Người đem hết năng lực tinh
thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết
gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự
truyện, hồi ký. Người đem tiểu sử đời mình ra đánh bóng, trang hoàng,
rao bán thì thành nhà… chính
trị kinh doanh! Nhưng dẫu ở mức độ nào thì cũng khó lòng đem ra so
sánh, cân đo khi không có cùng mẫu số. Cũng đều xuất phát từ con người
làm điểm tựa, nhưng sẽ thiếu công bằng nếu đem những tứ đại kỳ thư,
những áng kim cổ hùng văn hay thiên hạ danh văn để so với những bài thơ
Thằng Bờm có cái quạt mo, những bài ca dao truyền miệng... vì mẫu số
chung của cảm tính văn nghệ chẳng tương đồng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa
tinh túy nhất mà cũng rất thường tình của nhân sinh, “cái thích” hay sự
cảm thụ và sáng tạo văn chương nghệ thuật thì không ai giống ai vì cái
ngã sở chắn đường bít ngõ theo lối mòn một chiều“có thì có tự mảy may, khi không cả thế gian này cũng không!”. Từ đó dẫn tới cái thương, cái ghét
càng lúc càng xa với những gì hiện thực “thương ai thương cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng!”
Tác
phẩm nghệ thuật thường được ví von như những cơn mưa. Có những trận mưa
– mưa rào, mưa tình, mưa pháp – mà con người và muôn vật được hưởng lợi
lạc hay phải chịu đựng cơn mưa phù hợp với căn tính của từng đối tượng:
Con dế mèn ca hát rát cổ hưởng được một giọt mưa ngọt lịm; con chim non
bị ướt tổ lạnh run; con kiến cỏ bị chết trôi chới với; người nông dân
có được nước đầy đồng… Chẳng ai giống ai. Bởi vậy, mọi giá trị của vạn
vật đều tương đối. Nhưng trong tương đối đã có sẵn một điều tuyệt đối,
đó là sự khác biệt và
đồng nhất đều cùng một thể: “Không lại hoàn không!”
Và, đó cũng là kết luận của “Trí Quang Tự Truyện”. Đây là một tác phẩm hồi ký của hòa thượng Thích Trí Quang, một danh tăng Phật giáo thế hệ Chiến tranh Việt Nam đang bước vào độ tuổi 90.
Có
thể nói mà không phải dè dặt rằng, trong số các hồi ký của những nhân
vật lịch sử, trong cũng như ngoài nước, có liên quan đến dòng lịch sử
Chiến tranh Việt Nam thì hồi ký của thầy Trí Quang là một trong những
tác phẩm được chờ đợi nhiều nhất.
Văn
chương tự cổ không bằng cớ, nên khen hay chê tự nó không quan trọng mà
quan trọng là mức độ khách quan, công bằng và tính trong sáng của sự
khen chê. Và, quần chúng nói về một đối tượng sao bằng chính đối tượng
được nhắc nhở đó tự nói về mình. Trí Quang Tự Truyện là những điều thầy Thích Trí Quang tự nói về mình.
Từ
đầu năm 2011, tuy đã được đọc các bài giới thiệu và trích đoạn của tập
sách nầy trên mạng lưới truyền thông nhưng mãi đến khi về thăm quê vào
tháng 3-2012 tôi mới đọc được bản chính toàn tập. Sách dày 216 trang,
nhà xuất bản Tổng Hợp tại Sài Gòn. In 3000 cuốn, xong ngày 22-7-2011.
Tác giả viết xong ngày 24-4-2011. Sách không chia thành chương, mục mà
được phân thành 47 đoạn viết theo lối hồi ức, tự truyện. Không có một
hình ảnh nào minh họa từ bìa đến nội dung.
Trí Quang Tự Truyện
đã gây ra những luồng phản ứng tuy không sôi nổi theo kiểu… “siêu sao”;
nhưng tương đối rộng rãi đối với quần chúng trong cũng như ngoài nước;
đặc biệt là đối với giới trí thức và Phật tử lớn tuổi đã từng sống trong
chiến tranh và trải nghiệm thực tế qua những biến cố lịch sử đầy thăng
trầm của đất nước. Đa số bày tỏ sự thất vọng vì hồi ký không “ngang tầm” với tác giả.
Người ta chờ đợi một thiên hồi ký có “tầm vóc thời đại”. Nghĩa là những
pho sách dày với những công bố phơi bày nhiều bí ẩn lịch sử, những
“giải mã” sự kiện còn nằm trong góc khuất, những lý giải hùng hồn về
các hiện tượng đầy thâm cung bí sử, những biện minh đầy thuyết phục nỗi
oan khuất của đạo pháp và dân tộc, những chứng lý rạch ròi thân phận
nhược tiểu trên bàn cờ quốc tế… Nghĩa là với tầm vóc của một nhân vật tu
sĩ Phật giáo đã từng là khuôn mặt trung tâm cho cuộc tranh đấu đòi tự
do, bình đẳng tôn giáo của Phật giáo năm 1963 và những cuộc biểu tình
đòi cải cách chính trị thời 1966 đã làm chấn động Việt Nam và dư luận
thế giới như thầy Thích Trí Quang thì sẽ có cả một kho tàng dữ liệu và
vô số lý giải cho cả một thời kỳ đầy biến động chiến tranh, chính trị và
xã hội để viết ra trong hồi ký. Thêm vào đó, thầy Trí Quang còn là tác
giả, dịch
giả, luận giả uyên bác và đáng tin cậy của nhiều tác phẩm Phật học nội
điển và luận thư trong khoảng 70 năm qua. Bề dày của những công trình
biên dịch và tham luận có giá trị là những điều kiện “ắt có và đủ” cho
một tác phẩm hồi ký lớn của Thầy ra đời. Hoặc ít lắm thì cũng là những
hồi ức đầy “thương hiệu thành danh” của ta và của người vào hàng Retrospect của Robert McNamara hay Political Memoirs của Malcom Fraser… và của nhiều nhân vật danh tiếng Việt Nam đã xuất bản chẳng hạn.
Nhưng Trí Quang Tự Truyện đã thanh thản ra đời như một cô gái Việt chân quê trên diễn trường hoa hậu quốc tế làm cho người ta ngạc nhiên.
Những
ngày mưa tháng Hai của Huế, lên chùa Châu Lâm không cách xa chùa Từ Đàm
là mấy, được ăn cơm chay với thầy Thiện Phước trong vườn lan đủ màu tự
trồng, tự tưới của Thầy, trưa vào nghỉ ở nhà tịnh của chùa và đọc Trí Quang Tự Truyện nguyên bản in của anh Trần Tuấn Mẫn báo Văn Hóa Phật Giáo gởi cho, tôi cảm thấy an tịnh và gần gũi với tập sách hơn.
Trong
khu vườn thiền lâm, thầy Trí Quang là một hành giả với bút lực dồi dào
từ khi còn trẻ tới hồi đại lão như hôm nay. Nói về công phu biên dịch
kinh sách, chỉ riêng năm 2011 thôi, thầy Trí Quang đã hoàn thành nhiều
công trình trước tác thâm uyên với 3 bộ sách đã in ấn và phát hành là: Tổng Tập Giới Pháp Xuất Gia gồm 2 tập, mỗi tập hơn nghìn trang và Nhiếp Luận, 334 trang. Bởi vậy, khi cầm Trí Quang Tự Truyện trên tay, có lẽ tôi không nên trịnh trọng gọi đây là một tác phẩm hồi ký đầy chữ nghĩa to tát mà nên gọi đây là những dòng tâm
bút của một sơn tăng giữa thị thành đang sống với tánh thường rỗng lặng “không vẫn hoàn không”.
So
với những tác phẩm mang tính nội điển mà thầy Trí Quang đã cẩn trọng
biên dịch – nghiêm cẩn trong từng cụm từ và chỉnh chu trong từng luận
giải – thì Trí Quang Tự Truyện nhẹ như tơ hào. Tác giả viết ra
những sự kiện, kể lại chuyện đời mình bằng một lối văn chân phương – lại
có khi rề rà không trau chuốt – dễ dãi như người bình dân ngồi kể
chuyện Tấm Cám.
Trong
suốt 50 năm qua, nhân vật Thích Trí Quang thường được (hay bị) môi
trường truyền thông đại chúng trong cũng như ngoài nước nhắc nhở khá sôi
nổi và không ít thường xuyên trong hàng tu sĩ Phật giáo Việt Nam đương thời. Sự
nhắc nhở xuất hiện dưới nhiều dạng thức và từ nhiều góc độ: Giữa đường,
lề phải, lề trái, trên mây, dưới hố… Nhưng không phải vì lời khen hay
chê mà một dòng sông trở thành trong hay đục. Chẳng phải vì được ca tụng
hay bị đả kích
qua ngõ thị phi mà một nhân vật trở thành thánh hay phàm. Đâu phải vì
yêu hay ghét mà một tác phẩm trở thành hay hoặc dở. Thầy Trí Quang –
cũng như mọi nhân vật cộng đồng tên tuổi đã thành danh – có một vị trí
và thế đứng riêng trong lòng người và trong lịch sử. Nhưng trong tự
truyện, sau khi kể chuyện đời mình từ nhỏ đến lớn; từ thân chú tiểu mới
xuất gia cho đến vai trò lãnh đạo Phật giáo thành tựu, tác giả tự kết
luận về đời mình: “…cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có
gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có,
nên phải viết và phải in, mà thôi. ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho,
tôi mới được như
vậy.”
Chính vì “chân không” mà cuộc đời thành “diệu hữu”. Nhà tu thật ngôn là người hành động trong vô vi; nghĩa là thỏng tay vào chợ mà không dính mắc, đối mặt với sấm sét giữa đời mà coi như hoa đóm giữa hư không.
Khuynh hướng nhất quán về “không” có mặt trên từng trang sách của Trí Quang Tự Truyện.
Nội dung tự truyện kể lại nhiều biến cố và hành động trong chặng đời 90
năm của một hành giả đứng giữa gọng kềm lịch sử như thầy Trí Quang mà
vẫn mang một phong vị tĩnh lặng an nhiên. Sự an nhiên có được khi yếu tố
tác nghiệp không hoành hành. Đó là khi nhu cầu biện minh, giải thích,
thuyết phục, khen chê, vinh danh, bài xích… không thể hiện qua ngòi bút
và chữ nghĩa, ngôn từ của người viết. Nhờ vậy, người đọc tự truyện cảm
thấy thanh
thản theo dõi những gì xảy ra và được tác giả ghi lại mà tâm không bị
động bởi những cảm xúc dấy bụi nhất thời.
Đạo
Phật là con đường đưa đến giải thoát. Đó là một trạng thái tự do đứng
ngay chính giữa hai bờ đối đãi của yêu-ghét, vui-buồn, khen-chê,
sống-chết… Tuyệt nhiên không còn bị dính mắc vào hệ lụy của phóng tâm
biên kiến đời thường đầy phiền não. Tâm Phật là tâm không không rỗng lặng.
Chỉ trong không không rỗng lặng nầy – tinh thần “không trung vô hữu
tuyệt đối” của Bát Nhã – thì Phật và chúng sanh mới thành nhất thể. Vì
như thiền sư Thường Định Kaido Ashahi Nhật
Bản nói trong Thiền Tập Quán Niệm Trên Núi Tuyết rằng: “Một
đời đi qua, nếu còn một hạt bụi ngã nhân nào vướng lại ở trần gian nầy
thì kẻ tác tạo hạt bụi đó vẫn còn bị cột buộc. Người đó còn phải quay
lại trả nghiệp cho đến khi hạt bụi kia chẳng còn vướng vất giữa trần
thế, trong tâm thức và giữa hư không…thì mới mong thấy được khung cửa
nghìn xưa quay về nẻo Đạo.” Phải chăng vì muốn phủi sạch đôi “hạt
bụi ngã nhân” còn vương trên khung cửa nghìn xưa quay về nẻo đạo mà Hòa
thượng Trí Quang phải miễn cưỡng bận lòng trong Tiểu Truyện Tự Ghi,
rằng: “Truyện của tôi không đáng gì mà
phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530
(1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim
sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn
không mà thôi.”
Xác
định về một thái độ hành xử như thế, thầy Trí Quang làm cho những người
học Phật đời sau nhớ tới tinh thần tùy duyên hành đạo và sống đạo của
Phật giáo đời Trần. Vua Trần Nhân Tông khi đã gác kiếm
chống quân Nguyên, thay chiến bào bằng áo cà sa, nghe thị giả hỏi rằng,
đâu là chỗ khác nhau giữa việc đời bôn ba và việc đạo an nhiên tự tại,
đã đọc bài kệ:
Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Khi đói thì ăn, mệt ngủ yên
Của quý đầy nhà đâu phải kiếm
Thấy cảnh lòng không khỏi hỏi thiền
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)
Như
thế phải chăng “vô tâm tức là đạo?" Khi có người hỏi về khái niệm nầy,
Tuệ Trung Thượng Sỹ, thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đọc bài kệ :
Vô tâm là vô đạo
Có đạo chẳng vô tâm
Tâm đạo đều trống rỗng
Biết nơi đâu mà tầm?
(Bổn vô tâm vô đạo
Hữu đạo bất vô tâm
Tâm đạo nguyên hư tịch
Hà xứ cánh truy tầm?)
Điều
Tuệ Trung muốn nói là cần đập vỡ những khái niệm tương tác không có
thật giữa củ khoai và con kiến. Làm gì có con kiến mà kiện củ khoai. Làm
gì có tâm và đạo hiện hữu như hai đối thể phân biệt khi tâm và đạo là
nhất thể. Tâm và đạo không phải là hai hình tướng để mô tả và phân biệt
mà cần thực chứng trong rỗng lặng, an nhiên qua một trong nhiều phương
tiện quán chiếu thiện xảo nhất của Phật giáo là thiền định. Đạo Phật là
con đường thực chứng cuộc đời chứ không phải phủ nhận hay xa lánh cuộc
đời như ngộ nhận. Đạo giữa đời và đời giữa đạo. Bình thường giai thị
đạo.
Nhà
tu là một người phàm trang bị tính thánh chứ không phải là thánh. Bởi
thế, tu hành cũng là một quá trình vật lộn với chính mình vì nghiệp và
luân hồi là một chân lý vận hành khách quan. Bất luận Phật tử xuất gia
hay tại gia, đã tu mấy đời hay nhiều đại kiếp, khi chưa đắc đạo thành
Như lai, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác… thì vẫn còn trực tiếp chịu sự
chi phối của Nghiệp. Mục Kiền Liên là đại đệ tử đệ nhất thần thông của
đức Phật đã tu qua nhiều đại kiếp, đã từng xuống tận địa ngục A Tỳ cứu
Mẹ mà trong kiếp cuối cùng, trước khi đắc đạo, vẫn phải trả Nghiệp tiền
kiếp. Ngài đã bao lâu ẩn tàng, mặc cho bọn cướp vây quanh tha
hồ biếm nhẻ. Nhưng chỉ một phút tác động của Nghiệp đã để lộ nguyên
hình cho bọn cướp ùa tới phanh thây. Tên cướp và thiền sư khác nhau ở
chỗ là ai đang tạo nghiệp và ai đang giải nghiệp mà thôi.
Bởi
thế, “tùy duyên…” là phong thái hành hoạt của người theo đạo Phật. Tất
cả đều có sẵn tự thân tâm. Làm vua gặp quân xâm lăng: Đánh! Làm thầy gặp
chuyện bất bằng: Chống! Gặp đời phiền não: Tu! Hết một đời: Thản nhiên
ra đi như thay áo. Gặp chuyện thị phi đời thường: Im lặng như chánh
pháp. Khi cần lập ngôn: Nói năng như chánh pháp. Có gì quan trọng – khi
một tơ hào cũng không còn hiện hữu trong tánh không rỗng lặng – đâu mà
phải cần hư vọng, hư danh như bia đá đề tên, lưu danh sử sánh, bỉ thử
khen chê.
Trong khung cảnh Phật giáo, Trí Quang Tự Truyện
viết ra để ghi lại những chuyện đời thường của chính tác giả. Nhưng tất
cả đều không vượt ra ngoài tự tánh của chư pháp “không lại hoàn không”
và tác giả đã hành xử; đã sống và viết trong cái không mênh mông rỗng
lặng đó. Tiếng chuông công phu khuya từ chùa Hàn Sơn ngày xưa dóng lên
từ một sơn tăng đã trở về với tự tánh rỗng lặng. Nhưng Trương Kế và muôn
vạn đời sau đã “bắt gặp” và cảm nhận như thế nào là cả một hợp duyên
“thân báo” muôn màu muôn vẻ khó thể nghĩ bàn. Khi tiếng chuông tự nó là
tiếng chuông thì sẽ không khứ, không lai, không
thừa, không thiếu. Tiếng chuông cũng chỉ là một pháp... không lại hoàn không.
.Huế - Cali., mùa Phật Đản 2556 (2012)
.Trần Kiêm Đoàn