Tất nhiên, bà còn có niềm tin mãnh liệt về dân chủ. Nhưng đó không
phải là điều tôi muốn nói ở đây. Tôi chỉ muốn tìm hiểu tại sao một nước
theo Phật giáo nguyên thủy như Myanmar, trong đó các sư sãi thường ít
lo lắng đến chuyện xã hội bằng chuyện tu hành bản thân, lại diễn ra
những quang cảnh tấn công chùa chiền, bắt bớ tăng ni, làm như thử Phật
giáo ở Miến Điện đã “dấn thân” tự bao giờ trong chính trị. Có thật thế
chăng? Và nếu có liên hệ thì tôn giáo và chính trị đã liên hệ với nhau
như thế nào trong lịch sử? Tôi không có tham vọng trả lời câu hỏi có
tính nghiên cứu đó trong một bài báo xuân ngắn ngủi. Tôi chỉ xin kể, và
kể rất giản lược, vài chuyện có liên quan đến câu hỏi đó để điểm lại
quá khứ và suy đoán tương lai.
Chuyện đầu tiên mà tôi muốn kể là từ bao giờ dân tộc Miến Điện mang
cái hồn ấy. Từ xa xưa. Và bởi vì quá xa xưa nên sự thực lịch sử nhiều
khi trộn lẫn với truyền thuyết. Người dân Miến Điện kể rằng đức Phật đã
đến đất của họ lần đầu bằng tóc của Ngài. Chuyện này có thật trong
kinh. Sau khi đức Phật thành đạo và đang tĩnh tọa dưới cây bồ đề thì có
hai thương nhân từ phương xa đi qua đó. Họ cung kính dâng thức ăn cho
Ngài và xin quy y. Đó là hai đệ tử đầu tiên của Phật. Khi về lại xứ, họ
xin Ngài vài sợi tóc để thờ. Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp
ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
Lần thứ hai, đức Phật đến bằng chân. Một thương nhân khác, tên là
Punna, đã đến tận Savatthi, nơi đức Phật đang thuyết giảng, và được
Ngài thâu nhận vào tăng chúng. Sau một thời gian tu học, ông xin Phật
cho đi giáo hóa. Phật nói: dân xứ ấy dữ lắm, ông giáo hóa bằng cách
nào? Ông thưa: con sẽ không bao giờ giận dù cho họ giết con. Chuyện này
cũng có thật trong kinh. Nhưng chi tiết tiếp theo thì tôi chưa thấy ở
đâu. Punna giáo hóa thành công, xây được một tu viện, và mời Phật đến
thăm. Ngài đến với 500 vị tăng. Khi trở về, đức Phật dừng chân bên sông
Nammada, gần dãy núi Saccabandha. Một vết chân của Ngài in dấu không
phai gần bờ sông, một vết chân khác in dấu trên núi. Hai vết chân bây
giờ là hai thánh tích, ngày xưa được vua thờ, ngày nay là đất hành
hương của dân chúng.
Bài học mà đức Phật đã dạy: từ bi đi đôi
với vô úy. Đừng sợ! Và bởi vì không sợ cho nên không giận. (...) “Bởi
vậy tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng con đường phía trước là phải đi
qua giận dữ và cay đắng, mà phải đi qua hiểu biết lẫn nhau, cố gắng
hiểu phía kia, và đi qua khả năng thương thuyết với những người suy
nghĩ hoàn toàn khác với ta, đi qua khả năng đồng ý trên bất đồng ý
nếu cần thiết, để làm thế nào rút ra hòa hợp từ những cách suy nghĩ
khác nhau”. Một bài học dân chủ và một bài học Phật giáo. |
Đức Phật còn để lại cả hình ảnh của Ngài. Truyền thuyết ghi rằng bức
tượng thờ ở chùa Mahamuni cho đến năm 1784 là do vua và dân tạc sau khi
được đón rước Phật tại vương quốc Dhannavati. Tượng ấy sau đó được
thỉnh về chùa Arakan ở Mandalay.
Tất cả những sự kiện, vừa lịch sử vừa truyền thuyết đó, nói lên một
điều: người dân Miến Điện hãnh diện về nước của mình như là đất của
Phật, Phật đã đến đó và đã để lại xá lợi cho dân. Hơn ở đâu hết, đất đó
còn là đất Phật vì gần 90% dân số cùng thờ một đạo. Hơn ở đâu hết,
người dân dù nghèo đến bao nhiêu cũng thực hành công đức như một nếp
sống bình thường, cúng dường chư tăng, tô điểm chùa chiền. Người bên
ngoài, Tây phương và cả không Tây phương, đều không hiểu tại sao dân
chúng nghèo như thế mà vẫn chắt chiu dành dụm để kiếm chút vàng làm rực
rỡ thêm tượng Phật. Họ không hiểu, nhưng chính điều không hiểu đó đã
làm người Miến Điện thành người Miến Điện. Hành trì công đức là lẽ sống
của người dân Miến. Tạo công đức ở kiếp này làm họ vui. Càng nhiều
công đức càng vui. Kiếp này họ vui, kiếp sau họ hưởng. Sống là như vậy.
Không phải ăn, mặc, nhà cao cửa rộng là căn bản. Tu ấy là tu phước,
nhưng cũng là tu hạnh, hạnh ấy là bố thí, là biết cho, không
phải dễ đâu. Thú thực, bản thân tôi cũng không hiểu nổi người Miến cho
đến khi tôi đọc bà Aung San Suu Kyi. Bà nói: “Quan tâm đầu tiên của tôi
là theo sát những nguyên tắc của đức Phật trong mọi hành động của tôi
trên đời. Như vậy là bởi vì tôi tin rằng tất cả chúng ta, như là người,
đều có một bề sâu tâm linh không thể lơ đãng được”. Phong trào dân chủ
của bà, bà xem đó như là một “cách mạng tâm linh” mọc rễ từ
trong những nguyên tắc Phật giáo. Và khi người ta hỏi bà “đức tính gì
nằm tận trong thâm sâu của phong trào ấy”, bà nói không ngần ngại: “Sức
mạnh bên trong. Chính là sự vững chãi tâm linh đến từ tin tưởng rằng
cái gì ta làm là đúng, dù cho điều đó không mang đến lợi lộc cụ thể tức
thì. Chính là sự kiện này: điều ta đang làm giúp ta củng cố sức mạnh
tâm linh của ta. Sức mạnh này ghê gớm lắm”.
Bởi vậy, trong khi ở nơi khác, phát triển kinh tế là kinh nhật tụng, ở
Miến Điện, phát triển kinh tế chỉ là phương tiện, mục đích là đời sống
tâm linh của người dân. Tranh đấu cho độc lập trước đây cũng vậy. Tại
sao phải độc lập? Tại vì, như một câu hát của các người làm cách mạng
thời 1930, độc lập là để phục hồi lại phồn vinh của ngày xưa, “để người
nghèo cũng có thể xây dựng chùa chiền”. Đó là mục đích của đời sống,
đó là hạnh phúc của người dân.
Tôi nói thêm một điều nữa về đặc tính của Phật giáo Miến Điện trước
khi bắt qua chuyện thứ hai: trên đất Phật ấy cũng có một tín ngưỡng lâu
đời của dân gian, gọi là Nat, thờ thần, tin bùa chú, phù
phép, ưa nhảy múa. Tín ngưỡng ấy hồn nhiên chung sống hòa bình với Phật
giáo, nhưng Phật là Phật, thần là thần, đâu có hồn nhiên lẫn lộn được,
lát nữa tôi sẽ nhắc lại vấn đề này. Bây giờ, xin bắt qua chuyện thứ
hai
Chuyện thứ hai là chuyện liên hệ giữa quyền lực và giáo hội tăng già.
Một tác giả có uy tín đã viết thế này: “Miến Điện có lẽ là nước hạnh
phúc nhất thế giới trước khi người Anh đến… không có quý tộc, không có
tăng lữ, không có Nhà Thờ, không có quân đội, không có nghèo khổ, đẳng
cấp, địa chủ, ngân hàng”. Một xã hội bình đẳng, từ thiện. Đúng hay
không, tôi không dám nói, nhưng không có Nhà Thờ thì quá đúng. Không có
Nhà Thờ trong cái nghĩa của Tây phương, nghĩa là một uy quyền tôn giáo
duy nhất, tập trung, tập quyền, đối chọi với nhà nước, có khi ngang
ngửa, có khi trội hơn. Tôi tạm dùng chữ “giáo hội tăng già” để dịch chữ sangha, nhưng sangha
không phải là một tổ chức tập trung, tập quyền, tôn ty trật tự, đẳng
cấp phân minh, dưới phục tùng trên, trên chỉ huy dưới. “Giáo hội” ở
nước ấy chưa bao giờ ra khỏi mẫu mực tương quan nguyên thủy trong lịch
sử, nghĩa là tương quan giữa tín đồ và chư tăng, trong đó tín đồ là
người cúng dường và chư tăng là người thọ lãnh. Người cúng dường cung
cấp phẩm vật, người thọ lãnh cung cấp phước đức. Trong ý nghĩa đó, ông
vua chỉ là người đứng đầu của một tập thể cúng dường, có trách nhiệm
duy trì hòa bình, phồn vinh, để ai ai cũng có thể thực hiện công đức.
Trách nhiệm đó trao cho ông một quyền: gìn giữ cho đạo Phật được “tinh
khiết”. Với quyền đó, ông là trọng tài khi cần thiết để xử những tranh
chấp xảy ra liên quan đến giáo lý. Với quyền đó, ông là người bảo vệ đạo
Phật.
Nhưng như vậy là ông có quyền can thiệp vào nội bộ của giáo hội. Ông
can thiệp thông qua một “tăng thống” mà ông bổ nhiệm. Thế nhưng giáo
hội đã không phải là một khối đồng nhất thì tăng thống có thực quyền gì
trên các chi, các nhánh, sinh hoạt tự trị trong các làng xã, có trường
riêng, tự viện riêng, do làng xã địa phương lập nên? Rốt cuộc, dù ông
vua có nắm được “giáo hội” ấy, tập thể chư tăng vẫn sinh hoạt độc lập
với đời sống riêng, và tăng thống chỉ là chiếc cầu lỏng lẻo giữa vua
với một giáo hội chủ yếu là tự trị.
Để cụ thể hóa hình ảnh chiếc cầu lỏng lẻo ấy, ví dụ sau đây rất lý
thú. Suốt cả thế kỷ XVIII, ông vua và tăng thống không giải quyết nổi
một tranh chấp để “tinh khiết” giới luật. Đầu thế kỷ, vài vị tăng đi
khất thực, khoác y như khi đi trong chùa, nghĩa là một vai để trần.
Đừng tưởng đây là chuyện chơi trong một nước Phật giáo nguyên thủy, giữ
giới luật như giữ con ngươi. Để trần một vai như vậy có đúng luật
không? Hết vua này đến vua khác, vua này nói được vua kia nói không. Cả
trăm năm không xử nổi một chiếc vai!
Tình trạng tự trị trong giáo hội lại càng phát triển vào những giai
đoạn loạn lạc, ngay cả trước khi người Anh xâm chiếm. Phe phái xuất
hiện, thiết lập kỷ luật riêng, tòa án riêng, thậm chí “tăng thống”
riêng. Vua Mindon (1853 - 1878) cố tăng cường can thiệp trực tiếp vào
nội tình giáo hội, nhưng người Anh đã đến, Miến Điện bị chia hai, Hạ
Miến Điện lọt ra khỏi chủ quyền của vua. Chính sách tôn giáo của người
Anh, áp dụng trên cả nước, khi cai trị toàn thể Miến Điện, là không cần
biết đến giáo hội nữa, tôn giáo với chính quyền là hai, giống như luật
lệ ở mẫu quốc. Các tôn giáo ở phương Tây tràn đến, Phật giáo không còn
có ông vua nào nữa để đóng vai bảo vệ. Nhưng như thế mà hay, vì các
ông sư bây giờ, sống ngoài vòng cương tỏa, đóng vai bảo vệ độc lập của
nước. Họ là những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc tranh đấu, những
người đầu tiên liên kết với cư sĩ, với trí thức, để tạo thành mạng lưới
chính trị chống đế quốc đầu tiên trong những năm 1920, 1930. Và như vậy
tôi bước qua chuyện thứ ba.
Chuyện thứ ba là chuyện ông U Nu, thủ tướng đầu tiên của nước Miến
Điện độc lập. Một nhân vật xuất chúng. Một lãnh tụ lỗi lạc. Một nhà
chính trị được thế giới kính nể. Một con người dân chủ. Một Phật tử
sùng đạo. Tham gia tranh đấu trong mạng lưới đầu tiên của trí thức trẻ
Phật giáo (YMBA), ông là lãnh tụ của đảng chính trị đầu tiên tranh đấu
chống phát xít (AFPFL) sau khi Aung San bị ám sát. Độc lập vãn hồi, ông
chủ tâm phục hưng lại Phật giáo. Một mặt, ông lồng Phật giáo vào hệ ý
thức mới mang màu sắc xã hội của thời đại và gọi đó là “xã hội chủ
nghĩa Phật giáo”. Trung thành với văn hóa truyền thống, chủ nghĩa xã hội
của U Nu nhằm thực hiện lý tưởng cổ truyền: hạn chế tham lam của người
giàu, tạo thì giờ rảnh rỗi cho người nghèo, để ai cũng có thể tích cực
thực hành công đức. Mặt khác, ông không ngại can thiệp vào nội bộ Phật
giáo, thành lập các tòa án của giáo hội để chấn chỉnh kỷ luật, tổ chức
lại hệ thống giáo dục mà chùa chiền đảm nhận từ xưa, thành lập viện
hóa đạo, chỉnh đốn đại học Phật giáo, kiết tập đại hội Phật giáo thế
giới để nâng cao vai trò của Phật giáo Miến Điện trên thế giới Phật
giáo, xây dựng chùa chiền… Ý thức rằng Phật giáo là yếu tố tinh thần duy
nhất để kết hợp và hòa nhập các chủng tộc ít người trong một nước đa
chủng bấp bênh hiểm họa ly khai, ông cố thiết lập một giáo hội lan tỏa
ra tận các chủng tộc sát biên giới. Tóm lại, U Nu hành động như một vị
quân vương ngày xưa trong mối liên hệ giữa Phật giáo và lãnh đạo chính
trị: người lãnh đạo bảo vệ Phật giáo, giáo hội ban cấp tính chính đáng
cho chính quyền.
Bà Clinton và lãnh đạo đối lập ở Myanmar, Aung San Suu Kyi,
cùng dùng bữa tối tại nhà riêng của đại diện ngoại giao Mỹ tại Myanmar.
Bà Suu Kyi là người được Mỹ và phương Tây kỳ vọng mang lại cải cách cho Myanmar. Ảnh: AFP
Nhưng giáo hội bây giờ đã quen chia thành khuynh hướng, phe nhóm
rồi, ai cũng trọng ông U Nu như một thánh vương, nhưng người này trách
ông bảo vệ Phật giáo như vậy là chưa đủ, người kia lại cho rằng ông đi
như vậy là quá xa. Tình trạng trở nên trầm trọng khi ông đặt vấn đề
Phật giáo là quốc giáo vào trung tâm của tranh cử năm 1960. Đảng của
ông đã tách ra làm hai trên những tranh chấp khác lại càng chia rẽ hơn
trên vấn đề quốc giáo này. Kết quả là đảng của phe U Nu đại thắng trong
tuyển cử vì dân chúng ủng hộ chủ trương của ông. Nhưng đại thắng này
không đủ giúp ông ở lại chính quyền lâu dài. Cùng với những khó khăn về
kinh tế, chống đối của các chủng tộc, hiểm họa ly khai, bất an ninh ở
biên giới, những biện pháp ủng hộ Phật giáo của ông như cấm giết bò, áp
dụng lịch Phật giáo, chuyển đổi án tử hình, hòa giải với phe cộng
sản... tạo cơ hội cho quân đội làm đảo chánh, dựng lên một chế độ độc
tài tàn bạo dài dằng dẵng từ 1962 cho đến gần đây.
Tôi bắt đầu bài viết này với tóc của Phật. Là bởi vì chế độ độc tài
ấy không có cách nào để lấy lòng quần chúng hiệu nghiệm hơn là khai
thác lòng sùng kính của dân đối với xá lợi Phật. Do đó, chính sách rước
răng Phật từ Trung Quốc đưa về được tổ chức cực kỳ hoành tráng trong
cả nước suốt 45 ngày. Cũng vậy, tín ngưỡng Nat với bùa chú phù
phép được khích lệ tối đa, đẩy lùi Phật giáo vào thời tiền hiện đại.
Rồi cũng vậy, tướng tá xây chùa tráng lệ không thua gì những ngôi chùa
tráng lệ nhất, ông này xây một chùa thì ông kia xây hai. Ta đây sùng
đạo có thua ai! Chắc chắn là không thua ai về khoản tiếp thị: hình ảnh
các ông tướng mộ đạo xuất hiện bên cạnh các sư sãi, chùa chiền, rước
Phật, hành hương tràn đầy trên màn ảnh, báo chí. Riêng cái khoản giáo
hội tăng già, các ông tưởng nắm chắc trong tay, hóa ra chỉ nắm cái
bóng, cái hình đã phân tán thành nhánh, thành cành, âm thầm tỏa bóng
xuống khắp xã hội, vừa an ủi vừa duy trì sức mạnh.
Tương lai là chuyện thứ tư xin kể. Chắc chắn Phật giáo Myanmar sẽ
không có một ông U Nu thứ hai. Nhưng Phật giáo ấy cần gì quốc vương khi
đã là cái hồn của dân tộc? Vấn đề là: hình hài của dân tộc Miến đã lớn
mạnh rồi, đã hấp thụ những món ăn tư tưởng mới, thở không khí của thời
đại mới, tắm trong dòng sông có nhiều con nước mới đổ vào, vậy thì cái
hồn ấy có hằng thường được chăng? Tôi đang thấy hồn ấy nhập vào hình
hài dân chủ nơi một người phụ nữ mảnh khảnh mà sáng ngời trí tuệ và
lòng tin Phật. Tôi muốn được cùng với bạn bè Myanmar đọc vài câu đã thốt
ra từ miệng người phụ nữ tự nhận mình là một Phật tử bình thường ấy.
Lạ thật, từ một người tranh đấu chống bạo lực, tôi nghe nhấn mạnh bao
nhiêu lần lòng từ bi: “Phật giáo đại thừa đặt nặng từ bi hơn Phật giáo
nguyên thủy. Tôi cảm nhận sâu xa điều đó, bởi vì chúng ta cần rất
nhiều từ bi trên thế giới này. Tất nhiên, từ bi cũng là một phần của
Phật giáo nguyên thủy. Nhưng tôi muốn nhiều người hơn nữa trong dân tộc
chúng tôi mang từ bi vào hành động”.
Từ bi trong chính trị? Chính vậy! “Khi đức Phật muốn ngăn cản hai
phe sắp chiến tranh, Ngài đến và đứng giữa hai bên. Hai bên có thể làm
hại Ngài trước khi giết nhau. Nhưng như thế, Ngài bảo vệ cả hai. Ngài
bảo vệ người khác bằng cách hy sinh thân mạng của Ngài”.
Nhưng sợ đã thành thói quen rồi trong xã hội. Làm sao bảo người ta từ
bi? “Mọi chuyện đã xảy ra chỉ vì không đủ tích cực từ bi. Có một liên
hệ trực tiếp giữa tình thương và sợ hãi. Kinh từ bi dạy: “Như mẹ hiền
yêu thương con một”. Đó là từ bi đích thực. Bà mẹ có thể hy sinh thân
mạng vì thương con mình. Tôi nghĩ chúng ta cần thứ tình thương đó nhiều
hơn nữa chung quanh chúng ta”.
Nếu những lời trên đây xuất phát từ một ông thầy tu, tôi không ngạc
nhiên. Xuất phát từ một người đã từng đứng trước mũi gươm làn đạn, đó
là bài học cho cả thế giới về sức mạnh của tâm linh. Bài học mà đức
Phật đã dạy: từ bi đi đôi với vô úy. Đừng sợ! Và bởi vì không sợ cho
nên không giận. Đức Phật dạy bà đừng giận. Bà không hề giận trong khi
chống lại đối thủ của bà. Mới đây thôi, trong cuộc viếng thăm của ngoại
trưởng Hillary Clinton, bà nhắc nhở lần nữa: “Khi tôi bắt đầu đi vào
chính trị, tranh đấu cho dân chủ, tôi luôn luôn khởi đi với ý nghĩ rằng
dân chủ là một quá trình sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn, hòa hợp lớn
hơn, và hòa bình lớn hơn cho dân tộc tôi. Và điều đó không thể thực
hiện được nếu chúng tôi bị trói chặt trong giận dữ và ý muốn trả thù.
Bởi vậy tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng con đường phía trước là phải đi
qua giận dữ và cay đắng, mà phải đi qua hiểu biết lẫn nhau, cố gắng
hiểu phía kia, và đi qua khả năng thương thuyết với những người suy
nghĩ hoàn toàn khác với ta, đi qua khả năng đồng ý trên bất đồng ý nếu
cần thiết, để làm thế nào rút ra hòa hợp từ những cách suy nghĩ khác
nhau”. Một bài học dân chủ và một bài học Phật giáo.
Cuối cùng bà đã chiến thắng. Nhưng ngay cả trong đêm tối mịt mù của
đàn áp, bà vẫn quả quyết: “Trong đạo Phật, có bốn yếu tố để thành công,
để chiến thắng. Ý muốn tốt, hành động đúng, dõng mãnh tinh tấn, trí
tuệ bát nhã. Các nguyên tắc đạo đức đó là căn bản, tránh cho ta khỏi
lạc đường. Với những nguyên tắc đó, ta sẽ đi đến được bất cứ nơi nào ta
muốn. Chúng tôi không cần gì thêm”.
Trong đau khổ chung của dân tộc Myanmar, Phật giáo Miến Điện ngàn
xưa đã hiện đại hóa với người phụ nữ ấy. Đạo Phật đó, ngôn ngữ hiện đại
ngày nay gọi là “đạo Phật dấn thân”.
Theo
Cao Huy Thuần - NĐBND