Làng cổ nằm bên sông Nhuệ, nổi tiếng từ bao đời nay bởi có nghề truyền
thống gắn liền với văn hóa ẩm thực của dân tộc: món giò chả. Ước Lễ còn
chứa đựng trong lòng mình nhiều di tích độc đáo của văn hóa dân tộc.
Ngay từ đầu làng, chiếc cầu gạch cong cong duyên dáng bắc qua con sông
nhỏ và cổng làng bề thế với dòng chữ Hán "Ước Lễ thôn", đưa chúng ta vào
không gian của làng cổ. Miếu chợ nằm bên gốc đa cổ thụ có lẽ 300-400
tuổi rủ rễ dài chạm đất, tán lá rộng che rợp cả ngôi miếu nhỏ.
Bên kia chợ, đình làng thờ Thành Hoàng Lữ Gia còn giữ nguyên vẹn kiến
trúc thời Hậu Lê, đẹp sánh ngang với đình Quảng Bá (Hà Nội). Trong các
gian đình, tất cả đầu vì kèo và đầu xà ngang đều được nghệ nhân chạm
khắc nổi hết sức sinh động, mềm mại, uyển chuyển hình tứ linh
long-ly-quy-phượng và mặt trời cùng mai-lan-cúc-trúc.
Ðặc biệt, khác hẳn với nhiều đình của các làng Bắc Bộ, đầu vì kèo ở mái
hiên chỉ được chạm khắc đơn giản hoặc không chạm khắc; xà ngang và vì
kèo của mái hiên đình Ước Lễ đều được chạm khắc rất tỉ mỉ, tinh tế. Trên
nóc đình, ngoài đôi rồng chầu mặt trời, còn có đôi cá chép uốn cong
được ghép bằng các mảnh sứ xanh lam. Hai đầu đình có hai bầu rượu tròn
cao ngất là những chi tiết độc đáo, riêng biệt, đặc sắc của kiến trúc
đình Ước Lễ mà ở một số đình nổi tiếng như Tây Ðằng, Ðình Bảng không có.
Ðôi cá chép để trên nóc đình chắc có liên quan đến sự tích "cá vượt vũ
môn" để nêu cao tinh thần hiếu học cho dân làng Ước Lễ.
Cuối làng, ngôi chùa Sổ còn lưu giữ được hiện vật quý hiếm của thời Lý -
Trần. Chùa nằm trên khu đất cao giữa cánh đồng. Xa xưa hơn nữa, chùa
vốn là Quán Hội Linh thờ thần của Ðạo giáo. Ðến thời Lý, quán được tu
sửa thành chùa. Hiện tượng quán biến thành chùa cũng đã xuất hiện ở ngay
kinh thành Thăng Long (Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai, sau thành
chùa, nhưng trong chùa vẫn thờ thần Huyền Thiên).
Còn chùa Sổ thờ Thái thượng Lão quân, Thượng Thanh, Thái Thanh, Ngọc
Thanh và các môn đệ mà không thờ Phật Tam thế và Cửu Long như các chùa
khác. Chùa Sổ được đại trùng tu vào đời Lê Trung Hưng (1634) và đời
Nguyễn, năm Thành Thái thứ 5 (1901).
Di vật quý hiếm nhất mà chùa còn giữ được là những viên gạch ở chân
tường có hình con rồng thời Lý, chung quanh rồng là những cánh hoa cúc
mềm mại.
Cho đến nay, những chùa còn giữ được hình rồng thời Lý trên gỗ hoặc trên
gạch và đất nung, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ðó là văn hóa vật thể quý
hiếm cần phải được bảo tồn. Riêng bốn tấm bia đá đặt trong nhà bia là
những trang sách vô giá của người xưa để lại, trong đó bia quán Hội Linh
đã được Viện Hán - Nôm khảo cứu và dịch. Nhờ văn bia này, chúng ta mới
được biết: Quán Hội Linh là danh lam nổi tiếng của nước Nam ta...
Bốn bề chung đúc khí thiêng, người tài vật quý, chư vị thảy đều linh
ứng, phúc đến lộc về. Quận công Ðào Quang Hoa, vốn người xã Tuyền Cam,
huyện Thanh Oai, làm Quận công ở Trấn Lạng Sơn, cùng vợ là bà Trần Thị
Ngọc Lâm, mến mộ cảnh vật Ước Lễ, đem của cải trong nhà và tiền công
đức đứng ra xây dựng chùa, khởi công vào ngày 19-12 năm Kỷ Tỵ (1527); từ
đó, ông bà cho xây tam quan, gác chuông, nhà bia, đúc 17 tòa tượng
Phật mới, tô các tòa tượng Phật cũ, đúc chuông, cúng 10 mẫu ruộng cho
chùa. Vì vậy, trên khu đất cao giữa cánh đồng làng Tân Ước, Quán Hội
Linh thành chùa Sổ với kiểu kiến trúc chữ Công, mang đậm kiến trúc nghệ
thuật Lý Trần; trải 10 thế kỷ mà dấu tích vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Chùa Sổ đã được Bộ Văn hóa công nhận di tích lịch sử văn hóa năm 1986.
Ngoài chùa Sổ, Ước Lễ còn có chùa Sùng Phúc, dân làng thường gọi là chùa
Mới vì chùa được xây cách đây khoảng 150 năm, mang phong cách kiến trúc
thời Nguyễn. Những năm chống Pháp xâm lược, Hòa thượng Thích Thanh Nhân
đã đào hầm nuôi cán bộ kháng chiến. Chùa trở thành cơ sở an toàn cho bộ
đội, cán bộ kháng chiến hoạt động.
Cùng với đình chùa có những nét kiến trúc độc đáo trên, làng cổ Ước Lễ
còn giữ được khá nhiều nếp nhà và cổng ngõ theo lối nhà cổ của nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ đầu thế kỷ 20. Qua sân gạch rộng lát gạch vuông là
"dại tre" đã cũ che trước hiên nhà và những mái ngói vẩy cá thấm đẫm mầu
thời gian như đưa ta trở về thuở ngày xửa ngày xưa êm đềm với tiếng
chày giã giò đều đặn nhịp nhàng. Làng nghề chuyên làm ra miếng ngon Ước
Lễ, sớm mở rộng giao lưu buôn bán với khách bốn phương, vẫn giữ được văn
hóa làng cổ thuần Việt, ít bị pha tạp bởi cơ chế thị trường. Bà bán chè
ngồi dưới gốc đa đầu chợ đon đả mời tôi bát chè cốm dẻo thơm, đúng là
hương vị cốm thứ thiệt, không nhuộm phẩm xanh, ăn đến đâu mát ruột đến
đó.
Ðình chùa, cổng làng cây đa, bến nước đẹp nên thơ trong chiều quê tĩnh
mịch. Tiếng chuông chùa buông từng tiếng và tiếng chuông nhà thờ binh
boong cùng hòa trong không gian bình yên. Về thăm làng cổ, đứng dưới
mái đình, mới thấy rõ nét tinh túy của văn hóa làng - văn hóa dân tộc
vẫn trường tồn trong mạch sống ở làng nghề Ước Lễ mà cháu con phải biết
cùng nhau giữ lấy.
Theo báo Nhân dân điện tử