Vì Tam quan đẹp như thế, nên thơ 
      như thế, cho nên mới nẩy sinh ra những thi sĩ và văn sĩ miệt vườn, chỉ 
      mong có dịp là hạ bút ca tụng cái góc nhỏ quê hương thân yêu của mình, nơi 
      có quốc lộ số một chạy ngang và nhánh Trường sơn nối dài ra biển, bãi cát 
      trắng xóa không nơi nào sánh kịp...! Người ta thường bảo rằng dân Tam quan 
      giàu có nhất vùng! Người ta cũng thường nói là gái Tam quan đẹp và có làn 
      da trắng mịn, hấp dẫn, mát hơn nước dừa!... Ai bảo rằng dân Tam quan không 
      biết nịnh đàn bà con gái! Cánh mày râu coi thế, cái gì cũng quê quê, nhưng 
      nghề nịnh "bà" thì không chê được đâu nhé! 
      Nếu nói đến Tam Quan mà không đề 
      cập đến một hệ thống sông ngòi ngoằn ngoèo, len lỏi khắp chốn thì thật là 
      thiếu sót! Nhưng đã nói đến những dòng sông nhỏ nhắn, nước chảy trong veo 
      vào mùa hè, đục ngầu đầy đất phù sa vào mùa mưa; mà không nói đến cái thú 
      đi soi, đi bắt ếch, chụp cá đối, chận đăng... thì thật là phiến diện vô 
      cùng!
      
      
      
      
      
      Tất cả những dòng 
      sông nhỏ của Tam quan đều nối với nhau và cùng đổ về biển. Cửa biển Tam 
      quan không lớn lắm, nước chảy về, dựa vào sườn núi phía Bắc. Đó là nhánh 
      của Trường Sơn chạy suốt từ phía Tây, cắt quốc lộ số 1, có tên là đèo Bình 
      Đê và vươn dài ra đến biển như cánh tay thiên thần. Cánh tay thiên thần 
      thò ra trùng dương xanh mát, chấm dứt bằng một chấm phá tuyệt vời. Người 
      ta đặt cho nét chấm phá đó một cái tên rất trừu tượng: Gành Gà. Chẳng ai 
      hiểu tại sao!
      
      
      
      
      
      
      Vì thế cho nên nguồn nước của 
      những con sông đổ về biển, mơn man tắm rửa một sườn núi xanh rì và nhả ra 
      phía Nam một bãi cát trắng phau, chạy dài đến tận cửa An Giủ của dòng Lại 
      Giang xa tít... Tất cả nước của những dòng sông, trước khi thoát ra biển 
      đều dồn về vịnh nhỏ, phình ra như diều của một con chàng bè đang no cá! 
      Cái vịnh nhỏ ấy chạy xà quần và để cho những cồn đất cắt xén thành những 
      ốc đảo đẹp như những hòn ngọc vươn vãi dưới cánh tay thiên thần, soi bóng 
      những hàng dừa nước mặn cong cong. Đó là các thôn Trường Xuân, Công Thạnh. 
      Xa về phía Nam, dọc theo một nhánh sông khác là một thành phố nhỏ như 
      trong bức tranh từ tiên giới. Thành phố được trang trí chấm phá từng bóng 
      dừa xanh dọc theo một con lộ tráng nhựa.
      
      
      
      
      
      
      
      
      Thời phồn thịnh, nó 
      cũng là một thành phố có đầy đủ tiêu chuẩn của kết hợp chủng tộc. Nó cũng 
      đầy tiếng Tàu, tiếng Việt trộn nhau như thang thuốc Bắc, nó cũng đầy khách 
      thập phương đến mua bán đủ thứ trên đời và đem đi những đặc sản liên quan 
      đến dừa và cá mắm... Một thành phố nhỏ pha trộn tạp-pí-lù, nào là chùa Tàu 
      thờ Quan Công, nào là chùa Phật và nhà thờ của Tòa thánh Cao Đài... Từ 
      thành phố ngược về Tây, chúng ta bị choáng ngợp bởi mấy nóc giáo đường cao 
      vút, kiến trúc rập khuôn những nóc nhà thờ Pháp đầy huyền thoại, vượt hẳn 
      lên trời thoát khỏi những đọt dừa cao của xóm đạo Gia Hựu... Xa về phía 
      Nam là chằng chịt những ngọn dừa bao phủ lấy thôn Cửu Lợi, Đại Đồng, An 
      Thái, Trung Trinh, Đại Hóa... Dừa chen với dừa và sông chen trong bóng dừa, 
      cùng tắm mát và nuôi sống bao nhiêu lớp người Tam Quan!
      
      
      
      
      Đó là hệ thống tự 
      nhiên của dòng sông Tam quan. Dòng sông có một đặc tính vừa mặn vừa ngọt, 
      vừa đục vừa trong. Nơi nào có chất phèn thì vừa chua vừa chát... Nó cũng 
      giống như những con người sanh ra từ đó! Quanh năm uống nước gánh về từ xa. 
      Giếng Truông nuôi sống cả một thành phố, những giếng đào từ bãi cát mới 
      ngọt lòng người! Nước sông Tam Quan chỉ để làm muối... Mùa hè nước trong 
      veo, lòng sông không có nơi nào sâu lắm và cũng chẳng có gì nguy hiểm để 
      những ai mê tắm phải sợ hãi mà không ngụp lặn trong làn nước mặn từ biển 
      hòa với cái ngọt từ nguồn...
      Miền Bắc Bình Định, Quận Hoài 
      Nhơn là lớn nhất. Vì địa thế và con người cũng như an ninh, nên sau nầy 
      Hoài Nhơn tách ra làm hai quận - Hoài Nhơn và Tam Quan - Nhưng trước hết 
      chúng ta thử đặt vấn đề tại sao trong huyện Hoài Nhơn có bao nhiêu xã đều 
      đặt tên bằng chữ phía trước là Hoài mà chỉ có một mình Tam Quan và Bồng 
      Sơn là cô độc một mình với cái tên kỳ cục thế? Trong huyện Hoài Nhơn, 
      chúng ta có các xã: Hoài Ân, Hòai Xuân, Hoài Thanh, Hoài Tân, Hoài Hương, 
      Hoài Mỹ... Những chữ "Hoài" nghe ra có vẻ nhớ thương, có vẻ chờ mong một 
      cái gì đó trong tương lai... Nhưng Bồng Sơn hay Tam Quan thì không thế. 
      "Bồng bế nhau lên nó ở non", thơ của Trần Tế 
      Xương nghe ra không hợp với Bồng Sơn - Có lẽ bồng bế nhau Nam tiến theo tổ 
      tiên để có ngày nay thì đúng hơn – 
      
      
      
      
      
      Còn Tam Quan thì sao? 
      Xem ra từ đèo Bình Đê trở vào, một địa danh không có gì như tên gọi. Ba 
      cánh của, cổng Tam quan, ba con đường... Đều chẳng có di tích nào trước và 
      sau trong lịch sử để làm tiền đề cho cái tên gọi. Thế mà chúng ta vẫn có 
      Tam Quan của rừng dừa, của nghề dầu dừa, của kỹ nghệ dây dừa và thủ công 
      họ nhà dừa nổi tiếng cả nước!
      Có một thời cả nước, Bắc Trung 
      Nam đều dùng giây dừa Tam Quan. Từ sợi giây cột nhỏ nhất đến sợi neo to 
      bằng cùm chân để neo tàu neo ghe. Dụng cụ thủ công từ tấm thảm chùi chân, 
      gáo múc nước bằng sọ dừa, vỏ bình trà bằng vỏ dừa... Có một thời người ta 
      còn khéo tay dùng sọ dừa làm ra muỗng ăn cơm, chén tô, bát... Thôi thì 
      chúng ta sẽ tuần tự xem coi cái xứa Tam quan nổi tiếng như thế, có xứng 
      đáng như thế nào hay không trong giòng văn hóa cả nước!
      Dĩ nhiên, tất cả những gì chúng 
      ta vừa nói, nếu không có bàn tay và khối óc con người thì chắc chắn sẽ 
      không có tất cả. Người Tam quan - như chúng ta đã nói trên - Đều là những 
      kết hợp từ nhiều nguồn trong lòng dân tộc Việt Nam. Có lẽ Tam Quan được 
      thành lập cùng lúc với Phủ Hoài nhơn trong cuộc Nam tiến. Nhưng khi đã 
      định cư trong rừng dừa, uống nước địa phương lâu ngày, mọi người đều nói 
      tiếng Tam Quan. 
      
      
      
      Đây là một giọng nói 
      đặc biệt, cũng như người Bình Định nói chung, nhưng dĩ nhiên là cũng mang 
      màu sắc hoàn toàn địa phương một chút. Tiếng "Nẫu" được nói trên đầu môi 
      nhiều người chính gốc. chữ "Tr" trở thành "Ch". Ví dụ như chữ "Trảng" được 
      gọi thành "chảng", chữ "đau" lại được nói là "đeo", đi "thăm" thì được gọi 
      là đi "thêm"... Nhưng có một cái đặc biệt, người ta nói là... Bình Định 
      "no hair", nhưng Tam Quan thì ngược lại đấy...!
      Về con người tiêu biểu Tam Quan, 
      thời xa xưa còn để lại dấu vết về Đào Duy Từ. Hiện nay ngôi mộ của Ông nằm 
      tại Tam Quan, nhưng không ai chăm sóc. Cảnh điêu tàn giữa cây cối xen nhau 
      mọc chằng chịt, những tảng đá ong bị năm tháng xói mòn hư hao không người 
      bảo quản... Công đức của Đào Duy Từ thì có rất nhiều sách đã nói về ông. 
      Vả lại ông là một công thần, một người trong lịch sử Việt một thời vang 
      danh, Tam Quan chỉ là nơi cư trú ban đầu và cuối cùng của cuộc đời một 
      Công Thần nhà Nguyễn gốc gác từ Đàng Ngoài... 
      
      
      
      
      
      Người dân Tam Quan có 
      óc cầu tiến và hiếu khách. Chính vì thế mà văn minh tiến bộ bên ngoài mới 
      được nhập vào Việt Nam là Tam Quan hầu như học hỏi được tức thời, áp dụng 
      ngay. Bằng chứng là phong trào Hướng Đạo Việt Nam đã có ở Tam Quan sớm 
      nhất. Bằng chứng là kỷ nghệ làm xà phòng bằng nước tro và sút được dân Tam 
      Quan áp dụng một thời làm nền kinh tế địa phương phát triển. Đó là xà 
      phòng nội hóa "có chất lượng" nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. 
      Một trong những người Tam Quan có công đưa Tam Quan lên hàng những địa 
      danh nổi tiếng là một thanh niên trí thức từng du học tại Pháp. Ở đây, tôi 
      xin giới thiệu một nhân vật rất Tam Quan, có công đem "văn minh" vào xứ 
      dừa, có công tổ chức, hướng dẫn và lãnh đạo phong trào thanh niên Tam Quan 
      theo kịp trào lưu văn minh thời 1930-1944. Đó là ông Huỳnh Văn Trân, người 
      ta thường gọi tắc là Nghị Trân.
      Ông Huỳnh Văn Trân có công đem 
      phong trào Hướng Đạo vào Tam Quan năm 1936. Phong trào Hướng Đạo do ông 
      khởi xướng, đã làm cho giới thanh thiếu niên Tam Quan hăng hái tham gia. 
      Sau 1954, Hướng Đạo Tam Quan vẫn tiếp tục vững mạnh. Ông còn có công đem 
      làn gió thể thao về vùng xứ dừa bằng cách thành lập hội Tam Quan thể tháo 
      ( Tam Quan sport), xin chính quyền địa phương lập sân vận động Tam Quan. 
      Thành lập đội bóng đá, tập luyện và đi thi tài các nơi. Ngoài ra ông còn 
      cổ xúy thành lập đoàn văn nghệ biểu diễn cho đồng bào địa phương và lưu 
      diễn tại các nơi xa như Phù Mỹ, An Lương... Ông cũng là người cổ xúy lập 
      hội Truyền Bá Quốc Ngữ, cổ động dân chúng Tam Quan thi đua học chữ quốc 
      ngữ! Năm 1943, Tân Việt Hội ra đời, cổ động đổi mới xã hội, đổi mới con 
      người để theo kịp đà văn minh của nhân loại... Hàng năm ông cũng giành 
      nhiều phần thưởng có giá trị để khuyến khích con em học giỏi trong các 
      trường tiểu học địa phương. 
      
      
      Tóm 
      lại, Ông Nghị Trân- Huỳnh Văn Trân - là một người Tam Quan tiêu biểu, một 
      nhân vật đáng được nhắc đến. Ông đã có công thổi làn gió văn minh vào xứ 
      dừa, làm cho các thế hệ kế tiếp sau nầy vẫn luôn tự hào về một Tam Quan, 
      tuy hẻo lánh, nhưng văn minh! Ông qua đời năm 1983 hưởng thọ 78 tuổi. (Dựa 
      theo tài liệu từ chính con và rể của ông Huỳnh Văn Trân, được đăng trong 
      ĐS Lại Giang năm 1999).
      
      
      
      
      
      Tài 
      nguyên
      
      Bây 
      giờ chúng ta hãy xem người ta làm gì với những cây dừa bạt ngàn, nguồn lợi 
      chính của Tam Quan. ". Rừng dừa trải dài, ngút ngàn, san sát hầu như bất 
      tận. Nói là nhiều thì cũng hơi quá đáng. Dừa TAM QUAN làm sao qua mặt được 
      BẾN TRE, SÔNG CẦU... Nhưng tại sao lại có câu ca dao:
      
      
      
      
      "Ai đâu công uổng công thừa,
      Ai đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan"
      
      Hai câu thơ trên chẳng còn nói lên được gì, chẳng có gì 
      đặc biệt để người ta thấy cái đặc biệt của Tam Quan. Dừa Tam Quan tuy ít 
      hơn các nơi khác, người Tam Quan tuy không sôi nổi... nhưng miền cát trắng 
      hiền hòa ấy chứa đựng những đặc thù không nơi nào có được. Nếu không phải 
      là người sinh ra tại Tam Quan, đặc biệt là thôn CỬU LỢI thì không thể nào 
      biết được những gì xảy ra một cách âm thầm, đầy sức hấp dẫn và mãnh liệt 
      dưới bóng mát của rừng dừa Tam Quan...
      
      
      
      Tôi 
      còn nhớ hồi ấy, khoảng năm 1958; tôi đang học lớp đệ lục tại trường TĂNG 
      BẠT HỔ, Bồng Sơn. Tôi phải trọ học gần trường, chỉ cuối tuần mới về nhà 
      bằng chiếc xe đạp cũ. Hè năm ấy, tôi rủ các bạn cùng lớp về quê tôi tắm 
      biển và thưởng thức hương vị đặc biệt của vùng đất nổi tiếng sanh ra những 
      người đẹp, có làn da trắng với mái tóc dài óng ả ngang vai... Nhà tôi ở 
      ngay bờ sông đầu cầu Cộng Hòa, thuộc thôn Cửu Lợi. Sau khi đi tắm biển và 
      đạp xe một vòng, chúng tôi về nhà thưởng thức món tôm nướng chính tay 
      chúng tôi bắt dưới đìa và quạt lửa nướng ngoài trời. Lại có cả cây đàn 
      guitar với ánh lửa bập bùng, bầu trời trong vắt, vầng trăng mùa hè đầy 
      quyến rũ.
      
      
      
      Khuya 
      hôm ấy, ba đứa ngủ trên chiếc phản gõ nhà trên. Khoảng bốn giờ sáng, 
      Nguyễn Đình Phước người Hoài Ân, đánh thức tôi dậy, hốt hoảng và thều thào 
      bên tai tôi: "Dậy!.. dậy, có cướp..." Tôi hỏi "Cướp ở đâu? sao mày biết?" 
      "Tao nghe tiếng mõ báo động cả xóm đó... mầy không nghe sao". Phạm Văn Dư 
      người thôn Đại Đồng, nằm bên trái tôi, cằn nhằn: "Ồn quá! để người ta ngủ. 
      Cướp với kiếc..." Tôi lắng nghe những âm thanh quen thuộc phát ra khắp xóm. 
      Những âm thanh thân thương ấy thường phát ra rải rác rồi đồng bộ từ ba giờ 
      sáng đến lúc mặt trời lên. Tôi hỏi Phước: "Mày giải thích cho tao nghe, 
      cướp ở đâu, sao mày biết?" 
      
      
      Trong 
      bóng đêm, tiếng Phước khẩn cấp: "Tiếng mõ đó, mày điếc hay sao không nghe!!!" 
      À! thì ra những tiếng cốc cốc liên hồi và khắp nơi đã làm cho anh chàng 
      nhà quê này sợ. Tôi giải thích: "Không phải mõ báo động cướp, đó là tiềng 
      đập xơ của dân làm dây dừa ấy mà..." Phước càng không hiểu: "Là thế nào?" 
      Tôi bảo hắn "Ngủ đi, ngày mai tao đưa mày đi xem và giải thích, bây giờ có 
      nói mày cũng không hiểu được".
      
      Sáng 
      ra, trên đường chạy bộ ra biển, ba chúng tôi ghé vào các nhà bên cạnh 
      đường đi, chào các bác, các cô đang làm việc và bắt đầu giải thích từ đầu 
      cho anh chàng sợ cướp đêm qua...
      
      Cái 
      đặc biệt của Tam Quan là DỪA. Đúng rồi! Nhưng không phải trái dừa mà là vỏ 
      trái dừa. Trái dừa thì người ta dùng vào nhiều chuyện, ở đâu cũng làm được. 
      Ví dụ như làm dầu dừa, các phó sản của cơm dừa... Bến Tre đã có nhà máy 
      làm dầu dừa theo dây chuyền kỹ nghệ trong lúc Tam Quan, còn lẹt đẹt theo 
      lối cổ truyền. Nhưng riêng về việc tận dụng vỏ trái dừa bên ngoài thì 
      không đâu sánh với CỬU LỢI, TAM QUAN. 
      Nếu có dịp, các bạn đến viếng Tam Quan vào ngày nắng 
      đẹp. Dưới những tàn dừa rợp bóng là cả một sức sống mạnh liệt. Mỗi người 
      Tam Quan đều có việc làm, từ người lớn đến trẻ em. Sự sinh hoạt nhộn nhịp 
      đầy sức quyến rũ ấy, lại điểm thêm những nụ cười hiếu khách của các thiếu 
      nữ có làn da trắng ngà, được mệnh danh là da tắm nước dừa...
      
      Trái 
      dừa lúc còn non được người ta dùng để làm nước giải khát. Có nhiều loại 
      dừa: Dừa Xiêm, dừa bung, dừa lửa. Chỉ có loại dừa bung là được đặc biệt 
      dùng để làm dầu, phần vỏ bên ngoài dùng làm giây dừa hoặc làm thảm chùi 
      chân. Trái dừa phải để già mới hái. Có những người chuyên làm nghề hái dừa 
      mướn, họ leo lên thân cây dừa rất thần tình. Họ leo rất nhanh, hái rất 
      nhanh, làm cỏ cây dừa thật sạch. Trái vỏ dừa thật già và thật khô mới được 
      dùng để làm giây dừa. Người ta mướn thợ lóc vỏ dừa. Vỏ phải được lóc cẩn 
      thận, không được đứt, bể vụn. Dĩ nhiên là trái cơm dừa bên trong dùng để 
      làm dầu dừa... Vỏ dừa khô được người ta lấy vồ (loại búa bằng gỗ) dần cho 
      mềm, sau đó đem ngâm nước (ngâm nước mặn mới tốt). Sau một vài ngày vỏ dừa 
      mềm ra, người ta mới đem kê trên phiến đá, dùng dùi cui bằng gỗ để đập cho 
      mềm. 
      
      
      Trong 
      lúc đập mềm miếng vỏ dừa người ta giũ cho sạch các cặn bã bám vào để chỉ 
      còn những sợi cước đục mầu nâu trông đẹp mắt... Thường thường người ta làm 
      việc này từ ba giờ sáng cho đến sáng để kịp đem phơi khô trong nắng mai. 
      Việc làm này thường là những người có sức lực đảm trách. Các cô gái từ 
      mười ba đến hai mươi hay các cụ già thường đảm trách chặng thứ hai. Đó là 
      phần tiếp xơ. Chặng thứ hai này là công việc đầy kỹ thuật. Người ta se xơ 
      dừa làm nhiều lọn nhỏ, lấy hai tay se và nối các lọn nhỏ ấy lại thành một 
      sợi giây dài, sợi giây càng dài, người ta lại quấn thành trái to hơn hoặc 
      bằng quả banh... Nhiều trái banh như thế, gánh đem ra chợ bán.
      
      
      
      Bây 
      giờ lại đến chặng quan trọng thứ ba. Muốn thực hiện phần này, phải có sức 
      khỏe. Dụng cụ để làm cũng giống như khung cửi dệt vải, khác một điều là 
      tất cả đều làm ngoài trời. Để các bạn dễ tưởng tượng, xin các bạn hãy lấy 
      một sợi chỉ, se lại cho săn và sau đó cho chúng dính quyện vào nhau nhiều 
      lần. Các bạn sẽ có một sợi rất chắc bền... Công việc làm giây dừa tương tự 
      như vậy. Người ta đem những trái banh sợi giây nhỏ mua về từ ngoài chợ tùy 
      theo dài ngắn theo đơn đặt hàng, người ta đóng cọc dọc theo đường lộ nhỏ 
      trong xóm. Giăng những sợi giây con ấy lại thành từng chùm lớn nhỏ tùy 
      theo ước tính cho sợi giây neo sau khi hoàn thành. Có rất nhiều loại giây. 
      Giây dùng trong nhà hoặc gánh gồng thì nhỏ, những giây dùng để neo ghe tàu 
      thì rất lớn. Có sợi lớn khoảng cổ tay người lớn, có khi lớn hơn theo đơn 
      đặt hàng của các tỉnh miền Tây, vùng sông Cửu Long. Những chàng trai lực 
      lưỡng được điều động để dùng sức hai cánh tay quay hàng loạt các "tay 
      quay" bằng gỗ. Động tác này làm cho những lọn giây nhỏ quyện vào nhau, săn 
      lại. Sau hết, người ta cho ba sợi lớn ấy vào một và kết thành sợi dây neo 
      đúng theo nghĩa của nó bằng "trái khế". Việc còn lại là cuốn sợi neo thành 
      kiện và chờ ngày đưa đi bán.
      Việc đem sản phẩm đi bán rất là đa dạng và được chia ra 
      nhiều thời kỳ. 
      Thời kỳ Pháp thuộc thì việc chuyên chở hoàn toàn bằng 
      ghe bầu, dọc theo bờ biển từ Bắc xuống Nam. Từ Saigon, Nam Vang, Lục Tỉnh, 
      Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng... không nơi nào là không có vết chân của ghe buôn 
      dầu dừa, giây dừa, thảm sơ dừa Tam Quan. Sản phẩm độc đáo không nơi nào 
      làm được. 
      
      
      
      Sau 
      1954, cuộc buôn bán lại có phần rộn rịp hơn nữa. Tam Quan trên bến dưới 
      thuyền, nhà cửa mọc lên san sát. Cuộc sống trù phú nhờ những xe tải hạng 
      nặng liên tục chở giây dừa, dầu dừa và các phó sản khác đi khắp các miền 
      đất nước và đem lại cho TAM QUAN một bộ mặt trù phú nhộn nhịp đầy sức hấp 
      dẫn...
 
      
      
      
      Công 
      kỹ nghệ
      
      Dưới 
      tàng những cánh lá, thơm nức mùi hoa dừa buổi sáng, người ta sẽ không khỏi 
      ngạc nhiên thấy quyện trong sương mai những làn khói tỏa từ những lò làm 
      dầu dừa lẫn khuất trong xóm thôn sầm uất... Người ta cũng sẽ thích thú 
      chứng kiến ngay bên vệ đường những cư dân lực lưỡng quay những sợi dây neo 
      bằng xơ dừa, dệt những tấm chùi chân cũng bằng xơ dừa! Những chiếc võng 
      bằng xơ dừa cũng được khéo léo kết từng lọn nhỏ bằng tay mà thành... Những 
      tay uống trà rất ưa thích dùng vỏ trái dừa khô làm vỏ bình để giữ ấm nước 
      trà nhiều giờ hơn bất cứ những loại tương tự làm bằng vải độn bông gòn!
      
      
      
      Khắp nơi, thoáng bóng thiếu nữ tiếp xơ dừa thành sợi và 
      giăng đầy lối đi. Họ đã giăng giây dừa như những con tằm giăng tơ, xe 
      những đoạn ngắn thành dài như tằm xe kén... và làn da đặc biệt nước dừa 
      xiêm ẩn hiện trong mái tóc dài óng ả bờ vai! 
      
      
      Nghề 
      làm dầu dừa thủ công rất phát đạt ở Tam Quan. Người ta đã áp dụng nhiều kỹ 
      thuật và sáng kiến để tận dụng hết chất dinh dưởng của cây dừa và quả dừa. 
      Sau đây chúng ta hãy thưởng thức xem người Tam Quan sản xuất dầu dừa bằng 
      cách nào. Chúng ta thử quan sát một vòng những gì làm cho chúng ta thích 
      thú dưới cái bóng mát của rừng dừa! Không có máy móc và phương tiện, người 
      dân Tam quan làm thế nào sản xuất được dầu dừa! Riêng cái khoản này người 
      ta cũng đã thích thú về những bàn tay sáng tạo và nhẫn nại của cư dân Tam 
      quan.
      
      
      
      Dừa thì phải có cây cao cây thấp, cây cong và những cây 
      uốn mình soi bóng khỏi bờ sông... Thế cho nên thu hoạch trái dừa hàng 
      tháng cũng không phải là chuyện dễ dàng! Những người trai lực lưỡng đảm 
      nhận việc leo trèo từng thân cây dừa, đốn từng buồng dừa đã già, chặt bỏ 
      những tàu lá không cần thiết... là những chuyên viên đặc biệt. 
      
      
      
      Quanh 
      năm suốt tháng họ được các chủ vườn dừa mướn và trả lương theo số lượng 
      trái dừa họ hái được. Có thể không lúc nào thợ hái dừa rảnh rang, hết vườn 
      cây nầy đến mẩu vườn khác, từ gần đến xa! Họ đã chọn nghề nầy để sống. Có 
      lúc, có nơi cũng xảy ra tai nạn chết người hay gãy tay, gãy chân tùy theo 
      họ bị rớt từ cây cao hay thấp! Sanh nghề tử nghiệp mà lị!
      
      
      Dừa 
      Tam quan có nhiều loại. Loại dành để làm dầu dừa là loại dừa bung to sọ, 
      dày cơm. Những loại dừa xiêm, dừa dâu thường để làm nước giải khát và ít 
      được ưa chuộng, ít được trồng! Nếu cả rừng dừa Tam quan chỉ dùng để giải 
      khát thì sẽ chẳng thể nào và đưa đi đâu xử dụng cho hết trừ trường hợp 
      xuất cảng! Người dân nơi đây từ già đến trẻ đều sống về những nghề liên 
      quan đến dừa!
      
      
      Riêng 
      trái dừa bung già, thứ trái cây đặc biệt dùng sản xuất ra dầu dừa thì Tam 
      quan trồng hàng hà sa số! Nếu muốn hái để làm dầu thì dừa phải thật già, 
      sau khi hái về phải để một thời gian ít nhất là mười ngày cho trái dừa có 
      đủ thời gian ổn định lượng dầu. Dừa già để lâu cỡ ba tháng trở lên, chúng 
      sẽ mọc mộng, vỏ trái dừa chuyển thành màu sẫm. 
      
      
      Người 
      ta có thể lựa từ những trái có mầm tốt để làm giống, trồng lên những vườn 
      dừa con bên cạnh những thân cây già cỗi...! Những thân dừa già được đốn 
      xuống, làm cột kèo nhà ở, lá dừa được dùng bện thành tranh lợp nhà, vỏ 
      trái dừa lột ra để dệt thành giây dừa bán khắp các vùng trên toàn đất nước. 
      Những thứ khác linh tinh dùng làm củi chụm bếp. Có một loại than bằng sọ 
      dừa thật đượm và nóng, được ưa chuộng trên thị trường than củi...!
      
      
      Người 
      ta lóc vỏ trái dừa bằng một cái mác. Mác là tên một dụng cụ giống như con 
      dao nhọn, nhưng rất dày, không bén, chỉ nhọn phía trên đầu mác, có cán dài. 
      Trái dừa được cẩn thận lột từng miếng vỏ, cố giữ cho vỏ không hư để dùng 
      làm dây dừa. Sọ dừa được đập ra thành hai phần và người ta cạy cơm dừa 
      thành từng miếng đủ to để dễ cầm, mài trên một bàn mài! Những năm 1950 đến 
      1960, tất cả đều mài cơm dừa bằng tay. Sau này có máy xay nên khâu nầy 
      được máy móc hóa! Chiếc bàn mài là một miếng đồng hay thau hình chữ nhật. 
      Người ta dùng đục nhọn bằng thép, đục trên tấm vuông nầy những vết xướt 
      vừa phải để cho cơm dừa cũng được mài ra nhỏ vừa phải. Hàng ngàn trái dừa 
      được lóc một lúc, hàng tấn cơm dừa được mài ra... Và người ta cho xác cơm 
      dừa mài xong vào một chiếc giỏ bằng tre đan rất dày. Một người có sức mạnh 
      bước vào giỏ. Xác cơm dừa lún gần hết đôi chân anh. Người ta cho nước từng 
      gàu vào giỏ trong lúc anh ta cố sức đạp mạnh và đi chung quanh trong giỏ 
      để chất nước đục màu trắng theo nước chảy ra ngoài, giống như một người 
      đang lội trong bùn ngập quá đầu gối. Họ làm như thế cho đến khi chất nước 
      chảy ra không còn màu trắng đục mà thành nước trong mới ngưng. Xác cơm dừa 
      còn lại trong giỏ dùng để nuôi heo. Chất nước đục màu trắng được cho vào 
      các vại bằng sành.
      
      Sau 
      hai mươi bốn tiếng đồng hồ, toàn thể chất dừa màu trắng nổi lên mặt nước 
      bên trong vại một lớp dày. Người ta hớt chất bọt trắng ấy, cho vào những 
      chảo gang to, đặt trên những lò lửa, đốt nóng bằng vật liệu của dừa... 
      Chất bọt màu trắng nầy sôi lên biến thành mầu vàng. Dầu xuất hiện lẫn 
      trong xác bọt màu thâm thẩm! Đây mới chỉ là giai đoạn sơ chế mà thôi. Sau 
      khi để nguội, người ta vớt những thứ lềnh bềnh trong chảo, phía trên là 
      dầu và xác bọt dầu, phía dưới là nước hơi đục. Nước phía dưới dùng cho heo 
      uống!
      
      Dầu 
      mầu vàng lẫn với những tạp chất khác được vớt ra, tất cả cho vào một chảo 
      đun nóng tối đa. Vừa đun vừa quậy bằng một cây dầm bằng gỗ tốt. Cứ thế cho 
      đến khi không còn nước, nước bốc hơi và những tạp chất cô đọng lại mới 
      thôi! Bấy giờ trong chảo toàn là dầu dừa màu vàng, sôi sùng sục lẫn với 
      xác dầu. Thoạt trông giống như những vạc dầu dưới diêm vương đang chực chờ 
      nuốt chửng những thân hình tử tội! Người ta gọi là dầu đã tới. Tất cả được 
      cho vào một miếng vải dày. Sau đó người ta đem bọc vải ấy đặt vào nơi ép. 
      Dụng cụ để ép dầu rất đặc biệt và cũng không dễ diễn tả cho mọi người hiểu 
      và tưởng tượng thông suốt... Nó gồm hai trụ cây đục thông hai lỗ hình 
      vuông sao cho một đòn dài bằng gỗ khác, chạy suốt qua! Hai trụ ấy cao 
      khoảng ba mét, một mét chôn xuống đất, còn lại ngay mặt đất là một tấm gỗ 
      lớn, dày có đục đường mương chạy vòng tròn. Mục đích đường mương nầy là để 
      dẫn dầu trong lúc ép, chạy vào nơi nhất định! Người ta đem bọc vải dầu và 
      tạp chất để trên miếng gỗ có đục mương dẫn dầu, bao bên ngoài vải nhiều 
      lớp áo dừa để vải không bị rách trong quá trình ép! Áo dừa là một loại thu 
      hoạch từ trên cây dừa, nó có hình dạng như những miếng vải thô dệt vội và 
      cứng... Những miếng này bao thân dừa giữa những tàu lá và buồng trái ở 
      phần ngọn dừa...
      
      Làm 
      xong công việc bao bọc vải bằng áo dừa, người ta đặt lên trên bao ấy một 
      tấm gỗ khác hình tròn. Trên cùng là chiếc đòn gỗ dài thông suốt qua hai lỗ 
      của hai trụ hai bên. Người ta đặt hai cái nêm gỗ vào hai lỗ bên trên cây 
      đòn và dùng vồ lớn cũng bằng gỗ đập vào hai chiếc nêm! Hai người cầm vồ 
      phải là hai người có sức khỏe. Hệ thống ép dầu được vận hành và chất dầu 
      mầu vàng óng ả chạy tròn trong đường mương dẫn vào một chiếc lọ hứng phía 
      dưới... Thường thì dầu dừa được đựng vào thùng và hàn nút rất kỹ để di 
      chuyển xa! Những năm trước người ta dùng thùng dầu hôi con sò hay con gà 
      làm tiêu chuẩn đựng và cân dầu. Khoảng một nghìn trái dừa, tinh chế được 
      hai thùng! Sau khi ép lấy hết dầu, trong bọc vải còn lại một chất có hình 
      tròn dày khoảng nửa tấc tây hay mỏng hơn. Người ta gọi đó là bánh dầu! Ăn 
      vào vừa béo, vừa thơm, nếu cắn thêm một miếng đường thẻ, uống bát nước chè 
      tươi nữa là đủ bộ tuyệt cú mèo! Người ta cũng dùng bánh dầu nuôi heo và 
      làm phân bón rất tốt...
      
      Xác 
      cơm dừa và nước, sau khi được lấy hết tinh chất, người ta dùng làm thức ăn 
      cho heo. Người dân Tam quan nuôi heo cũng không giống bất cứ một nơi nào! 
      Heo mà họ nuôi là loại heo cỏ, heo mọi. Không ai thích ăn thịt heo có thân 
      hình to và nặng cỡ một trăm ký lô trở lên. Chính vì thế, ít khi chúng ta 
      thấy xuất hiện những chàng trư lấy giống từ ngoại quốc to dềnh dàng mà các 
      nơi khác ưa nuôi và bán thịt!
      
      Đó 
      là những con heo mọi khôn ngoan không kém chó trong nhà. Chúng được thả 
      rông ngoài vườn, tự do đi lại không hạn chế bất cứ đâu trong lãnh thổ mà 
      chúng thích! Chuồng của chúng là nơi hằng đêm chúng về ăn uống và nghỉ 
      ngơi. Sáng sớm, chúng kêu eng éc gọi chủ cho ăn và sau đó chun ra khỏi 
      chuồng đi rong chơi khắp ngã! Chúng ăn những xác cơm dừa sau khi người ta 
      lấy hết tinh chất! Chúng cũng được uống nước chua, loại nước sau khi người 
      ta lấy hết chất dầu trong quá trình thủy phân...! Nhà nhà thả heo rong 
      chơi khắp chốn, nhưng chưa nghe ai than phiền heo mình nuôi về lộn chuồng 
      nhà người khác. Heo biết được ai là chủ của nó và đâu là chuồng mà nó cư 
      trú trong đêm! Chúng sinh sản cũng theo thiên nhiên, nghĩa là lấy nhau 
      ngoài đồng, có khi sanh sản trong chuồng hay ngay cả ở các bụi cây trong 
      làng! Sanh xong, chúng nằm tại chỗ cho con bú. Chủ tìm gọi và chúng trả 
      lời bằng những tiếng kêu ịt ịt! Sau một tuần lễ mẹ con mạnh khỏe, chúng 
      dắt nhau về chuồng... Heo cũng là giống ăn tạp, nên trong lúc rong chơi 
      đây đó, chúng tìm ăn bất cứ thứ gì chúng thích kể cả chất thải của người! 
      Dân Tam quan nuôi heo dễ dàng như thế, chẳng có gì tốn kém và cũng không 
      phải bận rộn... Có một nghề rất đặc biệt nẩy sinh ra từ những chú heo thả 
      rong. Đó là nghề lượm phân heo! Người ta xách giỏ đi gắp những phân thải 
      của các chú lợn, đem đến một nơi nghĩa địa nào đó phơi khô, vô bao bán cho 
      nhà nông bón ruộng...
      
      Nhưng 
      kể từ "Thuở trời đất 
      nổi cơn gió bụi...!" 
      thì dân Tam quan và rừng dừa Tam quan cũng trải qua một giai đoạn trăn trở 
      biển dâu! Rừng dừa xưa không còn ngọn và những cánh rừng dừa con sau 1975 
      lại bắt đầu như những vòng định mệnh...! Con người Tam quan cũng lưu lạc 
      khắp năm châu! Bàn tay và khối óc người Tam quan bây giờ chuyên chở nhiều 
      ưu tư và làm những nghề khác nhau trên toàn thế giới! Nghề dầu dừa và dây 
      dừa bằng thủ công không biết bây giờ có ai còn nối tiếp. Máy móc, kỹ thuật 
      hóa đến đâu hay vẫn những bàn tay gầy lóc từng trái dừa, những thân hình 
      thiếu ăn còng lưng mài xác cơm dừa... Heo có còn chạy rông tự tìm thức ăn, 
      người vẫn chẳng cần đến nhà vệ sinh như những ngày xưa ấy!
      
      Xà 
      phòng nước tro
      
      Tôi 
      cũng giới thiệu sơ qua để các quí vị hình dung công nghệ làm xà phòng bằng 
      dầu dừa nổi tiếng một thời. Khi "Cách Mạng mùa Thu" đổ ập về... Dân Tam 
      Quan thiếu thốn đủ điều. Nhờ trái dừa nuôi sống, nhờ tất cả từ dừa mà vươn 
      lên. Tam Quan được ông Huỳnh Văn Trân hường dẫn cách làm xà phòng bằng 
      chính những tài nguyên của Tam Quan. Tro củi từ cây dừa, sọ dừa, vỏ dừa là 
      nguồn chính. Người ta ngâm tro vào trong những chum vại có vòi phía dưới. 
      Nước tro sẽ chảy ra từ từ trong veo màu vàng sậm như nước trà đậm. Sau đó 
      người ta cho nước tro vào chảo lớn nấu cô đặc lại. Trong quá trình cô đặc, 
      người ta dùng ống độ (loại ống độ với nước lã là 0 độ, hồi đó tự chế - tự 
      chế ống độ dễ thôi!) để đo và cho dầu dừa vào với tỷ lệ được định sẵn. 
      Người ta còn cho vào dung dịch nầy một tỉ lệ sút (chất base). Chất nầy 
      được đặt mua bên "vùng bị chiếm" Người ta cứ chụm lửa riu riu đến khi dung 
      dịch nầy "tới" thì đổ vào khuôn lớn. Sau đó người ta cắt ra thành bánh 
      vuông, cho vào khuôn đóng thành cục xà phòng có hiệu, có tên nơi sản xuất 
      và bao nhiêu phần trăm lượng dầu. Người ta đem xà phòng đi bán khắp vùng 
      Bình Định Quãng Ngãi, Phú Yên... Ba má tôi cũng là một trong những "lò" 
      sản xuất xà phòng hiệu "Con Bướm" nổi tiếng đến nổi có người thân quen, là 
      bạn nối khố của Ba tôi mượn khuôn về làm giả mạo để rồi kiện tụng một thời 
      gian dài... Nói tóm lại, Tam Quan là một địa danh nổi tiếng về nhiều vấn 
      đề khiến cho những ai sanh ra và lớn lên tại Tam Quan đều rất lấy làm hãnh 
      diện.
      
      Thủy 
      hải sản
      
      Tam 
      Quan có một bờ biển chạy dài từ cửa An Giũ đến Sa Huỳnh. Bãi cát trằng 
      phau ít tạp chất. Bãi cát này có thể so sánh với bãi cát Cam Ranh dùng 
      trong công nghệ thủy tinh. Nước biển Tam Quan trong ngần và không có bùn. 
      Tôm cá biển Tam Quan vì thế mà không bị hôi bùn hôi rong như thủy sản của 
      những vùng vịnh có bùn phù sa. Thủy sản Tam Quan cũng đủ loại như những 
      vùng biển khác. Người dân chuyên nghề biển có ghe đi khơi, có ghe câu gần 
      bờ. Nghề biển, sống theo con nước là nghề nhờ Hà Bá quanh năm vất vả. Tôm 
      cá thâu hoạch được thường đem đi các chợ gần bán bằng cách gánh từng gánh 
      do người trong gia đình. Khi xưa, chưa có nước đá nên người ta thường làm 
      thế nào đem đến chợ bán gấp, chậm thì cá bị ươn thối. Sau này trên mỗi ghe 
      thuyền đều có hầm chứa đá. Cho nên kỷ nghệ nghề biển cũng có phần hưng 
      thịnh. Nghề làm nước mắm ở Tam Quan cũng rất phát đạt. Người ta thường lấy 
      cá cơm làm mắm. Các loại cá khác cũng thịnh hành chủ yếu là để pha chế 
      thành nước mắm bán cho dân chúng tiêu dùng...
      
      Bây 
      giờ chúng ta thử du ngoạn trên dòng sông Tam quan, thưởng thức những gì mà 
      dân Tam Quan thường ca tụng như là thiên đường của tuổi hoa niên... Dừa 
      chen với dừa và sông chen trong bóng dừa, cùng tắm mát và nuôi sống bao 
      nhiêu lớp người Tam Quan!
      
      Bây 
      giờ ta thử quan sát hệ thống sông ngòi. Đó là hệ thống tự nhiên của dòng 
      sông Tam quan. Dòng sông có một đặc tính vừa mặn vừa ngọt, vừa đục vừa 
      trong. Nơi nào có chất phèn thì vừa chua vừa chát... Nó cũng giống như 
      những con người sanh ra từ đó! Quanh năm uống nước gánh về từ xa. Giếng 
      Truông nuôi sống cả một thành phố, những giếng đào từ bãi cát mới ngọt 
      lòng người! Nước sông Tam Quan chỉ để làm muối... Mùa hè nước trong veo, 
      lòng sông không có nơi nào sâu lắm và cũng chẳng có gì nguy hiểm để những 
      ai mê tắm phải sợ hãi mà không ngụp lặn trong làn nước mặn từ biển hòa với 
      cái ngọt từ nguồn...
      
      Chỉ 
      cần một ngọn đèn dầu nhỏ, được che gió bằng những nan tre đan kín, một 
      chiếc nôm và cái đụt là bạn có thể lội xuống dòng sông bắt đầu một thú đam 
      mê không sao cưỡng được: Soi cá! Ban đêm toàn bộ những loài thủy sản đều 
      lờ đờ mê ngủ. Cá hay tôm đều chậm chạp và rất dễ bắt. Bạn chỉ cần soi ánh 
      đèn dầu vào làn nước trong veo, sâu khoảng đến đầu gối, bạn sẽ thấy rất rõ 
      những gì đang diễn ra từ mặt nước đến đáy nước. Bạn sẽ làm gì khi thấy một 
      con cá bống lớn khoảng cùm tay bạn, đang nằm bất động trong tầm chiếc nôm 
      bắt cá bạn đang cầm trên tay! Bạn sẽ hành động ra sao khi thấy trước mặt 
      bạn một con tôm sú màu xanh đậm có quầng trắng, to bằng chiếc dùi cui cảnh 
      sát, đang tự nhiên bò, không cần biết có bạn đang chong đèn bắt nó. Bạn 
      làm thế nào để bắt một con cua to cỡ hai bàn tay bạn đang nằm im mời mọc... 
      Và bạn phải làm gì khi thấy hàng đàn cá đối to có, nhỏ có thi nhau bơi qua 
      và không hề sợ sệt quấn lấy chân bạn! Nước trong veo, trời xanh biếc đầy 
      sao và ánh trăng... Có thể bạn đang đắm chìm trong mộng và trong một giấc 
      mơ dài tuổi thơ từ đó...
      
      Chỉ 
      cần một cọng sống lá dừa, một khúc giây mi hay giây la đờn mandoline bị 
      đứt. Bạn sẽ biến nó thành một dụng cụ bắt tôm thoải mái và thích thú vô 
      cùng. Khi cái móc bằng giây đờn được móc vào mắt một con tôm, con tôm búng 
      ra giãy dụa. Tay bạn quằn qua quằn lại theo con tôm, cuối cùng bạn xách nó 
      lên khỏi mặt nước. Con tôm búng chành chạch trong giỏ đụt và bạn lại thấy 
      một con khác đang đậu vào vách đá... 
      
      Có 
      thể bạn sẽ là một ngư ông! Ngồi dưới chân một chiếc cầu trong đêm đầy 
      trăng. Bạn móc một con gián đất vào lưỡi câu, thả nó lơ lửng vào lòng con 
      nước đang lờ đờ chảy. Vừa nhấm nháp ly trà pha đậm, nghe tiếng gió thầm 
      thì qua những hàng dừa đang e ấp dưới trăng... Trong chốc lát, con cá hanh 
      khoảng bàn tay bạn đòi bạn phải cong tay và giãn hai chân để lôi nó lên bờ. 
      Cái thích thú nhất là lúc cần câu động đậy cong vòng, tay bạn phải nhịp 
      nhàng, khi giùn khi thẳng theo chiều đi của con mồi để khỏi phải đứt giây 
      câu... Nếu không thế, có khi "...Đứt nhợ, vênh râu ngồi bờ..." thì cũng 
      quê lắm phải không!
      
      Nhưng 
      nếu đến mùa mưa giông tháng ba mà không xách đèn đi soi ếch thì cũng là 
      một điều thiếu sót. Tháng ba, ếch mập và hăng. Mỗi khi sau cơn mưa giông, 
      trời tối om, các anh chị ếch nhái, ễnh ương, chàng hiu, chẫu chuột... đều 
      ra khỏi hang tìm nhau để làm tình! Ngọn đèn của bạn soi qua, ánh sáng bất 
      ngờ ấy không làm cho các cô cậu ếch bừng tỉnh cơn mê. Chúng ôm nhau cứng 
      đến nỗi bạn bắt chúng và bỏ vào đụt, chúng cũng chưa tỉnh để thả nhau ra! 
      Tình yêu lúc đó cao độ mà lị! Thế cho nên bạn cứ thoải mái lựa cặp nào to 
      nhất để bắt. Bảo đảm với bạn là các cô chú ếch lúc mê ly, không cần biết 
      điều gì đang xảy ra. Không biết con người, khi nổi cơn mê, có giống loài 
      ếch không nhỉ!
      
      
      Nếu 
      bạn ngồi trên một con thuyền nhỏ tẻo teo như trong thơ Nguyễn Khuyến để 
      thả rập cua thì thật là tuyệt cú mèo! Từ ngữ thả rập có nghĩa là đi bẫy 
      cua. Nhưng thế nào là bẫy cua? Cái bẫy cua hay tiếng địa phương gọi là cái 
      rập, gồm một miếng lưới nhỏ khoảng hai tấc vuông, căng bằng hai thanh tre 
      chéo nhau. Bạn cột vào mấy cục đá cho nó có thể chìm xuống đáy sông. Chính 
      giữa chéo của hai thanh tre, bạn cột một giây dừa dài, cuối cùng của sợi 
      giây là một cái phao bằng vỏ dừa. Chính giữa cái bẫy, bạn cột một miếng 
      mồi mà cua rất thích là bầy nhầy hay ruột của heo bò hơi có mùi thối. Trên 
      con thuyền bé ấy, bạn có chừng khoảng hai hay ba chục cái rập như thế là 
      có thể bắt đầu một cuộc ngao du trên dòng sông huyền thoại. Chèo thuyền ra 
      giữa dòng và cứ một khoảng cách vừa phải, bạn thả xuống lòng sông một cái 
      bẫy. Sau khi thả hết mấy mươi cái bẫy, bạn có thể đàng hoàng chèo thuyền 
      chui vào một bóng cây nào đó bên bờ để làm thơ hay đọc sách... Chừng một 
      giờ sau, bạn có thể chèo thuyền thơ đến bên những chiếc phao đang nổi trên 
      mặt nước. Bạn từ từ thu ngắn giây và thế nào cũng thấy một chú cua ham mồi 
      đang nằm gọn trong cái bẫy của bạn...
    
    
         
        
    
    
      Sau 
      những cơn mưa, nước sông nửa đục nửa trong, nửa mặn nửa ngọt. Cá đối là 
      loại sống ở biển nhưng thích vào nơi nước xạ hai gần các cửa sông, đầm và 
      vịnh... Nước xạ hai nửa trong nửa đục, nửa ngọt nửa mặn mang nhiều chất 
      cho những loài cá ăn rong rêu. Cá đối là một trong những loại ăn rong, 
      thích những nơi nào có đất lở hay nhiều bọt... 
      Lợi 
      dụng những đặc tính ấy, người ta tìm cách bắt cá đối. Dụng cụ để bắt cá 
      đối thật là giản dị. Người ta kiếm một miếng lưới cá phế thải nhỏ, mỗi bề 
      độ một mét rưỡi, căng thật thẳng với hai thanh tre uốn cong chéo nhau. Tìm 
      một khúc tre nhỏ, dài độ ba mét làm cáng. Miếng lưới căng thẳng có sức cản 
      nước, nên mỗi khi được người ta đập mạnh xuống mặt nước là sùi bọt và phát 
      ra tiếng kêu giống như đất lở...!
      
      Sau 
      cơn mưa, trời tối, bạn và một vài người nữa cùng đi bắt cá đối. Bạn khó mà 
      đi một mình vì đêm tối trời bạn sẽ sợ ma. Vả lại bạn phải đi âm thầm không 
      được để cho cá thấy được ánh sáng. Một người xách giỏ đựng cá, một người 
      vác cái chụp - dụng cụ bắt cá đối tả ở trên - và một người nữa cầm đèn pin 
      để lượm cá. Đèn pin không được tỏa ánh sáng ra ngoài... Len lỏi giữa những 
      bụi cây bần, cây đước, nơi nào có một khoảng trống vừa một thước rưỡi 
      vuông là bạn chụp đánh ào thật mạnh. Tấm lưới sẽ phát ra tiếng kêu giống 
      như đất lở, đồng thời bọt bèo nổi lên. Những con cá đối từ chung quanh 
      liền vuợt đến... Bạn đếm từ một đến mười là mạnh tay giật cái chụp lên 
      thật lẹ. Cá có thể sẽ văng lên bờ hay còn trong lưới tùy theo sức mạnh của 
      bạn. Việc lượm những con cá đang nhảy đành đạch trên bờ là việc của hai 
      chàng hộ tống...
      
      Người 
      dân thôn Cửu Lợi có cách bắt cá đối, cá cồi, cá măng còn độc đáo hơn nữa. 
      Có thể nói cách bắt cá theo kiểu nầy, chỉ có tại Tam Quan! Ngoài những đặc 
      tính đã tả ở trên, cá đối còn có một đặc tính khác rất ngông cuồng. Trên 
      đường đi của bầy cá, nếu có vật gì cản chúng, chúng liền nhảy qua để đi 
      tiếp theo lộ trình đã hoạch định. Sông nước Tam quan là nơi những bầy cá 
      đối hàng nghìn con tung hoành ngang dọc. Chúng rong chơi và làm tình dưới 
      làn nước trong leo lẻo... Lợi dụng dòng sông lúc thủy triều xuống để bắt 
      những bầy cá đối béo mập là việc làm của cả tập thể đồng bào trong các xóm 
      ven bờ.
      
      Khi 
      thủy triều xuống, lòng sông nước cạn. Bạn có thể lội qua lội lại giữa 
      những khúc sông mà không ướt quần cũng không cần cởi quần! Vì thế cho nên 
      khi người ta đem những tấm nan tre đan vào nhau bằng dây dừa, chận ngang 
      dòng sông. Xa khoảng một cây số là một đoạn khác cũng chặn ngang bằng 
      những lưới tre như trên. Thế là đàn cá bị kẹt vào giữa. Lúc bấy giờ cả 
      làng ra bắt cá bằng mọi phương tiện. Ai có nhá thì dùng nhá, ai có nom thì 
      dùng nom... 
      Tất 
      cả lội xuống khúc giữa, hai đầu là hai đoạn bị chận lại. Phía sau hàng rào 
      bằng lưới tre là những con thuyền chờ sẵn để đón hàng ngàn chú cá đối nhảy 
      lên hay những chiếc giàn cũng bằng tre đợi sẵn. Thích thú nhất là bạn ngồi 
      xem cá đối nhảy lên thuyền hay lên giàn hứng. Bạn không thể nào tả được 
      cái cảm giác khi chứng kiến một màu trắng phau toàn là cá tự nhảy lên 
      thuyền để làm thức ăn cho người! Người ta quậy phá khúc sông đó đến chừng 
      nào cảm thấy đã bắt hết các loài thủy tặc tại chỗ mới thôi.
      
      Thời 
      nào cũng thế, thời chín năm kháng chiến thì các khúc sông nầy được chính 
      quyền xã thôn cho đấu thầu để kiếm tiền gây quỹ. Sau 1954 cũng theo qui củ 
      đó mà làm. Việc phân dòng sông thành nhiều đoạn để đấu thầu kể cả đi soi 
      cá hàng đêm tránh việc tranh chấp kiện tụng. Tuy thế cũng không tránh được 
      việc xách đèn soi lộn khúc sông mình không đấu thầu hay vào các đìa cá 
      người ta đang thả nuôi để mò trộm... Mỗi năm đều có lệ đấu thầu các lòng 
      sông và buôn bán con cháu thủy tề ngay khi chưa bắt được!
      
      Thuở 
      thiếu thời, khi mùa hè hoa phượng đỏ sân trường, cũng là lúc chúng tôi háo 
      hức về lại Tam Quan để thưởng thức món cá nướng hay tôm cua do chính tay 
      mình bắt được. Cái thú cầm đèn soi cá hay đứng bên hàng đăng lưới tre cùng 
      bà con bắt cá là một cái thú không bao giờ quên được... Mai nầy, nếu có 
      còn sức khỏe, có thể ta sẽ phải có một lần chống gậy về quê hương cũ, ngồi 
      trên bờ sông xưa để xem đàn con cháu làm ăn theo kiểu cũ bằng chân tay như 
      ta thời mấy mươi năm trước; hay đã kịp thời máy móc hóa, áp dụng khoa học 
      vào đời sống...
      
      Ngày 
      ấy có thể là ngày mà chẳng còn ai nhận ra ta là ai, bạn là ai... Quê hương 
      đổi thay như lúc Lưu Nguyễn khi về lại trần gian... Nhưng có một điều chắc 
      chắn là dòng sông vẫn mang nước vừa mặn vừa ngọt, vừa chua vừa chát, cá 
      tôm vẫn giống cá tôm năm nào. Ngọn dừa vẫn sẽ vẫy tay chào ta như lúc ta 
      còn là một chú nhỏ đen đúa, ngày đêm bận chiếc quần đùi rách, đi tìm những 
      con cá nhỏ ven sông... Nhớ những năm dài chín năm kháng chiến. Nhớ những 
      đêm không trăng sao, hai cha con cởi quần vắt vai bơi qua sông tìm bắt cá 
      đối, nuôi sống bao nhiêu miệng ăn trong gia đình.
      
      Bờ 
      biển dài California và những dòng sông không có nước. Những thành phố vĩ 
      đại bạn có thể đã lái xe qua... Bạn có bao giờ ngồi trên những chiếc cầu 
      bắc dài ra biển để câu cá thì bạn sẽ thấy cái cảm giác mơn man trào dâng 
      kỷ niệm từ một xó xóm nghèo thuở thiếu thời! Riêng tôi, tôi hứa sẽ có một 
      ngày chống gậy về lại bên dòng sông xưa nghe thủy triều lên xuống và 
      thưởng thức món cá đối nướng chấm với mắm nhĩ vừa nhỏ giọt từ vòi chum mắm 
      cá cơm thơm phức mùi quê hương...
      
      Đặc 
      sản
      
      Bây 
      giờ thì tác giả xin phép được mời khách thưởng thức món ăn đặc biệt Tam 
      Quan. Khách sẽ ra về với một kỷ niệm không quên về một địa danh trong đại 
      gia đình Bình Định xa tít mãi tận phía Bắc của một tỉnh to lớn và đầy sinh 
      lực. 
      
      Người 
      dân đất Thần kinh là một trong những người yêu quê hương. Họ diễn tả đủ 
      mọi thể loại và đủ mọi hướng để giới thiệu trọn vẹn cái đẹp, cái thơ, cái 
      ngon, cái đặc biệt của xứ Huế. Từ con đò Vỹ Dạ, chén cơm hến, tô bún bò, 
      đến hoàng thành... từ lăng tẩm uy nghi đến những đặc tính về trai gái của 
      thủ đô một thời! Họ đã thành công hoàn toàn, có ai vì thế mà chê bai họ 
      đâu. 
      Thế 
      cho nên chúng ta viết về cái quê nghèo đầy kỷ niệm của chúng ta là một bổn 
      phận! Nơi chốn nào, dù nghèo đến đâu, cũng mang nặng tình mẹ muôn đời đã 
      ru ta từ những lời ru của mẹ, từ những thì thầm của lũy tre xanh, của ngọn 
      dừa râm mát và những đợt sóng vỗ bờ thì thầm tình tự... Chẳng có nơi nào 
      không có những đặc biệt cần giới thiệu với người thời sau. Nhất là ta được 
      dịp nói lên cho mọi người cùng đọc những gì ta suy nghĩ từ lúc còn là một 
      em bé quê mùa, chân đất...
      
      Trở 
      về lại với xó quê hiền hòa và rợp bóng dừa xanh của riêng tác giả. Hầu như 
      chẳng bao giờ tôi có thể viết hết được những gì đọng lại trong tôi về nơi 
      ấy. Tôi chỉ mở ra một cánh cửa hẹp giới thiệu đơn giản một vài lãnh vực mà 
      riêng tôi cảm nhận được. Tam Quan không giản dị và thơ mộng đơn thuần như 
      tôi thường kể. Các bạn cứ nhìn những người Tam Quan đang tha phương cầu 
      thực trên khắp năm châu thì các bạn cũng thông cảm cho tôi rằng: Dân Tam 
      Quan cũng chẳng vừa gì...!
      
      Vợ 
      chồng tôi mời các bạn cùng ăn cơm Tam Quan với mắm cá thu, quẹt rau, thịt 
      heo mọi luộc và bánh tráng mì nước dừa nướng. Trước hết thì chúng ta quan 
      sát bà xã trong bếp đang làm gì. Trên bàn chúng ta thấy gạo đã vo sẵn, 
      trên bếp thì một soong nước gần sôi. Không phải nước thường đâu nhé mà là 
      nước và cơm dừa nạo tươi vừa hái trên cây. Dừa được chặt ra lấy nước và 
      cơm dừa non đóng trên thành. Tất cả cho vào nấu. Dừa nạo có nghĩa là trái 
      dừa còn non, cơm dừa mới đóng bợn cơm trên thành sọ dừa... Nước dừa nạo 
      sôi lên thì bà xã tôi đổ gạo vào sao cho đều và không bị sít cháy. Vừa cho 
      gạo vào soong vừa lấy đũa bếp quậy đều để cơm dừa non quyện với gạo.
      
      Sau 
      khi đậy nắp, để cho sôi một dạo, xem thử nước có nhiều không. Nếu nhiều 
      quá thì múc bớt đi sao cho khi cơm chín không nhão. Nhớ cho một tí muối 
      hầm vào để trung hòa... Mới nghe đến đó, bạn thấy thế nào về nồi cơm Tam 
      Quan bạn sắp thưởng thức?
      
      Có 
      người thắc mắc rằng sao không đổ gạo vào trái dừa nấu cho ngon! Xin thưa 
      rằng đó cũng là một cách làm cầu kỳ lúc chúng ta có một đống lửa than lớn 
      hay lửa trại. Vì sọ của trái dừa non rất mềm, không thể lóc ra làm nồi nấu. 
      Còn nếu dùng luôn cả vỏ ngoài thì nấu cơm rất lâu mới chín. Vì thế cho nên 
      muốn đãi khách cầu kỳ như thế phải có năng lượng cao... Thôi thì nếu muốn 
      cũng được. Ta cứ nấu theo kiểu bà xã tôi đang nấu. Khi nấu xong ta cho vào 
      trong những trái dừa đã nạo sẵn để mỗi người cầm mỗi trái cho vui...!
      
      Món 
      ăn tiếp theo mà chúng ta thấy đang để trên bàn ăn là mắm cá thu. Sẵn đây 
      ta xem thử cái món độc đáo nầy đã chế biến như thế nào mà gọi là đặc sản 
      của Tam Quan. Các bạn cứ tưởng tượng đang có một con cá thu mặn trước mặt. 
      Cá thu nguyên con đem muối và sau một thời gian lấy nước mắm... Xác con cá 
      thu còn nguyên, nhưng là cá mắm chứ không phải cá thu thường. Con cá mắm 
      thu nầy được cắt ra từng khúc và lấy muỗng cào hết thịt cho vào một tô để 
      sẵn. Thịt cá thu mắm bây giờ rất mặn.
      
      Bên 
      cạnh là một khúc thịt heo luộc, trọng lượng thịt tương đương với trọng 
      lượng thịt cá thu mắm. Phía trên bàn chúng ta thấy một miếng mỡ to, trọng 
      lượng cũng tương đương đã luộc có màu trắng hếu đang chào mời. Chưa hết! 
      Ngoài sân đang phơi một mâm trái thơm chín xắt lát, phơi heo héo thôi. Củ 
      tỏi cho nhiều vào và ớt trái màu đỏ nữa nhé!
      
      Bây 
      giờ là lúc các bạn quan sát cách chế biến mắm thu. Bạn có thấy một người 
      lực lưỡng đang ngồi cầm chày bên cái cối đá to không! Đó chính là người 
      thay máy móc điều chế món ăn ngon miệng cho ta. Trước hết, bạn cho món 
      trái thơm phơi heo héo vào cối. Anh chàng trai bắt đầu giã nhỏ và nhuyễn. 
      Sau khi lấy món trái thơm nhuyễn ra khỏi cối, bạn cho tỏi ớt vào, thịt heo 
      luộc được xắt nhỏ cho vào giã cũng nhuyễn rồi lấy ra. Mỡ luộc cho vào cối 
      quết, sau đó là thịt cá mắm thu... Nhớ chuẩn bị sẵn tiêu nữa cho thơm! Nếu 
      có máy xay để thay cối giã thì tuyệt cú mèo!
      Bây giờ các món đã được làm nhuyễn trên được chúng ta 
      trộn lại cũng trong cái cối đá. Lấy chày đảo sao cho nó đều và dẻo nhẹo. 
      Nước mỡ quyện với thịt heo và trái thơm cùng thịt cá thu mặn... Thành một 
      món ăn quẹt đặc biệt của Tam Quan. Các bạn có thể cho vào thẩu lọ hay thố 
      để dành ăn lần mà không bao giờ sợ hư vì trong đó có mỡ heo bảo quản! Các 
      bạn thắc mắc là sao không cho thêm ít đường hay bột ngọt phải không. Đừng 
      lo! Trái thơm ngọt ngào đã thay thế những gia vị ấy. Thơm không những làm 
      cho mắm thu có vị đặc biệt mà còn làm bán mùi mắm cá trở thành thơm tho dễ 
      hấp dẫn khách sành ăn... Trên thương trường, dân sản xuất bán mắm cá thu 
      thường ham lời, cho thơm vào nhiều quá, hay bớt thịt và mỡ... Cho nên chất 
      lượng và mùi vị không thể sánh với món mắm chính tay gia đình ta chế biến 
      được...
      
      Thế 
      là trên bàn ăn, chúng ta có được hai món. Một là cơm nước dừa nạo, hai là 
      mắm cá thu. Bây giờ là một món mà bất cứ người nào sanh ra và lớn lên ở 
      Bình Định đều phải biết. Đó là bánh tráng. Nhưng tại sao gọi là đặc biệt? 
      Bạn có thể đi đến bất cứ nhà nào trong vùng Bình Định, nếu bạn được mời ăn 
      giỗ hay ăn tiệc, thậm chí ăn cơm thường... 
      Món 
      đầu tiên để gọi là mời chào xã giao cho tự nhiên là: Mời ăn bánh tráng. 
      Bánh tráng được nướng giòn và để nguyên cái úp lên món ăn thành đồ che 
      chắn. Khi bắt đầu ăn, người chủ mời khách một cách thân mật bằng những 
      tiếng bẻ giòn tan của bánh tráng nướng trên tay và trong môi, để sau đó 
      nhờ thế mà câu chuyện thêm giòn...
      
      Bánh 
      tráng thường thì đâu cũng có, Bình Định nổi tiếng về bánh tráng mì. Đó là 
      sản phẩm làm toàn bằng củ mì. Thế cho nên có người nói đến Bình Định đã 
      cười pha trò rằng: Xứ củ mì! Thế nhưng bánh tráng mì Tam Quan thì không 
      đơn thuần như thế. Nó được mang danh là bánh tráng mì nước dừa. Xứ dừa mà 
      lị! Muốn làm bánh tráng mì nước dừa, người ta mài củ mì tươi và dùng luôn 
      cả xác. Xác củ mì mài được dùng trộn với bột mì theo tỉ lệ ít nhiều tùy 
      theo nhà sản xuất. Cơm của trái dừa già mài nhuyễn trộn với bột và xác 
      khoai mì. Hành hương và muối được cho vào để bánh tráng thơm, vị vừa dễ ăn. 
      Khác với bánh tráng củ mì thường, bánh tráng có nước dừa rất dày, phơi khô...
      
      Muốn 
      ăn bánh tráng loại nầy chúng ta cần có một lò lửa than cho thật tốt. Nướng 
      bánh tráng mì nước dừa cũng là một nghệ thuật chứ không phải bình thường, 
      vì bản chất nó dày và khó nướng. Nướng bánh phải nổi đều và vàng. Nếu bánh 
      nướng không nổi mà bị chai, khi ăn không dòn mà chỉ dai nhách làm khách có 
      cảm tưởng là ăn nhằm miếng da bò khô! Khi nướng bánh tráng mì nước dừa 
      xong, trên bàn bạn có được ba đặc sản. Bạn cần một đĩa rau đủ loại phải 
      không, bạn cần một đĩa thịt ba chỉ luộc nữa. Đừng lo! Dân Tam Quan ăn thịt 
      heo mọi chứ ít khi chịu ăn thịt heo to con màu trắng thường được gọi là 
      heo Tây! Thịt heo mọi nuôi trong nhà, thịt heo mọi mua ngoài chợ đều thơm 
      ngon mùi Tam Quan...
      
      Một 
      hai ba! Mời bạn ngồi vào bàn ăn. Thay vì tôi và bà xã tôi mời bạn cầm đũa 
      thì tôi mời bạn thưởng thức bánh tráng mì nước dừa nướng khai khẩu. Thay 
      vì mời bạn uống bia hay rượu chát cho tình đồng hương thắm thiết, chúng 
      tôi mời bạn cùng nâng ly nước dừa nạo tươi vừa hái ở góc vườn...
      Ôi! Quê hương ta đó, hãy nhớ và hãy tin rằng có một 
      ngày về lại để ôn những kỷ niệm còn giăng mắc trong ta. Món ăn riêng biệt 
      của quê hương ta có thể nó không đúng khẩu vị với những khách mời khó tính 
      nhưng đối với ta, nó là món ăn từ thuở thiếu thờiï, trong lòng chỉ muốn ôm 
      trọn quê hương nghèo của mình, ở đó và chết cũng ở đó. Thế mà ước nguyện 
      bé nhỏ ấy lại không thể nào thành sự thật... Hỡi những con dân Tam Quan 
      đang rải khắp địa cầu! Hãy tự hào rằng mình đã được sinh ra và lớn lên 
      trên mảnh đất tuy hẻo lánh và nghèo... Nhưng tình yêu và tình dân dộc 
      trong ta vẫn luôn hướng về!
       
      
      Xuân năm 2006
      lêanhdũng