích Ca sẽ tuyệt diệt. Tự mình
tạo nghiệp dữ, không cách gì cứu gỡ nổi.
Khi
Tỳ Lưu Ly vây hãm thành Ca Tỳ La, nhân dân trong thành bít kín cửa lại
và bắn tên ra như mưa. Trong thành có một dũng sĩ mười lăm tuổi tên là
Xa Ma, y là một tay xạ thủ cừ khôi bách phát bách trúng, khiến địch quân
bên ngoài phải chạy tán loạn. Ngay cả Tỳ Lưu Ly cũng phải chui xuống
hầm núp. Nhưng vì trong dòng họ Thích Ca có người phê bình Xa Ma, cho
rằng y chỉ là một tên dũng phu nên y tức giận đào ngũ tìm đường hầm trốn
ra ngoài thành. Tỳ Lưu Ly tiếp tục công hãm thành rất gấp và cuối cùng
hạ được. Sai khi vào thành, y hạ lệnh bắt lính giữ thành gồm năm trăm
người đem giết hết. Còn nhân dân trong thành ước chừng ba vạn người kể
cả già trẻ lớn bé, y bắt chôn chân xuống đất để cho voi dữ chạy qua chà
nát. Ma Ha Na Ma nghe tin này lấy làm kinh hoàng đau xót, bèn xin với Tỳ
Lưu Ly cho ông và nhân dân được chết toàn thây. Tỳ Lưu Ly mới đổi lệnh
giết bằng voi chà ra lệnh giết bằng trầm nịch. Thế là cả thành bị lùa
xuống sông cho chết đuối. Tỳ Lưu Ly lại hạ lệnh vớt xác Ma Ha Na Ma lên,
chặt đầu treo lên gốc cây.
Sau
khi tiêu diệt dòng họ Thích Ca và sát nhập thành Ca Tỳ La vào lãnh thổ
Kiều Tát La, Tỳ Lưu Ly cho thi hành một chánh sách vô cùng bạo ngược và
giết luôn anh là thái tử Kỳ Đà. Vì vậy, đời mới gọi ông là Ác Sanh
Vương. Không bao lâu, cung thành Xá Vệ bị một trận hỏa hoạn khủng khiếp,
Tỳ Lưu Ly và tất cả vợ con đều bị chết cháy trong trận hỏa hoạn này.
Nước
Kiều Tát La dần dần suy yếu, khiến A Xà Thế sau khi quy y Phật, cất
quân sang đánh, chiếm được Kiều Tát La, rồi sát nhập Kiều Tát La và Ca
Tỳ La vào bản đồ nước Ma Kiệt Đà.
PHẬT GIÁO HÓA TẠI HAI NƯỚC VIỆT KỲ VÀ TỲ XÁ LY
Việt Kỳ và Tỳ Xá Ly là hai nước ở bên sông Hằng, về phía Bắc nước Ma Kiệt Đà.
Về
già, Phật ít ở Kỳ Xà Quật, ngài thường đi du hóa, hoăïc ở bên này sông
Hằng là nước Việt Kỳ, hoặc sang bên kia sông là nước Tỳ Xá Ly. Phật và
chúng đệ tử chia nhau đi khắp thôn xóm, vượt qua khắp các thị trấn.
Trung tâm hoằng hóa hoặc là thành Ba liên Phất (Pàtaliputra), hoặc là
thành Tỳ Xá Ly (Vaisali).
Một
hôm, lúc Phật đang trú đóng tại thành Ba liên Phất, A Xà Thế cho đại
thần là Vũ Xá đến yết kiến. Lý do nêu lên bên ngoài là đến thỉnh an
Phật, nhưng lý do thầm kín bên trong là điều tra tình hình nước Việt Kỳ.
A Xà Thế sau khi chiếm được Kiều Tát La, muốn thôn tính luôn các vương
quốc khác, bắt đầu là Việt Kỳ. Phật soi biết thâm ý ấy bèn giả bộ hỏi ý
kiến A Nan về tình hình Việt Kỳ trước mặt Vũ Xá. A Nan bạch Phật rằng
hiện tại nhân dân Việt Kỳ trên từ vua quan xuống đến thứ dân, bất luận
gái trai già trẻ, đều có tinh thần cầu học, đời sống ấm no, an cư lạc
nghiệp, trên dưới một lòng đoàn kết, khí thế rất mạnh, ví phỏng nước
ngoài có kẻ dòm ngó muốn xâm lấn, tưởng cũng không làm gì được.
Ý Phật bày ra cuộc đàm đạo nầy, cốt để gián tiếp nói với Vũ Xá về bảo lại A Xà Thế không nên dấy động can qua vô ích.
Sau
khi việc bố giáo tại thành Việt kỳ đã thành tựu, Phật và chúng đệ tử
vượt sông Hằng, tiến lên hướng Bắc, đến triển khai giáo pháp tại thành
Tỳ Xá Ly. Trong thành này có một kỹ nữ tên là Am Ma La (Ambapala) rất
đẹp mà cũng lại rất giàu. Nghe Phật sắp đến, Am Ma La thắng kiệu hoa,
trang sức lộng lẫy, dẫn một đoàn thị nữ cũng xinh đẹp như y, đến đón
Phật và chúng tăng. Phật vốn đã nghe danh Am Ma La từ lâu, ngài rất e
ngại sức công phá của sắc đẹp, căn dặn chúng tăng trong khi tiếp xúc
phải luôn luôn cảnh giác, đem công phu nội tỉnh quán sát chân lý vô
thường, khổ, không, vô ngã, để khỏi bị sa đọa.
Am
Ma La ỷ vào sắc đẹp của mình và chúng thị nữ, khi mới gặp Phật, có vẻ
dương dương tự đắc, nhưng từ dung dịu dàng của ngài đã chinh phục nàng
một cách dễ dàng, khiến nàng sụp lạy và bỏ hết niệm thế gian. Nàng xin
quy y và trở nên đệ tử thuần thành của Phật. Tại Tỳ Xá Ly, ngoài Am Ma
La còn có một đệ tử thứ hai nữa cũng vô cùng thuần thành. Đó là trưởng
giả Sư Tử, người cầu đầu bộ tộc Ly Xa. Bộ tộc này và Am Ma La thường
tranh nhau cái vinh hạnh được rước Phật và chúng tăng về nhà thọ cúng.
Cả hai cùng lo chu cấp Phật và chúng tăng không thiếu một món cần thiết
nào.
Trước
khi Phật rời Tỳ Xá Ly, Am Ma La phát nguyện hiến cúng một hoa viên rộng
rãi đẹp đẻ. Phật cho chúng tăng lưu lại đây tiếp tục thuyết pháp độ
sanh, riêng Phật và A Nan rời Tỳ Xá Ly tiến lên hướng Bắc. Bấy giờ Phật
gần tám mươi tuổi.
ĐỆ TỬ CUỐI CÙNG VÀ LỜI GIÁO HUẤN CUỐI CÙNG
Trên
đường tiến lên hướng Bắc, một hôm Phật và An Nan dừng chân tại nhà ông
Thuần Đà (Cunda) làm nghề thợ rèn, ở bên mép rừng gần thành Câu thi Na
(Kusinagara), cách Patna (thủ phủ tiểu bang Bihar ngày nay) một trăm tám
mươi dậm về hướng bắc. Sau khi tiếp thụ giáo pháp và được Phật cho quy
y, Thuần Đà cúng dường Phật một bát cháo nấm chiên đàn nhĩ. Kinh sách
Tiểu thừa nói rằng Thuần Đà cúng Phật và A Nan một bửa cơm với thịt heo
rừng khô. Ăn xong, đêm ấy Phật cảm thấy trong người khó chịu, vì tuổi
ngày đã già mà thức ăn lại khó tiêu.
Mặc
dù bất an, sáng hôm sau Phật dõng mãnh lên đường tiếp tục cuộc hành
hóa. Đến rừng Sa La song thọ (Sala), Phật bảo A Nan giăng võng móc giữa
hai cây Sa la cho Phật nằm nghỉ. Phật nằm gối đầu về hướng bắc, xây mặt
về hướng tây.
Bấy
giờ, A Nan thấy từ thân Phật tỏa ra ánh hào quang rực rỡ. Hỏi thì được
Phật cho biết, trong đời ngài có hai lần xảy ra hiện tượng kỳ lạ ấy, một
là lúc Phật thành đạo và một là lúc Phật sắp nhập Niết bàn. A Nan nghe
nói òa lên khóc, Phật an ủi và khuyên bảo A Nan không nên quyến luyến
hình hài, vì hữu hình hữu hoại là lẽ đương nhiên.
A Nan quỳ xuống hỏi Phật:
-
Sau khi Phật niết bàn, chúng đệ tử lấy ai làm thầy? Nương tựa vào đâu?
Làm sao điều phục kẻ dữ? Kiết tập kinh điển như thế nào để khiến người
đời tin theo?
Phật dạy rằng:
- Hãy lấy Ba la đề mộc xoa (giới) làm thầy.
- Hãy nương tựa vào Tứ niệm xứ (thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã).
- Hãy dùng phương pháp mặc tẩn (làm lơ đừng giao thiệp cãi vả) dể điều phục kẻ dữ.
- Hãy bắt đầu bằng "Như thị ngã văn" (tôi nghe như vầy) mà kiết tập mọi kinh điển.
Này
A Nan! sau khi Phật niết bàn, các Tỳ kheo hãy nương vào ánh sáng chánh
pháp và nương vào ánh sáng của chính mình mà đi (dĩ chánh pháp vi quang,
dĩ tự kỷ vi quang). Còn nếu Tỳ kheo nào thật tình thương nhớ Phật thì
thân phải thường hành từ bi, miệng phải thường nói từ bi, ý phải thường
nghĩ từ bi. Đó là cách tưởng niệm Phật chân chánh duy nhất...
Bấy
giờ có một đạo sĩ Bà la môn, tuổi đã trên trăm, học vấn rất uyên bác,
tên là Tu Bạt Đà La (Subhadra) tu gần đấy, được nghe Phật sắp nhập niết
bàn, đến xin Phật quy y, Phật chấp nhận. Đây là vị đệ tử cuối cùng.
Phật bảo Tu Bạt Đà La:
-
Này Tu Bạt Đà La! Chân lý được nhận diện do ba pháp ấn mà các ngoại đạo
không hề biết. Ba pháp ấn ấy là: tâm vô thường, pháp vô ngã, niết bàn
tịch tịnh. Vì không thấu rõ ba pháp ấn ấy, nên họ không nhận thức được
căn bản các pháp, họ không tu học đạo Bát chánh là chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định. Họ không phải là kẻ chân chánh tu hành, do đó họ không bao
giờ đạt được tự tại và giải thoát.
Sau khi được Phật giảng giải cho nghe giáo pháp giác ngộ và giải thoát. Tu Bạt Đà La liền chứng được đạo quả A La Hán.
PHẬT NIẾT BÀN
Nói
xong bài thuyết pháp cuối cùng cho người đệ tử cuối cùng, Phật mĩm cười
vui vẽ trút bỏ xác phàm. Bây giờ ngài đúng tám mươi tuổi. Theo tài liệu
khảo chứng Tây phương, năm ấy là năm 483 trước Tây lịch. Theo Chúng
Thánh điểm ký thì năm ấy là năm 485 trước Tây lịch. Nhưng theo công
nguyên của hội Phật giáo thế giới hiện đang áp dụng chung cho mọi nước
Phật giáo, thì năm ấy là năm 544 trước Tây lịch. Chỗ ngài nhập diệt là
rừng Sa La song thọ gần thành Câu Thi Na, cách thủ đô Patna của tiểu
bang Bihar là180 dậm Anh (1609 x 180) tức phỏng 300 cây số về hướng bắc.
Sau
khi Phật thị tịch, các trai tráng trong cùng thuộc bộ tộc Mạt La
(Malla) chạy đến phụ lực với A Nan, lo tắm rửa cho Phật, tẩm liệm và làm
lễ trà tỳ.
Tương
truyền rằng, các đệ tử bấy giờ đang du hóa ở phương xa, nghe tin Phật
niết bàn đều vội vã vân tập đông đủ. Ngài Đại Ca Diếp thấy áo quan Phật,
khóc lóc thảm thiết, nguyện được trông thấy bàn chân Phật một lần chót.
Đang chí thành cầu nguyện thì Phật để lòi một chân ra khỏi áo quan cho
thấy.
Sau
lễ trà tỳ, xá lợi Phật thuộc về tay bôï tộc Mạt La. Quốc vương tám nước
trong vùng lưu vực sông Hằng nghe tin, liền cử đại binh đến Câu Thi Na
để quyết tranh dành lại xá lợi. Vua A XÀ Thế nước Ma Kiệt Đà (bấy giờ
mạnh nhất) đứng ra điều giải, bèn phân chia xá lợi thành tám phần, mỗi
quốc vương lãnh một phần mang về nước xây tháp phụng thờ.
Phật
nhập diệt được ba tháng thì ngài Đại Ca Diếp (Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên đã thị tịch trước Phật) triệu tập chúng tăng đến động Kỳ Xà Quật
trên núi Linh Thứu, mở cuộc kiết tập kinh điển lần đầu tiên. Trong đại
hội này chỉ có thánh chúng (1250 người) mới được tham dự. Ngài Đại Ca
Diếp chủ tọa, ngài A Nan tụng kinh, ngài Ưu Ba Ly tụng luật cho toàn thể
thánh chúng nghe. Lần kiết tập này chỉ mới có hai tạng là tạng Kinh (A
Hàm, Pháp Cú v.v...), còn tạng Luật thì chỉ có một quyển, ấy là quyển
Bát Thập Tụng Luật (bộ luật đọc 80 lần). Ngoại hộ đắc lực cho cuộc kiết
tập này là vua A Xà Thế.