Thế là nửa thế kỷ đã trôi qua, kể
từ ngày bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Ý nghĩa của hành
động ấy đã được thế giới bàn cải rất nhiều và vị trí lịch sử của
bồ tát Quảng Đức trong lòng dân tộc đã được khẳng định từ lâu.
Tuy nhiên ngoài bản tiểu sử ngắn ngủi do Uỷ Ban Liên Phái bảo vệ
Phật giáo đưa ra sau sự kiện tự thiêu ngày 11 tháng 6 năm 1963,
tức ngày 20 tháng tư nhuận năm Quí Mão, mà sau này đã trở thành
tư liệu chính thức phổ biến rộng rãi trong các sách báo cho tới
tận hôm nay, cuộc đời của bồ tát Quảng Đức trước thời điểm tự
thiêu đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.
Thông
thường, chúng ta chỉ biết bồ tát Quảng Đức khi lên 7 tuổi thì
được cha mẹ cho cậu ruột mình là thiền sư Hoằng Thâm nuôi dạy,
rồi xuất gia và đặt tên đạo là Thị Thuỷ, tự là Hạnh Pháp và hiệu
là Quảng Đức. Sau khi thọ giới cụ túc, bồ tát nhập thất tu hạnh
đầu đà ba năm, xong thì đi hành hoá ở vùng Vạn Ninh và giữ nhiệm
vụ kiểm tăng của Chi hội Phật học Ninh Hoà. Đến năm 1943 vào Nam
hành hoá, để tới năm 1963 thì phát nguyện tự thiêu. Về giai đoạn
bồ tát Quảng Đức ở Vạn Ninh, ta chỉ biết nét đại cương như vừa
thấy.
Gần đây,
trong dịp đi điền dã tại Khánh Hoà, nhờ sự giúp đỡ tận tình của
đại đức Thích Như Hoằng, một số tư liệu liên hệ đến hoạt động
Phật sự của bồ tát Quảng Đức tại vùng Vạn Ninh trước năm 1945 đã
được phát hiện, cung cấp cho ta một cái nhìn mới về cuộc đời của
bồ tát trong giai đoạn ấy, giai đoạn hình thành nhân cách xả kỷ
cứu nhân của bồ tát. Do thế, chúng tôi cho rằng những phát hiện
mới này sẽ đem lại một hiểu biết rõ ràng hơn về con người bồ tát
Quảng Đức.
Số tài liệu
nầy bao gồm ba loại. Loại thứ nhất là bảy văn kiện liên hệ trực
tiếp đến bồ tát Quảng Đức. Loại thứ hai là một văn kiện của bổn
sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm
viết để cúng ruộng cho chùa Long Sơn và tổ đình Linh Sơn và một
bài minh khắc trên chuông chùa Long Sơn vào năm Duy Tân thứ hai
(1907) do thiền sư Hoằng Thâm đúc sau khi làm chùa xong. Loại
thứ ba là những văn kiện liên hệ với tổ đình Linh Sơn và thiền
sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang (1862-1939), bổn sư của
thiền sư Như Đạt Hoằng Thâm. Đây là số tư liệu lần đầu tiên phát
hiện và công bố, giúp ta có một hiểu biết rõ ràng hơn về hoạt
động Phật sự của bồ tát Quảng Đức từ những năm 1917-1945 cùng
của các thầy tổ đã tác thành nên con người Quảng Đức trong nửa
đầu của thế kỷ XX.
Tập sách này
chia làm bốn chương. Chương thứ nhất là dịch và công bố toàn bộ
mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức. Chương thứ hai
là dịch và công bố văn kiện cúng ruộng của Thiền sư Như Đạt Giải
Nghĩa Hoằng Thâm. Chương thứ ba là dịch và công bố các văn kiện
liên hệ đến Tổ sư Chơn Hương Thiên Quang và tổ đình Linh Sơn.
Tất cả các bản dịch văn kiện này đều theo niên đại ra đời của
chúng, và được đánh số liên tục từ 1 đến 27. Chương thứ bốn là
ghi nhận một số nhận xét của chúng tôi về các văn kiện ấy, đặc
biệt trong liên hệ với cuộc đời hoạt động Phật sự của Bồ-tát
Quảng Đức. Cuối sách chúng tôi cho thiết lập lại niên biểu chi
tiết cuộc đời bồ tát Quảng Đức cùng các sự kiện liên hệ.
Số tư liệu
mới phát hiện này không chỉ cho ta biết về con người bồ tát
Quảng Đức, mà còn về các vị thầy tổ đã có công giáo dưỡng và
hình thành nên nhân cách xả kỷ vừa nói. Nhân cách ấy không phải
ngày một ngày hai mà có được. Nó phải trải qua một quá trình tu
dưỡng lâu dài trong một truyền thống Phật giáo tích cực nhập thế
mình vì mọi người. Số tư liệu vừa nêu cho ta biết thêm về các
hoạt động Phật sự của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như
Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm và của tổ sư Chơn Hương Thiên Quang.
Không những
thế, số tư liệu này còn giúp ta có một nhận thức rõ ràng hơn về
một giai đoạn Phật giáo tại một địa phương không nỗi bật lắm về
truyền thống Phật giáo như vùng Vạn Ninh, khi Phật giáo Việt Nam
cũng như dân tộc đang thực hiện một công cuộc chuyển mình lớn,
để đưa dân tộc cũng như Phật giáo từ dạng truyền thống sang dạng
hiện đại vào cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Đây là một
giai đoạn lịch sử chưa được nghiên cứu đầy đủ do chưa tập hợp
được nhiều tư liệu.
Bởi vai trò
quan trọng của số tư liệu vừa nêu, chúng tôi đề nghị cho phiên
dịch và in lại bộ nguyên bản toàn bộ văn kiện trên, nhằm làm cơ
sở cho việc nghiên cứu không chỉ cuộc đời bồ tát Quảng Đức, mà
còn cả một giai đoạn Phật giáo đầy biến động của lịch sử dân tộc
được đầy đủ hơn trong tương lai.
Vạn Hạnh đầu hạ năm Ất Dậu (2005 )
Lê Mạnh
Thát
Mười bốn văn
kiện về bồ tát Quảng Đức Như ta đã biết, bồ tát Quảng Đức sinh
tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà
vào năm Đinh Dậu (1897), sau đó được cậu ruột mình là thiền sư
Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) đem về nuôi cho xuất
gia đã đặt pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là Hạnh Pháp và pháp
hiệu là Quảng Đức. Trong đợt điều tra điền dã mùa hè năm 2005,
được sự giúp đỡ và cung cấp của đại đức Thích Như Hoằng trú trì
chùa Thiên Tứ ở Núi Đất thuộc làng Mỹ Trạch, xã Ninh Hà, huyện
Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà, chúng tôi đã thu thập được một số tư
liệu liên hệ đến hoạt động Phật giáo của bồ tát Quảng Đức trong
nửa đầu thế kỷ XX tại vùng Vạn Ninh cùng tổ đình Long Sơn, nơi
bồ tát Quảng Đức xuất gia và sau đó làm tri sự và tổ đình Linh
Sơn, nơi Bồ Tát kế thế làm trú trì vào những năm 1939-1945. Nhân
đây, cho phép tôi cám ơn đại đức Như Hoằng đã hết lòng giúp đỡ
và cung cấp các tài liệu liên quan đến bồ tát Quảng Đức và tổ
đình Linh Sơn tại Vạn Ninh.
Về mười bốn
văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức, chúng tôi lần lượt dịch
nghĩa toàn bộ chúng tuần tự từ thời điểm sớm nhất cho đến muộn
nhất và đánh số theo thứ tự thời điểm ra đời của chúng từ 1 đến
14.
1. Văn kiện ngày 25 tháng 4 năm
Bảo Đại thứ 8 (1933)
Khổ 15.5 x
28 gồm 2 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Toàn bộ viết
bằng chữ Nho. Chỉ có lời phê của một thủ trưởng (chef de poste)
viết bằng bút sắt mực tím. Giữa 2 tờ có đóng dấu giáp lai của xã
Phước Thuận và dấu triện của phủ Ninh Hoà.
Bần tăng
chùa Thiên Ân xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà hiệu
Quảng Đức cúi đầu trình xin thương xét phê làm bằng cho phép bần
tăng lạc thành chùa Phật sự việc như sau:
Năm trước bần tăng có lòng thành,
thầm nguyện tu tạo cửa ngõ, đúc vẽ tượng Phật, mọi việc đã hoàn
tất. Nay hào lý bổn xã và bần tăng đều chọn giờ Thân ngày 26
tháng này thiết trai, lập đàn, đánh trống, thỉnh chuông, mỗi lễ
cẩn thận đầy đủ trai giới sám hối, để đền trả công ơn của Phật
tổ. Đến giờ Ngọ ngày 28 thì lễ hoàn mãn.
Bần tăng đến
báo rõ cho hào lý sở tại ký nhận, rồi báo rõ cho chánh phó ở
trong tổng ký nhận sự thật, nhưng còn trộm sợ không có bằng
chứng, chẳng dám tự tiện. Vì thế, cúi xin quan phủ đường đại
nhân các hạ xét thương, phê chữ cho phép bần tăng trả ơn Phật
tổ. Muôn ngàn trông cậy. Nay cúi đầu trình
Ngày 25
tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (có đóng dấu Ninh Hoà phủ ấn và
6 con tem Indochine francais dán hai bên dấu)
Chánh tổng Nguyễn Liên ký (có đóng
dấu của tổng Phước Khiêm)
Phó tổng
Nguyễn Mộc Phỏng ký
Tùng bát phẩm đội trưởng Võ Văn
Đạt thủ ký
Đại hào Lê
Đàm thủ ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng
dấu của xã Phước Thuận)
Tộc biểu
Nguyễn Nhượng thủ ký
Lão nhiêu Lê Mưu thủ ký
Tộc biểu Lê
Giảng thủ ký
Tộc biểu Đỗ Uý (có lăn dấu tay)
Tộc biểu
Hoàng Huề thủ ký
Tộc biểu Bùi Thậm thủ ký
Tộc biểu
Dương Lang (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Hồ Qua (có lăn dấu tay)
Tộc biểu
Phan Mãnh (có lăn dấu tay)
Tộc biểu Trần Túc (có lăn dấu
tay)
Hương bộ
Hoàng Tri thủ ký
Hương kiểm Nguyễn Huấn thủ ký
Hương bổn
Nguyễn Nghĩa thủ ký
Bần tăng chùa Thiên Ân hiệu Quảng
Đức thủ ký
2.
Văn kiện ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Gồm 11 tờ
giấy bổi, khổ 14.5 x 2. Trong đó có 2 tờ chép trùng nhau và có
đóng dấu của xã Phước Thuận. Chưa rõ lý do cụ thể tại sao lại có
một bản chép trùng nhau như thế. Đây chắc là để bảo đảm, nếu bản
chính có mất thì còn có bản phó. Nội dung là để xin sắc tứ cho
chùa Thiên Ân. Từ tờ 3 trở đi trên bản danh sách của người ký
xin đều có ghi tám chữ Khất mông ân tứ Thiên Ân tự từ (Đơn xin
được sắc tứ cho chùa Thiên Ân).
Bần tăng xã Phước Thuận tổng Phước
Khiêm phủ Ninh Hoà Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức cúi đầu trình xin
mong ơn may được chuyển bẩm sự việc như sau :
Bần tăng ở
thờ Phật chùa cổ tích Thiên Ân tại xã ấy (do nguyên trước xã
Phước Đức). Nhưng chùa đó vào khoảng năm Minh Mạng (1820-1840)
có trú trì Hoàng Văn Dự pháp danh Thiên Phước ở đấy tu trì. Lần
ấy, kính vâng một khoảng trong lịnh vua bảo ngày trung nguyên
thiết lập đạo tràng thủy lục siêu độ cho hương hồn các quan binh
trận vong, dùng để giúp cho cõi âm được phước, nhân đó nhận được
một bức độ điệp do bộ lễ cấp.
Sự ưu ái của
ơn vua, dấu xưa vẫn còn, bèn kính sao chép, mong được thưa xin
bẩm thỉnh sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Kính nghĩ bần tăng tự lúc ở
chùa thờ Phật đến nay đã trải qua nhiều năm. Nhân dân các tổng
xã thôn lân cận phàm có ai bị trọng bệnh hiểm nguy, đến chùa cầu
xin, may nhờ thế mà được yên lành. Điều đó ai cũng điều công
nhận là linh nghiệm, phần lớn thật ra là nhờ đức tổ Thiên Phước
của bần tăng tu trì từ xưa mà để ơn trạch lại.
Bèn dám cúi xin quan phủ đường đại
nhân các hạ may được chuyển bẩm, giúp cho bần tăng được ơn mưa
móc thấm vào, thêm sáng ngời cho chùa chiền. Muôn lần trông cậy
đức vô cùng. Nay cúi đầu trình có bao các xã lân cận công nhận
cùng với chư sơn ký nhận xin ghi vào sau:
Ngày 20
tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã
Phước Thuận)
Nguyên tùng
bát phẩm đội trưởng Võ Đạt ký
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng
dấu xã Phước Thuận)
Miễn sai,
Nguyễn Tâm thủ ký
Phó tổng dụng Bồi Du thủ ký
Đại hào mục
Lê Đàm thủ ký
Hương bộ Huỳnh Tri ký
Hương bộ
Nguyễn Mỹ thủ ký
Hương kiểm Huỳnh Kim áp chỉ
Hương mục
Nguyễn Đình Tú thủ ký
Hương thơ Nguyễn Bách thủ ký
Chư sơn công
nhận như sau:
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn
xã Hiền
Lương hiệu
Thiên Quang vái ký
Chùa cổ tích Thiên Bữu xã Điềm
Tịnh tự là Không Tang hiệu Nhơn Sanh vái ký
Giáo thọ
chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang là Quảng An vái ký
Hoà thượng xà lê chùa cổ tích Kim
Ấn xã Phú Gia hiệu Vạn Phước vái ký
Trú trì chùa
cổ tích Linh Quang xã Xuân Hoà (hiệu) Vạn Trí thủ ký
Trú trì chùa Thiền Sơn xã Trường
Lộc hiệu Nhơn Hưng thủ ký
Trú trì chùa
Vạn Phước xã Cung Hoà hiệu Nhơn Thị vái ký
Trú trì chùa Kim Long xã Phú Hoà
hiệu Nhơn Duệ vái ký
Giáo thọ
chùa Linh Sơn xã Tiên Du hiệu Nhơn Hoằng thủ ký
Trú tăng chùa Phước Long xã Phước
Lý hiệu Hoằng Chất ký
Tăng chùa
Bảo Phước xã Hậu Phước hiệu Nhật Chiếu thủ ký
Tăng trú thủ chùa Khánh Long xã
Phước Đa hiệu Phổ Châu vái ký
Tăng trú trì
chùa Thiên Bữu xã Mỹ Hợp hiệu Phổ Nhãn vái ký
Chùa Khánh Long xã Long Hoà
Chùa Báo Ân
thôn Hội Khánh
Tổng Đồng Trung
Tổng Thân
Thượng
Lý trưởng tổng Tu xã Phước Sơn
tổng Phước Khiêm ký (có đóng dấu xã Phước Sơn)
Lý trưởng
Diệp Quang xã Vĩnh Phú ký (có đóng dấu xã Vĩnh Phú)
Lý trưởng Ngô.. xã phú Nghĩa ký
(có đóng dấu xã Phú Nghĩa)
Phó tổng
tổng Thân Thượng
Chánh tổng tổng Phước Hà ngoại (có
đóng dấu tổng Phước Hà ngoại)
Phó tổng
tổng Đồng Trung
Quyền lý trưởng Nguyễn Vịnh xã
Xuân Hoà tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã Xuân Hoà)
Cửu phẩm lý
trưởng Võ An xã Phượng Cương tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã
Phượng Cương)
Viện đại biểu nhân dân tỉnh Khánh
Hoà
Lý trưởng
Phạm Xuân thôn Mỹ Thuận tổng Ích Hạ ký (có đóng dấu xã Mỹ
Thuận)
Nguyên tùng cửu phẩm bá hộ Yết ma
chùa cổ tích Thiên Ân Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức thủ ký
Người vâng
lịnh chép thay thuộc xã Hiền Lương: Trần Thoả (đệ tử pháp danh
Đồng Minh) vái tự ký
3. Văn kiện ngày 13 tháng 3 năm
Bảo Đại thứ 15 (1940)
Gồm 12 tờ
giấy bổi, khổ 15 x 26.5, mỗi tờ 2 trang a và b. Giữa các trang
1b và 2a và 2b và 3a có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương. Chữ
viết bằng bút lông mực Tàu, nhưng trong phần phương danh những
người cúng thì có chỗ viết bằng mực xanh hay mực tím của bút
sắt. Chổ thị thực của chánh tổng Phạm Minh ở tờ 1b1 cũng viết
bằng bút sắt mực xanh.
Trú trì chùa
Sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức (và giám tự ) Viên Giác của xã
Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh vì xin báo cáo,
lập lời công việc như sau:
Điện Phật của bổn chùa đã trải
nhiều năm. Nay bần tăng thấy điều đó đau lòng, khiến bèn thành
tâm phát nguyện trùng tu phạm vũ. Nhưng bổn chùa không có tiền
bạc của cải xuất ra. Vì thế, nay báo rõ cùng với chư sơn thiền
đức cùng bổn đạo thiện nam tín nữ người hiền con Phật rộng phát
lòng từ, giúp cúng tiền bạc nhiều ít, nhân đó mà sửa sang việc
Phật. Bởi đó, tôi trình bày đầy đủ cho lý hào trong tổng sở tại
chứng nhận sự thật, có bao nhiêu thiện tín viên chức giúp cúng,
đều liệt kê phương danh vào sau đây, để ghi bảng lưu truyền. Xin
chúc hiện tiền phước thọ tăng long, ngày sau cùng lên nước Phật.
Nay xin có lời báo cáo.
Ngày 13
tháng 3 năm Bảo Đại 15 (1940)
Ngày mồng một tháng năm chứng
thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu của tổng Phước Tường
nội)
Trú trì chùa
Sắc Tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Giám tự hiệu Viên Giác thủ ký.
Bổn xã đồng
ký (có đóng dấu của xã Hiền Lương)
Sở tại lý trưởng Trần Ứng Long ký
Chánh cửu
phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Hào thủ ký
Đại hào mục
Nguyễn Công thủ ký
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ
ký
Chánh cữu
phẩm đội trưởng Trần Lự cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa cổ tích Khánh Long
kiêm kiểm tăng các chùa huyện nhà hiệu Vạn Minh hộ niệm cúng
tiền 1 đồng
Đàn đầu hòa
thượng chùa sắc tứ Linh Quang xã Đa Lạt đạo Đa Lạt tỉnh Đồng Nai
thượng hiệu Nhơn Thứ giúp cúng tiền 10 đồng ký tên hiện đã giao.
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn
là đương dương A xà lê hiệu Nhơn Thọ hộ niệm cúng tiền 5 đồng
hiện đã giao
Đệ tử chùa
sắc tứ cổ tích Long Sơn là Hòa thượng giáo thọ hiệu Vô Vi hộ
niệm cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà là Như
Ngọc vâng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa
sắc tứ Linh Sơn hộ trang Trần Dược pháp danh Như Quảng cúng tiền
50 đồng hiện đã giao
Trú trì chùa Quảng Long hiệu Hoằng
Thọ hộ niệm cúng tiền hai đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa
Cổ tích Linh Sơn hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn Như
Trung phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa
cổ tích Linh Sơn Nha Trang hiệu Hoằng Đạo phụng cúng tiền 5 đồng
ký hiện đã giao
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha
Trang tự Giải Diệu phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao
Hòa thượng
chùa sắc tứ Thiên Hoà Nha Trang hiệu Chân Nguyên phụng cúng tiền
tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Hải Đức tệ nạp
Bích Không phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Yết ma chùa
sắc tứ Hội Phước Nha Trang hiệu Tín Thành phụng cúng tiền 20
đồng
Linh Phong cổ tự Yết ma Chơn Hoà
hộ niệm phụng cúng thủ ký
Chủ chùa
chùa Báo Ân ở Hoa Tu hiệu Diệu Đạo phụng cúng 2 đồng
Chánh tổng Nguyễn Diễm xã Tân
Phước phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Thủ tự chùa
Long Hoà pháp danh Đồng Sanh phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện
đã giao
Chủ chùa chùa sắc tứ Di Đà xã Mỹ
Đồng Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm phụng cúng tiền tu bổ 100
đồng hiện đã giao
Thất phẩm
Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền chánh
điện 300 đồng hiện đã giao
Bùi Du xã Mỹ Đồng pháp danh Như
Nhàn cùng vợ pháp danh Như Chánh phụng cúng tiền tu bổ 20 đồng
hiện đã gia
Cựu hương bộ
pháp danh Như Hữu xã Phước Thủy phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng
hiện đã giao
Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn xã
Mỹ Hợp phụng cúng tiền tu bổ 5 đồng hiện đã giao
Pháp danh
Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
La Thị Nam phố Hội An tỉnh Quảng
Nam phụng cúng tiền tu bổ 5 hào hiện đã giao
Phan Thị Ức
pháp danh Như Tánh xã Tân Đức phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện
đã giao
Lại Thị Chung pháp danh Đồng Thủy
xã Phước Thuận phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Phú Hội thôn
đông cúng tiền 5 đồng Thân Trọng Giáp ký hiện đã giao
Pháp danh Như Thanh xã Hiền Lương
phụng cúng tiền 10 đồng ký hiện đã giao
Trần Thông
xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Như Đính xã Hiền Lương phụng
cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Lê Phát xã
Hiền Lương phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Lê Lễ Nghi xã Hiền Lương phụng
cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phú Hội
nguyện cúng tiền 10 chẵn hiện đã giao, Phạm Ngọc Quảng tự ký
hiện
Phan Quang Đức ngụ Hiền Lương
phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu tri yển
Trần Tình xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Vợ chồng Nguyễn Xôi Nguyễn Thị
Hoán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao
Vợ chồng
Trần Thuần xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Bà cô pháp danh Chơn Thành xã
Trung Dõõng phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Võ Minh xã
Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Văn Khả và vợ Lê Thị Giàu xã
Mỹ Tương phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Võ Khắc Cần
pháp danh Như Chỉnh thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Hải Nam bang Ngô Dụ Hoà và vợ Phan
Thị Vạn ngụ Tân Mỹ thôn phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã
giao
Hải Nam bang
Phù Thị Thành hiệu Chung Thị Thôi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Hải Nam bang Phan Phong Lợi phụng
cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị
Tam xã Phú Cang phụng cúng 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn Nở và vợ Nguyễn Thị Đẩu
xã Đô Doanh phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn
Của pháp danh Như Tài và vợ Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn
Tân Đức phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao Dương Thị Tiếu xã
Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Muộn pháp danh Như Cảm
xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 10 đồng chẵn hiện đã giao
Nguyễn Thị
Thìn pháp danh Như Hiển xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 3
đồng hiện đã giao
Bùi Thanh Liên ngụ xã Phú Cang
phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao
Lê Xán xã
Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Sắc tứ cổ tích Thiên Ân
Ngô Bình pháp danh Đồng Chính phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện
đã giao
Hội viên hội
Phật học xã Mỹ Trạch Ngô Cao Lâu phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã
giao
Hội trưởng hội Phật học đạo Đa Lạt
Võ Đình Dung pháp danh Tâm Thuận phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Đệ tử Nguyễn
Thị Cho pháp danh Đồng Lạc đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 5 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Đắc pháp danh Đồng Quả
đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Triều Châu
bang Thái Nhâm Đông cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương
Sài thôn đệ tử pháp danh Như Tăng phụng cúng tiền 2 đồng ký hiện
đã giao
Nha Trang
Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Hạnh phụng
cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương
Sài thôn đệ tử pháp danh Như Thế phụng cúng tiền 3 đồng ký hiện
đã giao
Nha Trang
Vĩnh Xương huyện Vĩnh Điềm xã Phạm Thị Tài pháp danh Như Thắng
phụng cúng tiền 20 đồng ký hiện đã giao
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương
Sài thôn pháp danh Trừng Xưng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Nha Trang
Trường Đông thôn Phạm Thị Đoá pháp danh Chơn Vịnh phụng cúng
tiền 1 đồng hiện đã giao
Nha Trang Trường Tây thôn Phạm
Ngọc Diễm pháp danh Chơn Dũng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Cửu phẩm Hồ
Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Võ Đình Dương thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Sài Cầu Phạm
Quyên (cúng) tiền 1 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp danh Thị Dương xã Phú
Cang phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Đệ tử pháp
danh Như Phổ thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Đại hào mục Hoàng Cẩâm thôn Khải
Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Pháp danh
Như Nghiêm thôn Đại Lãnh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký
Đầu vu cổ tích Khánh Long tự đệ tử
Nguyễn Khắc Đính pháp danh Tâm Trung xã Tân Phước ở Tu Bông
phụng cúng tiền 2 đồng tự ký hiện đã giao
Hoàng Khiêm
pháp danh Như Cung xã Long Hòa phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Nguyễn Thị Miệng thôn Hội Khánh
phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hoàng Thị
Lạc pháp danh Như Nhật thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Huỳnh Chiêm Giảng pháp danh Như Ân
xã Phong Phú phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Chánh cửu
phẩm đội trưởng Nguyễn Phương xã Hiền Lương phụng cúng tiền 15
đồng hiện đã giao
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận xã Hiền
Lương phụng cúng tiền 6 đồng hiện đã giao
Phó lý Lê Đê
xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng ký
Hương mục Nguyễn Du xã Hiền Lương
phụng cúng tiền 1 đồng có ký hiện đã giao
Cựu hương
mục Nguyễn Nhượng xã Hiền Lương phụng cúng tiền 4 đồng thủ ký
hiện đã giao
Phó hương bộ Hồ Vừa xã Hiền Lương
phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Hương lâm
Trần Minh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã
giao
Hương bộ Nguyễn Khánh xã Hiền
Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Hương dịch
Trần Đức xã Hiền Lương thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Miễn sai hương mục Trần Hậu xã
Hiền Lương phụng cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao
Cựu hương
dịch Lê Chân xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã
giao
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành xã
Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao
Cựu trùm yển
Nguyễn Hữu Thạnh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
hiện đã giao
Trường phu Lê Cần xã Hiền Lương
cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao
Thiều Quang
Lâm xã Lạc An cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Nay pháp danh Như Bình và
vợ Nguyễn Thị Diệp pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền
2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị
Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng, Đặng
Thị Nhẫn áp chỉ hiệp giao
Đại hào Hồ Nghị xã Hiền Lương
phụng cúng tiền 3 đồng thủ ký hiện đã giao
Tri yển
Huỳnh Kiều xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã
giao
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến phụng
cúng tiền 5 đồng chẵn
Nguyễn Phi
phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Hương bổn Nguyễn Cẩn phụng cúng
tiền 2 đồng ký
Hương dịch
Trương Hạ phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao Hương kiểm
Lê Giáp xã Hiền Lương cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao
Phạm Lý phụng cúng tiền 10 đồng
chẵn hiện đã giao
Phùng Hữu
Phương thôn Tân Mỹ cúng tiền 2 đồng chẵn
Cựu lý trưởng Nguyễn Ưng pháp danh
Như Ngoạn xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Trần Liên xã
Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao Vợ chồng Đỗ
Văn Tri xã Hiền Lương cùng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
ký
Chánh cửu phẩm đội trưởng Lý Hiệp
Có xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 đồng ký
Phó tổng
dụng Hồ Lạp xã Xuân Tự phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Ngô Văn Hảo pháp danh Đồng Nguyện
xã Hiền Lương Vạn Ninh phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao
Hồ Thái và
vợ Hồ Thị Xuyến xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Sanh
pháp danh Đồng Phóng xã Phước Thuận phụng cúng tiền 3 đồng hiện
đã giao
Trần Khổng
pháp danh Đồng Ích và vợ Vũ Thị Hiên thôn Ngân Hà phụng cúng
tiền 10 đồng hiện đã giao
Cựu lý trưởng Nguyễn Tú thôn Ngân
Hà cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Cựu binh
phiên Đoàn Thỏa thôn Bách Hà cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Vũ Vạn thôn Bách Hà phụng cúng
tiền 2 đồng hiện đã giao
Linh Sơn
đường thượng đệ tử Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long phụng cúng
1 đồng hiện đã giao
Vũ Thị Pháp pháp danh Tâm Nhuận xã
Mỹ Hợp phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chung Thị
Lành pháp danh Tâm Hiền xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã
giao
Pháp danh Chơn Chí Hoàng Thiện Tả
xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Võ Thị Lượng
pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ Ninh Hòa phụng cúng tiền 5 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn
Đại Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bành Thị Hoà
pháp danh Đồng Cảm xã Vĩnh Phú phụng cúng tiền 5 đồng đã giao
Con ruột Lưu Chí phụng cúng tiền 1
đồng đã giao
4.
Văn kiện ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo Đại 15 (1940)
Gồm 3 tờ
giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, không bìa.
Mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng nhiều nhất là
23 chữ, ít nhất là 4 chữ. Đây là bản kê khai pháp bảo và tự khí
cùng vật hạng của tổ đình Linh Sơn khi Bồ tát Quảng Đức về làm
trú trì ngôi tổ đình này.
Ngày 17 tháng 3 năm Canh Thìn Bảo
Đại thứ 15 (1940)
Chùa Linh
Sơn hiệu là Hoằng Chất vâng chép
Bổn chùa là cổ tích Linh Sơn được
sắc tứ (ngày tháng 3 năm này được sắc tứ). Nay hiện có trú trì
là Hoà thượng yết ma hiệu Quảng Đức, nay pháp bảo và tự khí cùng
vật hạng của bổn chùa Linh Sơn do nguyên cố đàn đầu hoà thượng
ông lưu truyền lại ở đây xin nhận ghi vào sau:
Chùa ngói
bốn tòa, tường vách bao quanh bốn phía đều đầy đủ (do trải qua
đã lâu, hư nát nhiều)
Đơn ruộng, giấy khế ước Tây Nam 13
trang (ruộng Chương, Cầu Cao, ruộng Bàu ở địa phận xã Hiền
Lương, gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huềø, do ngày 15 tháng này,
nghiệp chủ có ghi lời giao nhận tồn chiểu bên ngoài)
Hình tượng
Phật Thánh do đẻo sơn đúc hoạ:
Phật tam thế ba ngôi
Tượng Phật
trung 12 tượng
Tượng Phật tiểu 12 tượng
Tượng Hộ
pháp 2 tượng
Tượng Thánh già lam 3 tượng
Tượng Chúa
Bà hoàng cô 5 tượng
Tượng Tiêu Diện bàn ngoài 5 tượng
Hình vẽ Lục
Tổ trên giấy 1 bức
Sám bài 12 bộ ( 10 bức)
Hình vẽ Thập
Điện trên giấy 1 bức
Hình vẽ La Hán trên giấy 1 bức
Tượng Già
lam vẽ trên giấy và bố 2 bức
Long vị hậu tổ 1 ngôi
Long vị cố
giác linh Hoà thượng ông 1 ngôi
Long vị giác linh Hoà Thượng chùa
Long Sơn 1 ngôi
Long vị
đương kim 1 ngôi
Màn gió án thờ tiên linh 1 bức
Long vị và
thần vị của đàn na thí chủ 16 bàn
Chuông trống pháp bảo
Hồng chung
cổ tích 1 chiếc
Trống sấm 1 chiếc
Chuông gia
trì 1 chiếc
Chuông bảo chúng 1 chiếc
Chuông hạng
trung 1 chiếc
Chuông hạng tiểu 1 chiếc
Trống trung
1 chiếc
Mõ lớn 1 chiếc
Mõ nhỏ 2
chiếc
Linh chẩn tế 2 chiếc
Tang 2
chiếc
Tích trượng bia son 1 bộ
Y bát pháp
bảo
Y đỏ 25 điều 1 chiếc
Y đỏ lợt 25
điều 1 chiếc
Y chín điều tơ trắng 1 chiếc
Mũ tỳ lư, mũ
hiệp chưởng 2 chiếc mới tốt
Mũ tỳ lư cũ rách 1 chiếc
Tràng phan
loại mới 6 cái
Bàn rước loại mới của Hà Nội 2
chiếc
Bàn rước
loại cũ 2 chiếc
Long bài 1 hộp
Linh bảo ấn
1 chiếc
Ấn in năm tháng 1 chiếc
Tánh tích
pháp hiệu của cố Hòa thượng ông 1 hộp
Pháp kính 1 chiếc
Phật quang
chẩn tế 1 bộ
Cọp đất 1 bộ
Ấn in năm
tháng Tam bảo 2 chiếc
Kinh điển cũ mới
Thiền môn
nhật tụng 1 quyển
Luật Tỳ ni nhật dụng thiết yếu 1
quyển
Tỳ ni nhật
dụng 1 quyển
Long thư tịnh độ 1 quyển
Luật giải
loại cũ 1 quyển
Chi na tỳ kheo giới bổn lưu nghĩa
loại cũ 1 quyển
Địa tạng
kinh loại mới 1 bộ (3 quyển)
Tam bảo kinh loại mới 1 bộ (3
quyển)
Mông sơn thí
thực khoa loại cũ 2 quyển
Trung khoa du già loại mới 2
quyển
Mông sơn
khoa đại bản loại mới 1 quyển
Du già thí thực khoa nghi đại bản
loại cũ 1 quyển
Bát dương
kinh loại mới 1 quyển
Báo ân kinh loại mới 1 bộ 1 quyển
Thủy sám đại
bản loại mới 1 quyển
Vô lượng nghĩa kinh 1 quyển
Kim cang
quảng thích thượng trung hạ 1 quyển (bản sao)
Đại phương tiện báo ân kinh loại
cũ 3 quyển (1,2,3,4,5,6,7)
Lục tổ bảo
đàn kinh cựu đại bản 1 quyển
Kim quang kinh loại mới 1 bộ cọng
5 quyển (1.2.3.4.5.6.7.8.9.10)
Kim cang
giải nghĩa kinh loại cũ 1 quyển
Bát dương kinh loại cũ 2 quyển
Thủy sám
kinh loại cũ 1 bộ 3 quyển
Ngọc lịch tiểu bản 3 quyển
Cựu Pháp hoa
kinh 4 quyển
Ngũ bách kinh loại mới 1 quyển
Bán nguyệt
kinh 1 quyển
Pháp Hoa kinh loại mới 1 bộ 7
quyển
Báo ân kinh
loại mới 1 bộ 3 quyển
Dược sư kinh 1 quyển
Phạm võng
kinh 1 quyển
Nhã tục công văn 1 bộ 4 quyển
Cao vương
Quán Thế Âm kinh
Phổ Môn giấy tây 1 quyển
Quan thánh
đế quân chân kinh mới cũ 3 quyển
Tịnh trù cấp thủy phóng sanh phóng
đăng dương phan thiên 1 cặp (dấu chữ của sư ông)
Tông tích bí
truyền thiền lâm thiên tiểu bản 1 tập
Thiền môn sách tấn 1 quyển
Vu lan bồn
kinh 1 quyển
Luận ngữ 2 quyển
Mạnh tử 3
quyển
Trung dung 1 quyển
Thi kinh 1
quyển
Nam quốc địa dư 1 quyển
Địa lý 1
quyển
Tử vi 1 quyển
Y thơ 4
quyển (lại bản chép 1 quyển
Tự điển 1 quyển
Vận 1 quyển
Ngọc hạp thông thơ loại cũ 1
quyển
Vật hạng
linh tinh trở xuống
Bình vôi 1 ống
Bàn thờ ghế
thờ lớn nhỏ dài ngắn mỗi thứ cộng 18 chiếc
Ván ngựa 2 bộ (gồm 12 tấm)
Thẩu sành
(đồ đựng cơm) 2 cái
Chén bát nung tốt xấu 300 chiếc
Giường nằm 4
chiếc
Nồi đồng lớn nhỏ 6 chiếc (1 tuổi 1
chiếc, 2 tuổi 2 chiếc, nửa tuổi 1 chiếc, 3 tuổi 2 chiếc, tuổi lỡ
1 chiếc
Nồi gang đại
tiểu 2 chiếc
Cối đá giả bột 1 chiếc
Cối xay lúa
1 chiếc
Cối giả gạo 2 chiếc (đá và cây)
Đèn toạ đăng
3 chiếc
Đèn thường dùng loại nhỏ 6 cây
Trường kỷ
mây một chiếc
Hộp đồng cao trù 3 chiếc
Đồ trà 2 bộ
hai dĩa 8 chén nhỏ
Hộp gỗ 4 cái (1 cái cẩn xà cừ)
Ang đất 2
cái (chứa nước lạnh)
Lu đất loại lớn 1 cái
Thạp đất
chứa gạo 2 cái
Vò đất chứa tương 10 cái
Bình trà 2
cái (lại 1 cái)
Tam sơn cẩn xa cừ 1 bức
Lò đồng hút
thuốc 1 cái
Rương giác 1 cái
Chậu hoa
bằng đất lớn nhỏ 10 chậu
Chùa Linh Sơn hiệu là Hoằng Chất
thủ ký
Trần Thoả
viết thay tự ký
5. Văn kiện ngày mười tháng giêng
năm Bảo Đại thứ 16 (1941)
Gồm 3 tờ
giấy bổi láng có một bìa lưng màu đỏ gạch, đóng lại bằng chỉ
giấy bổi, khổ 15.5 x27, không đánh số tờ. Mỗi tờ 2 trang a và b.
Trang 1a có 8 dòng, mỗi dòng trung bình 27 chữ, chép nội dung lá
đơn viết cho quan huyện Vạn Ninh xin phép đem ruộng chùa cho
mượn để lấy tiền sửa chùa. Từ các trang 1b-2a và trang 2b-3a, ở
giữa có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương và tổng Phước Tường
nội, ghi lại niên đại và tên các người đứng đơn cũng như viên
chức làng xã.
Tông phái sắc tứ chùa cổ tích Linh
Sơn tại xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh
Khánh Hoà là Lâm Văn Tuất Yết ma hoà thượng sung kiểm tăng hiệu
Quảng Đức kính trình vì được ơn mong phê làm bằng sự việc sau:
Trải trước đây, cố hoà thượng
hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện và nhà cửa đông tây ba
toà của bổn chùa Linh Sơn, lai lịch đã trải qua nhiều năm
cho tới đây. Nay bần tăng nhận lấy tông phái nầy, thấy cây
gỗ ngói gạch phần lớn đã hư nát, đến nỗi bần tăng và lý hào
bốn xã gia tâm giúp đỡ nghĩ làm, lại nhận được số tiền công
hứa trích cho của quan trên.
Nhưng trộm nghĩ công trình thì lớn
nặng, chánh điện Phật đường chưa được thành tựu trang nghiêm,
đến nỗi bần tăng nói rõ với lý hào bổn xã cho được tự do đem các
sở ruộng chùa của bổn chùa cho mướn, để lấy tiền sung vào việc
chi trả các khoản trùng tu chùa. Vì thế, cúi mong huyện đường
đại nhân các hạ phê cho làm bằng, hầu tiện thừa hành Phật sự.
Nay kính
thừa kê các ruộng do dâng cúng mà bổn chùa đã có để trình xét.
Nay kê:
Các thửa ruộng ở chỗ Cầu Cao, chùa
Các, chùa Chương thuộc địa phận xã Hiền Lương
Các thửa
ruộng ở gò Đỏ thuộc địa phận xã Vinh Huề
Nay xin kê
Ngày mồng
mười tháng giêng năm Bảo Đại 16
Chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh
ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa
sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Sở tại lý trưởng cửu phẩm Trần Ứng
Long chứng ký
Bổn xã đồng
ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự
Chánh cửu
phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu phẩm Nguyễn Phương thủ
ký
Cửu phẩm đội
trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá hộ Nguyễn Trọng cảnh
thủ ký
Đại hào mục
Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục Lê Tế thủ ký
Đại hào mục
Hồ Nghị thủ ký
Đại hào mục NguyễnThả thủ ký
Miễn sai
hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai hương mục Trần Yến thủ
ký
Phó tổng
dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng dụng hương bổn Nguyễn Cẩn
thủ ký
Chánh hương
bộ Nguyễn Khánh thủ ký
Phó lý Lê Đê thủ ký
Phó hương bộ
Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Hương dịch
Trần Khôi thủ ký
Cựu hương mục Nguyễn Thành thủ ký
Cựu trùm yển
Nguyễn Thạnh thủ ký
Cựu hương dịch Ngô Hảo thủ ký
Cựu hương
thơ Trần Văn Thông thủ ký
Hương mục Nguyễn Du thủ ký
Cựu phó lý
Nguyễn Vạn thủ ký
Thay viết thế xin bằng Trần Thoả
(người xã Hiền Lương) tự ký.
6.
Văn kiện ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 18 tờ
giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 26. Trong số 18
tờ này, có đến 5 tờ để trống cả mặt không có viết chữ, tức các
tờ 5, 7, 8, 9 và 11, nhưng lại có khuôn dấu xã Hiền Lương đóng
dấu giáp lai, chứng tỏ các tờ này đã xuất hiện ngay từ đầu, lúc
văn kiện mới ra đời. Chữ viết dễ đọc bằng bút lông mực Tàu,
nhưng thỉnh thoảng có hai dòng viết bằng bút sắt. Văn kiện đây
đề cập đến việc quyên tiền cho công tác trùng tu chánh điện tổ
đình Linh Sơn.
Yết ma tông phái chùa sắc tứ cổ
tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh
tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức viết lời báo cáo sự việc sau:
Trải trước
đây, cố hoà thượng hiệu Thiên Quang xây dựng chánh điện Linh Sơn
của bổn chùa. Lai lịch trải qua nhiều năm, đến nay cây gỗ ngói
gạch phần lớn bị giộp hư phải nên sửa lại mới một phen. Vì thế,
bần tăng vâng nhận công phái này, trùng tu dựng lại, kính cáo
chư sơn thiền đức và An nam Phật học hội cùng bổn đạo con Phật,
thiện tín viện chủ các lớp người phát lòng từ tế lớn vui giúp
của cải ít nhiều, xưng dương giúp nghĩ, mãi lưu ơn miên viễn,
ghi bảng lưu truyền quí tính phương danh đều thấm nhuần quả
phúc. Nay có lời kính cáo. Lại chúc hiện tiền phước thọ tăng
long, ngày sau đều lên cảnh Phật.
Ngày 13 tháng giêng năm Bảo Đại 16
(1941)
Chứng thực:
Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu tổng Phước Tường nội)
Yết ma chùa
sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức thủ ký
Lý trưởng sở
tại cửu phẩm Trần Ứng Long chứng ký
Bổn xã đồng
ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh cửu
phẩm đội trưởng Trần Lự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện
đã giao
Chánh cửu
phẩm bá hộ Trần Diệp thủ ký
Chánh cửu
phẩm Nguyễn Phương thủ ký
Cửu phẩm đội
trưởng Lê Vận thủ ký
Cửu phẩm bá
hộ Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
Đại hào mục
Nguyễn Công thủ ký
Đại hào mục
Lê Tế thủ ký
Đại hào mục
Hồ Nghị thủ ký phụng cúng tiền chánh điện 6 đồng
Miễn sai
hương kiểm Lê Lương thủ ký
Miễn sai
hương mục Trần Yến thủ ký
Phó tổng
dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký
Phó tổng
dụng hương bổn Nguyễn Cẩn thủ ký
Chánh hương bộ Nguyễn Khánh thủ
ký
Phó lý Lê Đê
thủ ký
Phó hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương lâm
Trần Minh thủ ký
Hương dịch Trần Khôi thủ ký
Cựu hương
mục Nguyễn Hữu Thành thủ ký
Cựu hương thơ Trần Văn Thông thủ
ký
Hương mục
Nguyễn Du thủ ký
Cựu hương bổn Nguyễn Vinh áp chỉ
phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Đại hào mục
Nguyễn khả thủ ký
Cựu phó lý Nguyễn Vạn thủ ký
Cựu hương
dịch Phan Lộc áp chỉ
Thay viết lời thế đệ tử Trần Đồng
Minh (tức Thoả) tự ký
Chư sơn
thiền đức hộ niệm giúp cúng dựng lại chánh điện như sau:
Giáo thọ hoà thượng chùa sắc tứ cổ
tích Long Sơn hiệu Quảng An vâng tổ đường cúng tiền 5 đồng hiện
đã giao
Giáo thọ hoà
thượng chùa cổ tích Hoa Tiên của Diên Khánh hiệu Phổ Thiên cúng
tiền 3 đồng hiện đã giao
Chánh tri sự chùa Phú Phong của
Diên Khánh hiệu Bảo Đàn giúp cúng tiền 3 đồng ghi cúng
Giáo thọ hoà
thượng chùa Khánh Long hiệu Nhơn Hưng phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà hiệu
Huyền Châu phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Trú Trì chùa
cổ tích Quảng Long hiệu Hoằng Thọ phụng cúng tiền 10 đồng dựng
lại chánh điện
Trú trì chùa Long Hòa pháp danh
Đồng Trì hiệu Từ Tín phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã
giao
Đức Tân phổ
của Tân Mỹ pháp danh Thi Dương hiệu Từ Thái phụng cúng tiền
chánh điện 3 đồng
Chi hội Phật học Ninh Hòa cúng
tiền như sau:
Chánh đại
diện Bùi Dương phụng cúng 5 đồng (Quan huấn đạo Đồng Đức hiện đã
giao)
Đại diện Cao Chính phụng cúng tiền
4 đồng (hiện đã giao)
Huỳnh Cao
Sách 2 đồng (pháp danh Đồng Trí hiện đã giao)
Ngô Kỳ và Ngô Cao Lâu của Mỹ Trạch
(Đồng Bảo và Đồng Xuân) cúng 5 đồng
Nguyễn Liên
xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Hội xã Phước Đa pháp danh
Đồng Trung phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Châu
xã Phú Thạnh pháp danh Quảng Tu cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Ngô Bình đệ tử chùa Thiên Ân cùng
gia quyến pháp danh Đồng Chính cúng 5 đồng hiện đã giao
Lạc An Phạm
Lựu đệ tử chùa Thiên Ân pháp danh Đồng Thọ cúng tiền 1 đồng
Đệ tử Lê Hoàng xã Phú Thạnh pháp
danh Chơn Huy cúng tiền 1 đồng
Vợ chồng Lại
Mô pháp danh Đồng Nhẫn xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện
đã giao
Nguyễn Hiền pháp danh Đồng Lương
ngụ xã Tân Ninh cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Thông lại
phủ Ninh Hòa Lương Đình Hy pháp danh Tâm Tiến phụng cúng tiền 5
đồng hiện đã giao
Phương danh bổn đạo thiện tín phát
tâm giúp cúng chánh điện liệt kê như sau:
Thất phẩm
Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng tổng
Phước Tường nội huyện Vạn Ninh
phụng cúng tiền 400 đồng chẵn (hiện đã giao)
Vợ chồng cựu
lý trưởng Bùi Văn Du pháp danh Như Nhàn Như Chánh xã Mỹ Đồng
phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Lý trưởng Nguyễn Ốc pháp danh Đồng
Tại hiệu Huệ Tác xã Vinh Huề phụng cúng tiền 2 đồng chưa giao
Hương thơ
Nguyễn Ái pháp danh Đồng Nhân hiệu Từ Thành xã Vinh Huề phụng
cúng tiền 1 đồng chưa giao
Đệ tử Lê Thị Diệc pháp danh Như
Thừa thôn Tân Đức phụng cúng tiền chánh điện 10 đồng hiện đã
giao
Huỳnh Thị
Điệu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 20 đồng hiện đã
giao
Vợ chồng Phan Quang Đức người Minh
Hương ngụ xã Hiền Lương phụng cúng tiền 13 đồng hiện đã giao
Vợ chồng lão
nhiêu cựu hương trưởng Lê Kỷ xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh
điện 10 đồng chẵn hiện đã giao thủ ký
Vợ chồng phó lý Trần Mẫn xã Minh
Hương ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã
giao
Cữu phẩm Hồ
Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Tăng già Nguyễn Đồng Kính xã Quảng
Hội phụng cúng 2 đồng, hiện giao 1 đồng
Vợ chồng Bùi
Yên thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Liên Thị Hoa ngụ xã Tân Mỹ quyên
tiền 3 đồng hiện đã giao
Cựu hương bộ
Lê Lương ngụ xã Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã
giao
Quản Văn Hương pháp danh Như Qui
xã Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng
Lữ Cao Gia
pháp danh Như Hào thôn Tân Mỹ cúng tiền 1 đồng
Phạm Sử ngụ thôn Tân Mỹ phụng cúng
tiền 1 đồng ký hiện đã giao
Phạm Vi thôn
Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng
Đệ tử Trần Thật pháp danh Đồng Tâm
chùa Sắc tứ Thiên Ân cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Nguyễn Năng
pháp danh Như Nhẫn thôn Phú Hội phụng cúng tiền chánh điện 10
đồng hiện đã giao
Ngô Văn Kỳ pháp danh Đồng O xã
Xuân Tự phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao
Phạm Hối xã
Quảng Hội phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Pháp danh Như Ngang xã Quảng Hội
cúng tiền 2 đồng (Nguyễn Thị Lai)
Nguyễn Thị
Ổn pháp danh Đồng Yến xã Quảng Hội phụng cúng tiền chánh điện 2
đồng hiện đã giao
Nguyễn Đình Lan xã Phú Gia phụng
cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cô Năm Diệu
Hữu xã Bảo An phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa Sắc tứ Di Đà Võ Thị Cầm
pháp danh Như Niệm được vua sắc ban Háo nghĩa khả gia cúng tiền
100 đồng cùng bốn cột cây kè chánh điện trị giá tiền 55 đồng
hiện đã giao
Phan Thị Quí
phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã
Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao
Phan Thị Ức
pháp danh Như Tánh ngụ thôn Tân Đức phụng cúng tiền 10 đồng hiện
đã giao (do Hải thạch bát xích hiện giao)
Trần Thị Như xã Hiền Lương phụng
cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Cò
Trần Thị Diễu xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng
hiện đã giao
Vợ chồng lão nhiêu Nguyễn Văn Xuy
xã Hiền Lương phụng cúng tiền chánh điện 3 đồng ký hiện đã giao
Vợ chồng cựu
hương bộ Trần Hữu pháp danh Như Hữu xã Hiền Lương phụng cúng
tiền 5 đồng hiện đã giao
Chế Thị Liên thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 1 đồng hịên đã giao
Nguyễn Lợi
thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng
cúng tiền chánh điện 1 đồng hiện đã giao
Dương Thị
Tiếu xã Phú Cang phụng cúng tiền chánh điện 2 đồng hiện đã giao
Trương Thị Quyên thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Lê Thị
Chuyền pháp danh Tâm Luân xã Thanh Minh phụng cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Quèn xã Vinh Huề phụng
cúng tiền 0 đồng ký chưa giao
Đặng Thị Đoá
thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Đặng Văn Chữ thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Phan Liêm
thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Nguyễn Úy thôn Tân Mỹ phụng cúng
tiền 3 hào hiện đã giao
Hồ Đốc thôn
Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Đại thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Đỗ Thị Tỏi
thôn Tân Mỹ phụng cúng 2 hào hiện đã giao
Nguyễn Văn Chuột thôn Tân Mỹ phụng
cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Diệp Nhân Cơ
thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 hào hiện đã giao
Thừa lịnh chép thế lời thông cáo
là đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự ký.
7.
Văn kiện ngày mồng chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)
Gồm 4 tờ
đóng lại với hai tờ bìa trước sau màu gạch bằng chỉ giấy bổi.
Khổ 15 x 28. Nội dung văn kiện xin quan huyện Vạn Ninh cho phép
dựng lại chùa Bảo Sơn dưới sự chứng minh của Bồ tát Quảng Đức,
lúc đang làm trụ trì tổ đình Linh Sơn. Đặc biệt là trang 2b có
một bản dịch chữ quốc ngữ của văn kiện viết bằng bút sắt, chúng
tôi cũng cho in lại nguyên bản luôn, để làm tài liệu tham khảo.
Chủ chùa chùa Bảo Sơn xã Phước
Thủy tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh là cựu hương mục Nguyễn
Địch vái bẩm vì mong được ơn phê cho việc sau:
Xã của dân
nguyên trước dấu cũ có cảnh chùa trải qua đã lâu. Vào khoảng năm
Thành Thái (1889-1906) chùa bị đổ sập (do còn có di tích là
chiếc trống trung một mặt) khiến cho vận làng suy vi, dân tình
nghèo khổ, đến nay đã trải qua nhiều năm.
Nay dân nhân có một sở ruộng
đất trưng riêng (ruộng 1 mẫu, đất 4 mẫu) là 5 mẫu thuộc địa
phận của bổn xã, tục gọi là xứ Rọc Mây, núi mây tịch mịch,
phong cảnh thanh tú. Vào năm Bảo Đại thứ 2 (1927) dân đã
trình với bổn sư đàn đầu hoà thượng hiệu Thiên Quang chùa
Linh Sơn (xã Hiền Lương) chứng minh, tha thiết xin dựng lại
ngôi chùa ấy, thiết lập nên am tranh ở chỗ đó, Ngài bèn cho
hiệu Bảo Sơn, đốt hương thờ Phật. Nay đã 4 năm rồi, dân tình
đều được an khang đều cùng vui vẻ.
Nhưng từ đó đến nay chưa có xin
phép. Nay dân thiết nghĩ trùng tu dựng lại, tự xuất của nhà (do
huê lợi của 5 mẫu ruộng đất chi dụng lấy tiền. Dân nói rõ với lý
hào bổn xã ký chứng nhận để dân được tiện lợi đến quan xin. Vì
thế, cúi xin quan (huyện đường) đại nhân các hạ rộng ban đường
nhân mong nhờ văn phê, để cho dân được nhận đức mà dựng lại chùa
Phật. Muôn lần nhờ vả. Nay xin vái.
Ngày mồng
chín tháng hai năm Bảo Đại 16 (1941)(có đóng dấu Vạn Ninh huyện
ấn, và lời phê thính bằng -cho phép)
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã
Phước Thủy)
Lý trưởng
cửu phẩm Ngô Lực nhận ký (có đóng dấu xã Phước Thủy)
Nguyễn Địch (pháp danh Như Đương)
thủ ký
Cựu hương bộ
Trần Hữu thủ ký
Cựu hương kiểm Lê Chính thủ ký
Chánh hương
bộ Lê Ký (có đóng dấu hương bộ xã Phước Thủy)
Hương kiểm Nguyễn Lều thủ ký
Hương lâm
Trần Mít thủ ký
Viết thế để xin chứng: Trần Thỏa
(người xã Hiền Lương) tự ký
Yết ma hòa
thượng chùa sắc tứ cổ tích Linh Sơn hiệu Quảng Đức làm chứng
minh tự ký
Cố vấn giáo thọ hòa thượng chùa
sắc tứ cổ tích Long Sơn hiệu Nhơn Thọ hộ niệm ký
Thọ giáo hòa
thượng chùa Long Phước hiệu Nhơn Viên chứng minh hộ niệm vi tự
ký
8. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 7
năm Nhâm Ngọ (1942)
Khổ 21 x 29,
gồm 1 tờ giấy trắng A4 in từ bản khắc gỗ của chính bồ tát Quảng
Đức. Đây là một thơ gởi mời chư vị tôn túc và Phật tử tham dự lễ
đón bằng sắc tứ của chùa Linh Sơn.
Nam mô A Di Đà Phật
Phật lịch
năm 2505
Mãng nghe Phật do tâm tạo, đạo
dùng tăng hoằng. Nay có trú trì chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền
Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hoà hiệu
Quảng Đức và giám tự Viên Giác cùng bổn đạo của bổn xã được ơn
hoàng thượng sắc tứ bổn chùa, chọn được buổi sáng ngày 16 tháng
7 để đánh chuông cung nghinh sắc tứ, lại đón nghinh Bà miếu, vốn
đã xin phép thiết đại trai đàn nhằm từ ngày 16 đến ngày 19 tháng
7, có đầy đủ thuyết pháp, chẩn tế, trai tăng, tụng kinh, lục
cúng, trên để báo ơn Phật tổ, tiếp nữa là đáp lại ơn đức của
giác linh cố hoà thượng. Kính mong các viên chức cùng quý quyến
ngày đó quang lâm để nghe kinh lễ Phật.
Trên đây là
thiệp mời.(…….)
Quang lâm, lòng đạo tâm vui lành.
(…) mong vậy
Ngày mồng 1
tháng 7 năm Nhâm Ngọ
Yết ma hoà thượng chùa Linh Sơn
cùng môn đồ bổn đạo đồng kính thỉnh
Bổn xã xã
Hiền Lương đồng kính thỉnh.
9. Văn kiện ngày mồng 1 tháng 2
năm Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 17 tờ
giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi, khổ 14.5 x 25.5. Trong đó
có 7 tờ, tức các tờ 7, 8, 13, 14, 15, 16 và 17 để trống, không
viết chữ nào. Mỗi tờ có 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến
trang 8a có khuôn dấu xã Hiền Lương đóng giáp lai. Còn những
trang về sau dù để trống hay có chữ đều không thấy có đóng dấu
giáp lai. Chữ viết chủ yếu bằng bút lông mực Tàu, nhưng có khi
cũng viết bằng bút sắt mực xanh như ở tờ 10a8. Số tờ này là do
chúng tôi đếm, chứ bản thân văn kiện không có đánh số trang. Đây
là văn kiện quyên tiền để trùng tu chánh điện tổ đình Linh Sơn.
Nam mô A Di
Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma chùa sắc tứ Linh Sơn xã
Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa
hiệu Quảng Đức xin viết lời báo cáo việc sau:
Nay chánh
điện chùa đã trải qua nhiều năm hư nát, bần tăng đau lòng xót
mắt, phát nguyện trùng tu dựng lại để thờ Phật cho trang nghiêm.
Trộm nghĩ bổn chùa không có tiền bạc của cải xuất ra, bèn nói rõ
cho chư sơn thiền đức và hội viên An Nam Phật học hội cùng bổn
đạo Phật tử thiện nam tín nữ rộng phát lòng từ, giúp cúng cây gỗ
vật hạng ít nhiều, để sửa lại điện Phật. Tôi cũng báo rõ cho hào
lý sở tại chứng nhận sự thực có bao nhiêu người hảo tâm giúp
cúng tên tuổi ghi vào bản liệt kê dưới đây. Xin chúc hiện tiền
phước thọ tăng long, mất rồi cùng lên nước Phật. Vì thế, nay xin
có lời báo cáo
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo
Đại 19 (1944)
Yết ma chùa
sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký
Bổn xã điều đồng ký (có đóng dấu
xã Hiền Lương)
Chánh trưởng
ban chánh cửu phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng ban cửu phẩm đội trưởng
Nguyễn Phương ký
Hội viên cửu
phẩm văn giai Trần Ứng Long
Cửu phẩm Lê Đê thủ ký
Miễn sai
Trần Yến thủ ký
Sở tại lý trưởng Lê Như Đính ký
(có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý
trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch
Trần Thương thủ ký
Hương mục Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm
Trần Minh thủ ký
Yết ma hoà thượng chùa Phụng Sơn
Ninh Hoà hiệu Nhơn Sanh phụng cúng tiền hộ niệm 10 đồng hiện đã
giao
Thích Hưng
Từ chùa Kim Long Ninh Hoà phụng cúng tiền 10 đồng
Giáo thọ chùa Thạch Sơn hiệu Nhơn
Hoằng phụng cúng tiền 5 đồng
Trú trì chùa
Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất cùng bổn đạo giúp cúng
tiền 50 đồng vái ký
Thích tử chùa Phổ Hóa Bình Thành
hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm cúng tiền 50 đồng
Trú trì chùa
Khánh Long Tuân Thừa hiệu Từ Vân phụng cúng tiền 10 đồng
My Phong Am hiệu Khánh Vỹ xã Nga
My huyện Phổ Đức tỉnh Quảng Ngãi cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Bổn đạo
Quách Hữu Thiêm cùng thất trung Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn
phụng cúng tiền 30 đồng
Bổn đạo tín nữ Văn Thị Dược pháp
danh Đồng O phụng cúng tiền 20 đồng
Lão nhiêu
Nguyễn Văn Chung pháp danh Đồng Nguyện cùng gia quyến xã Phú Sơn
phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Nghi pháp danh Đồng O
xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao
Hội viên
Phật học hội Ninh Hoà Hoàng Như Quan pháp danh Tâm Uyển phụng
cúng 10 đồng hiện đã giao
Hộ tự chùa Thiên Bữu Lao Thiện
Chánh pháp danh Như Trung phụng cúng tiền 10 đồng
Võ Thị Lượng
pháp danh Đồng Số thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền dựng chánh điện 50
đồng hiện đã giao
Lại Văn Mô pháp danh Đồng Nhẫn và
vợ Nguyễn Thị Nhàn pháp danh Đồng Phú xã Văn Định phụng cúng
tiền 50 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị
Quyến pháp danh Đồng Thọ xã Mông Phú phụng cúng tiền dựng chùa
50 đồng hiện đã giao
Bành Thị Hoà pháp danh Đồng Cảm xã
Vĩnh Phú phụng cúng tiền dựng chùa 15 đồng hiện đã giao
Ôn Sĩ Hoàng
Nhật Quang pháp danh Đồng Nhật xã Minh Hương phụng cúng tiền
dựng chùa 10 đồng hiện dã giao
Đỗ Trọng Thành pháp danh Đồng Quả
xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị
Hiệu pháp danh Đồng Vọng xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền dựng chùa 30
đồng hiện đã giao
Nguyên giáo sư Nguyễn Xuân Khoá
pháp hiệu Từ Pháp xã Cung Hoà phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Phan Thị May
pháp danh Đồng Đắc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 50 đồng hiện
đã giao
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Định
pháp danh Đồng Quang xã Thạch Thành phụng cúng tiền 20 đồng
Đặng Thị
Bạng pháp danh Đồng Xúc xã Thạch Thành phụng cúng tiền 30 đồng
hiện đã giao
Nguyễn Thị Trì pháp danh Như Thiện
xã Thạch Thành phụng cúng tiền 10 đồng
Dương Thị
Khuynh pháp danh Đồng Ứng xã Phước Lý phụng cúng tiền 4 đồng
hiện đã giao
Lục Ngọc Cẩn xã Minh Hương phụng
cúng 10 đồng hiện đã giao
Nguyễn Chất
pháp danh Đồng Trực cùng gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền
10 đồng hiện đã giao
Trần Thị Chước pháp danh Giác Hạnh
tự Diệu Hoá tỉnh Quảng Ngãi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Lại Văn Tụng
và thất trung Phạm Thị Mực xã Văn Định phụng cúng tiền dựng chùa
5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị Mẫn cùng con ruột
Nguyễn Văn Đà xã Văn Định phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn
Tú pháp danh Đồng Cẩm thôn Đại Mỹ phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã
giao
Bổn đạo Triệu Thị Hưng pháp danh
Như Long, Thẩm Thị Tròn pháp danh Như Viên cùng cúng tiền 5
đồng
Chánh trưởng
ban Lê Tấn Lực xã Cung Hoà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Phạm Thị Thứ xã Cung Hoà phụng
cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Phó trưởng
ban Lê Bút pháp danh Nguyên Quảng xã Cung Hoà phụng cúng tiền 2
đồng hiện đã giao
Lý trưởng Lê Duy Thanh xã Cung Hoà
phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Chủ chùa
chùa Long Thọ hiệu Bảo Giác phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Đệ tử chùa Thiên Quang Phạm Thị
Liên pháp danh Tâm Hoa tự Diệu Hương cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Đệ tử chùa
Long Thọ Nguyễn Thị Chí pháp danh Nguyên Niệm cúng tiền 2 đồng
hiện đã giao
Chánh trưởng ban Trần Lục pháp
danh Đồng Sự xã Tuân Thừa cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Cựu lý
trưởng Trần Cái pháp danh Đồng Bồn tự Thiện Lợi xã Tuân Thừa
cúng tiền 2 đồng hiện đã giao
Toạ chủ chùa Từ Bi hiệu là Thường
Trân phụng cúng tiền 1 đồng
Trần Thị Lộc
pháp danh Tâm Lịch xã Quang Vinh phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã
giao
Cửu phẩm giáo sư Trần Dụ xã Quang
Vinh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Trà Văn Tri
pháp danh Đồng Ân xã Lạc Ninh phụng cúng tiền 3 đồng
Đổ Tất pháp danh Đồng Thiện cùng
gia quyến xã Lạc Xuân phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Lê Minh pháp
danh Đồng Nguyệt phụng cúng tiền 2 đồng
Lê Minh Hối pháp danh Đồng Ngộ xã
Bá Hà phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao
Nguyễn Văn
Thật pháp danh Chúc Hạnh xã Tân Khê phụng cúng tiền 2 đồng hiện
đã giao
Huỳnh Thị Ích pháp danh Chúc tựu
xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Nguyễn Thị
Sóc pháp danh Chúc Diệu xã Phong Thạnh phụng cúng tiền 3 đồng
hiện đã giao
10. Văn kiện ngày 1 tháng 2 năm
Bảo Đại 19 (1944)
Gồm 8 tờ
giấy đỏ đóng lại bằng chỉ bổi trắng có bìa trước và sau bằng
giấy trắng. Khổ 13.5 x 24.5. Trong đó chỉ 3 tờ đầu và tờ thứ 6
là có viết chữ, còn 4 tờ kia trống chữ viết bằng bút lông mực
Tàu, dễ đọc. Đây cũng là văn kiện đi quyên tiền xây dựng chánh
điện tổ đình Linh Sơn năm đến những người Việt gốc Hoa.
Nam mô A Di
Đà Phật tác đại chứng minh
Yết ma hoà thượng chùa sắc tứ cổ
tích Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh
tỉnh Khánh Hoà hiệu Quảng Đức, giám tự hiệu Viên Giác và các bổn
đạo nhằm xin có lời báo cáo việc sau:
Trộm nghĩ
thuyền đạo vượt biển, gió mát thổi khắp thì bước lên bờ đạo để
đoàn viên; trăng tuệ sáng trời thuyền từ biển nam tỏ lòng thành
mà ích lợi. Vì bổn chùa tại xã Hiền Lương do nguyên cố hoà
thượng Thiên Quang dựng xây, trải qua năm tháng, cây gỗ hư nát
rất nhiều. Nối gót mà bần tăng trở về nhận ở, vâng việc trùng tu
nhà cửa đông tây và cổng tam quan hiện đã xong rồi. Chỉ một toà
chánh điện chưa thể làm lại trùng tu chấn chỉnh. Nhưng nghĩ lại
bổn chùa có ít của cải đâu thể cán đán nhà lớn. Vì thế, bần tăng
lập tờ này báo rõ việc quý vị thương chủ cục và thiện tín hảo
tâm của Thanh bang hoặc phát lòng từ lớn giúp cúng tiền của, bố
thí vật hạng để trùng tu lại chánh điện của chùa. Được ơn rất
lớn may mắn xiết bao, xin ghi phương danh cúng vào đây, tức để
ghi bảng lưu truyền tới chốn xa.(do liệt quý vị tưởng niệm đến
việc Phật mà cho của cải gì, bao nhiêu thì bần tăng nghĩ tình
ghi lên bảng ở chùa để đời đời lưu chiếu trước thì giúp cho long
thần hộ hựu, thứ nữa thì để tai mắt mọi người có thể thấy nghe)
Nay xin có lời báo cáo. Kính chúc
gió trong trăng sáng núi Phổ Đà, hiện tại sống thì nay thêm
phước thọ. Giả như chết rồi thì an bài nhất định dưới cửa Bắc
sơn, nguyện về trời tây Cực lạc.
Nam mô A Di
Đà Phật
Nay kính chúc
Thiện tín
thanh bang lớn nhỏ chư liệt quý vị xét cho
Ngày mồng một tháng hai năm Bảo
Đại 19
Nhằm ngày
tốt tháng thới năm Giáp Thân
Chùa sắc tứ Linh Sơn Thích hiệu
Quảng Đức tự ký
Bổn xã đồng
ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Chánh trưởng ban chánh cửu phẩm
đội trưởng Trần Lự thủ ký
Phó trưởng
ban chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký
Hội viên cửu phẩm văn giai Trần
Ứng Long
Cửu phẩm Lê
Đê thủ ký
Miễn sai Trần Yến thủ ký
Sở tại lý
trưởng Lê Như Đính ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Phó lý trưởng Nguyễn Khánh thủ ký
Chánh hương
bộ Hồ Vừa thủ ký
Hương dịch tình thương thủ ký
Hương mục
Nguyễn Xuân Du ký
Hương lâm Trần Minh thủ ký
Lưu Chí
Tường phụng cúng tiền dựng chùa 3 đồng hiện đã giao
Phương sanh đường phụng cúng tiền
chánh điện 5 đồng
Đồng Thái
phụng cúng tiền chánh điện 5 đồng hiện đã giao.
11. Văn kiện ngày 8 tháng 12 năm
Bảo Đại (1944)
Gồm 1 tờ
giấy A4, chữ viết tay bằng quốc ngữ của Hội đồng hào mục làng
Hiền Lương thuận nhượng đất công hoang của làng cho tổ đình Linh
Sơn để làm nghĩa địa chùa theo yêu cầu của bồ tát Quảng Đức. Tờ
thuận nhượng này viết vào ngày 8 tháng 4 năm 1944, có chữ ký của
lý trưởng xã Hiền Lương cùng hội đồng hào mục làng ký tên và
đóng dấu. Văn bản viết bằng chữ quốc ngữ, nhưng lý trưởng lại ký
bằng chữ Nho.
Tờ thuận nhượng đất công hoang
Chúng tôi là
ban Hội đồng Hào mục làng Hiền lương, tổng Phước tường nội,
huyện Vạn ninh, tỉnh Khánh hoà,
Đồng ưng thuận nhượng đất công
hoang như sau nầy:
Cứ theo lời
tường của ngài Lâm Văn Tuất, Kiết ma Hoà thượng hiệu Quảng Đức,
trụ trì chùa Sắc tứ Linh Sơn rằng:
Nguyên cảnh chùa Linh Sơn hiện nay
nội cuộc chánh điện, nhà đông, nhà tây, Miếu bà, Tam quan và bảo
tháp rộng chừng 2 mẫu, đã thành tụ nguy nga rồi, nay ngài lại
tường xin thêm đất công hoang chung quanh cảnh chùa, ước hơn hai
mẫu, tục danh là gò gia để làm nghĩa địa.
Đất ấy đông
giáp đình làng, lại gần viên gia cửu phẩm Trần Ứng Long, viên
gia Nguyễn Trực và viên gia Trùm Mạnh;
Tây giáp công điền Đồng Bé lại gần
đường xe lữa;
Nam giáp
viên gia Nguyễn Địch, lấy 2 cây trụ cửa ngõ chùa làm giới hạn,
Bắc giáp sông.
Ngài tường
xin khai phá làm nghĩa địa để ngày sau mai táng những người
thiện tín, Thích tử thiền môn khi lâm chung.
Còn tất cả người trong làng, ai có
từ trần thì được mai táng nơi vạt đất từ bảo tháp giọc đến Miếu
bà, nhưng phải do chủ chùa chỉ định cho có trật tự, không được
tự tiện.
Cứ lời tường
như vậy, làng chúng tôi xét lại chỗ đất ấy quả là một khoảnh đất
công hoang chứ không xâm phạm công tư điền thổ nào cả, nên làng
chúng tôi cũng đồng ưng thuận nhượng khoảnh đất công hoang ấy
lại cho chùa Sắc tứ Linh Sơn để làm nghĩa địa.
Nay thuận nhượng
Làm tại thôn
Hiền Lương ngày 8 tháng 4 năm 1994
12. Văn kiện ngày 01 tháng 10 năm
1960
Gồm 2 tờ
giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, bên lề có dán 4 con niêm của
Việt Nam Cọng Hoà có đóng dấu, mỗi con giá 10 đồng. Nội dung là
biên bản khám xét ngày 01 tháng 10 năm 1960 của hội đồng khám
xét gồm những người đại diện chính quyền xã Ninh Đông và thôn
Phước Thuận cùng cựu lý hào thân sĩ, để giải quyết yêu cầu xin
vi bằng ruộng đất chùa của tự trưởng chùa Thiên Ân và thân hào
thân sĩ thôn Phước Thuận. Biên bản này lập ra để trình cho quận
trưởng quận Ninh Hoà thẩm xét để giải quyết. Nguyên do của yêu
cầu cấp vi bằng này là vì “trong thời kỳ còn ổn định có đủ giấy
tờ thực trưng ba sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín
hảo tâm, đều giao cho ông Hoà thượng Lâm Văn Tuất chấp giữ. Đến
năm 1948 chiến tranh, ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ
cũng bị mất, thất lạc không kiếm tìm được”. Như vậy việc yêu cầu
cấp vi bằng năm 1960 chắc chắn là có sự tham mưu của bồ tát
Quảng Đức cho vị đương nhiệm quản lý chùa Thiên Ân thời đó là
ông Lê Thành.
Tỉnh Khánh Hoà VIỆT NAM CỌNG HOÀ
Quận Ninh
Hoà
Xã Ninh Đồng BIÊN BẢN NHẬN XÉT
Số: 688/
HC.ĐĐĐ.NĐ
Hôm nay là ngày 1 tháng 10 năm
1960 hồi 10 giờ.
Chúng tôi
một hội đồng gồm có:
- Ông Đoàn Phiêu Đại diện xã Ninh
Đông.
- Võ Xuân
Sơn Hội viên kinh tế xã.
- Nguyễn Cương Ban nông vụ xã.
- Đặng Hơn
Thôn trưởng Phước Thuận.
- Lê Thành tự trưởng chùa Thiên
Ân, Phước Thuận.
- Bùi Du,
Nguyễn Bá cựu lý thân hào, thân sĩ. Và 13 ông bàn cận ký tên sau
đây đều hội tại chùa Thiên Ân và quý thân hào thân sĩ thôn Phước
Thiện, xã Ninh-Đông, quận Ninh-hoà, tỉnh Khánh-hoà.
Chiếu đơn xin của quý ông trên đề
ngày 10/9/1960 về việc xin vi bằng mất cựu đơn khẩn ruộng đất
của chùa Thiên ân, toạ lạc tại thôn Phước thuận xã Ninh Đông
quận Ninh-hoà tỉnh Khánh-hoà đã bị mất giấy tờ trong thời kỳ
chiến tranh.
Hội đồng
chúng tôi đến tận nơi khám xét:
1.- là diện tích của 3 sở tư điền
thổ của chùa Thiên ân là 47.988m2 thành 9 mẫu 6 sào 3 thước ta
đều toạ lạc tại thôn Phước thuận diện tích và chi tiết giới cận
của 3 sở như sau:
SỞ THỨ NHẤT:
do của ông Tổ khai sơn chùa Thiên ân là Bửu - Tịnh tậu mải và
ông Trương Quyền cúng hồi năm 1802, diện tích là 29.843 m2 thành
5 mẫu 9 sào 12 theo tam bộ kiến điền Phước thuận tại xứ đông cầu
ké và cây trâm, 1 khoảnh từ đám số 215 đến 229 và số 337 (và số
291 thổ mộ)
- thổ hạng ba 4 mẫu 1 sào 8
thước.
- điền hạng
ba 1 mẫu 5 sào 13 thước. Tục danh là ruộng chùa và giới cận như
sau:
- Đông cận tư thổ viên gia, Cao
Bổ, tư điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương, Đặng Bôn và Gò mả
- Tây cận
sông Chò.
- Nam cận tư thổ viên gia, Nguyễn
Đạt và Nguyễn Khao.
- Bắc cặn tư
điền Nguyễn Cương, Cao Tuyển và tư thổ Nguyễn Quân.
SỞ THỨ HAI: do của bà Hào, bà Trộm
cúng, diện tích là 12.810m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước theo tam
bộ kiến điền của thôn Phước thuận gồm có 14 đám tại xứ đông cầu
ké, từ đám số 327 đến số 340 tục danh là ruộng bà hào và giới
cận như sau thuộc tam hạng điền.
- Đông cận
mương nước (mương chủ) Phước thuận.
- Tây cận tư điền Nguyễn Thị Mươi,
tư thổ viên gia Ng-Chức.
- Nam cận
công điền viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
- Bắc cận tư thổ viên gia Hồ Đình
và tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn Thị Chín.
SỞ THỨ BA:
do của ông Trương Quyền bà Phạm Thị Quá cúng, diện tích là
5.355m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước theo tam bộ kiến điền của
thôn Phước thuận gồm có 15 đám từ số 24 đến số 38 thuộc tam hạng
điền tại xứ đông thiện điền, tục danh là ruộng tiên điền và giới
cận như sau:
- Đông cận mương nước bến chai.
- Tây cận
mương chủ Phước thuận
- Nam cận là công điền Phước
Thuận.
- Bắc cận
mương chủ và công điền Phước Thuận.
Đông tây tứ cận của ba sở tư điền
thổ của chùa, Thiên Ân trên là đúng theo đơn xin và sơ đồ không
bị xâm chiếm công tư điền thổ của ai.
2. Diện tích
của ba sở tư điền trên quả thật của chùa Thiên Ân
- một sở của ông Bửu Tịnh tạo lập
hồi Gia Long thứ nhất (1802)
- một sở của
bà Hào, bà cúng cho chùa có tạt bài vị thờ.
- một sở của vợ chồng ông Trương
Quyền và bà Phạm Thị Quá cúng có tạt bài vị để tại chùa trong
lúc trước trong thời kỳ còn ổn định có đưa giấy tờ thực trưng ba
sở đất và giấy tờ phụng cúng của các thiện tín hảo tâm, đều giao
cho ông hoà thượng LÂM VĂN TUẤT chấp giữ. Đến năm 1948 chiến
tranh ông Lâm Văn Tuất tẩu thoát mất và giấy tờ cũng bị mất thất
lạc không kiếm tìm được, cũng quả thật như đơn xin và chứng thật
của ông thôn trưởng và bàn cận nơi toạ lạc của sở tư điền thổ
trong thời bị mất giấy tờ.
3. Việc mất
giấy tờ vì lý do: chiến tranh nên giấy tờ bị thất lạc cũng quả y
như đơn xin và lời chứng của bàn cận.
Vậy hôm nay hội đồng khám xét
chúng tôi lập biên bản này kính đệ trình lên ông QUẬN TRƯỞNG
QUẬN NINH HOÀ thẩm hành./.
Hội đồng
khám xét ký tên:
Đại diện xã: Đại diện kinh tế: Ban
nông vụ xã: Thôn trưởng Phước Thuận:
Đoàn Phiêu
Võ Xuân Sơn Nguyễn Cương Đặng Hơn
Ký tên Ký tên Ký tên Ký tên
Hội đồng hào
lão: Bàn cận ký chứng:
Bùi Du Nguyễn Bá Nguyễn Cương
Nguyễn Chức
Ký tên Ký
tên Ký tên Dấu tay
Lê Thành Nguyễn Khao Cao Tuyền
Ký tên Ký
tên Ký tên
Nguyễn Thép Nguyễn Quận Nguyễn
Dìn
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Chín Hồ Đinh Nguyễn Khiêm
Ký tên Ký tên Ký tên
Nguyễn Thị Mười Cao Bổ Nguyễn Đẹt.
Ký Ký tên Ký tên
13.
Văn kiện ngày 09 tháng 2 năm 1961
Gồm tờ giấy
A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ bên lề có dán 2 con niêm của Việt
Nam Cọng Hoà, giá mỗi con 10 đồng và có đóng dấu nội dung là
chứng chỉ vi bằng do quận trưởng quận Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà
cấp cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân nhằm “giúp cho ông tự trưởng
chùa Thiên Ân đầu đơn tại toà án để xin xác nhận quyền sở hữu
của chùa, giúp cho việc điều tra và xét xử của toà án được nhanh
chóng dễ dàng và tạm thời cho ông tự trưởng chùa Thiên Ân được
hưởng hoa lợi các sở ruộng này cùng thọ nạp thuế cho chánh phủ”.
TRUNG NGUYÊN TRUNG PHẦN VIỆT - NAM
CỘNG - HÒA
Tỉnh Khánh
hòa
Quận Ninh hòa CHỨNG CHỈ VI BẰNG
Số 990
HC/CCĐĐ
- Chiếu đơn ngày 10-9-60 của ông
TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN tại thôn Phước thuận xã Ninh Đông quận
Ninh Hòa, xin chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế trong thời kỳ
chiến tranh cho 3 sở ruộng chùa tọa lạc tại thôn PHƯỚC THUẬN, xã
NINH ĐÔNG, quận NINH HÒA kê như sau:
1/- SỞ THỨ
NHẤT: diện tích được 5 mẫu 9 sào 12 thước ta gần tứ cận như
sau:
Đông giáp viên gia Cao Bổ, tự điền
Nguyễn chức, Nguyễn Cương, Đặng Bốn và Gò mã.
Tây - Sông
chò.
Nam - viên gia Nguyễn Đẹt, Nguyễn
Khao.
Bắc - tư
điền Nguyễn Cương, Cao Tuyền và Nguyễn Quân.
2/-SỞ THỨ NHÌ: diện tích được 2
mẫu 5 sào 10 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp:
Mương nước Phước Thuận
Tây - tư điền Nguyễn Thị Mười, tư
thổ Nguyễn Chức.
Nam - công
điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc - tư thổ Hồ Định, tư điền
Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
3/- SỞ THỨ
BA: diện tích được 1 mẫu 0 sào 11 thước ta gần tứ cận như sau:
Đông giáp mương nước bến chài.
Tây - mương
chủ Phước thuận.
Nam - công điền.
Bắc - mương
chủ và công điền.
Chiếu biên bản điều tra và khám
đất số 688-HC/CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của hội đồng xã Ninh Đông xác
nhận việc mất cựu văn khế nói trên của chùa Thiên Aân là đúng sự
thật và diện tích tứ cận y như trong biên bản có kèm theo lược
đồ của đương sự.
Chiếu thông
cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn
hạn niêm yết mà không có người nào khiếu nại về các sở ruộng nói
trên.
Nay cấp cho ông TỰ TRƯỞNG chùa
THIÊN ÂN chứng chỉ vi bằng mất cựu văn khế các sở ruộng nói trên
để chấp chiếu.
Chứng chỉ
này chỉ có giá trị về phương diện hành chánh, giúp cho ông TỰ
TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN đầu đơn tại tòa án để xin xác nhận quyền sở
hữu của chùa, giúp cho việc điều tra và xét xử của tòa án được
nhanh chóng dễ dàng và tạm thời cho ông TỰ TRƯỞNG chùa THIÊN ÂN
được hưởng hoa lợi các sở ruộng này cùng thọ nạp thuế cho chánh
phủ
NINH HÒA, ngày 9 tháng 2 năm 1961
QUẬN TRƯỞNG
QUẬN NINH HÒA
Nơi nhận
Ông Tự
Trưởng chùa THIÊN ÂN
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản
khám đất
3 bản lược đồ để chấp chiếu TRẦN
NGỌC NGHI
Ông đại diện
hội đồng xã Ninh Đông (ký tên đóng dấu)
1 bản chứng chỉ vi bằng
1 biên bản
khám đất
3 bản lược đồ để lưu tại xã
Hồ sơ và lưu
chiếu.
14. Văn kiện ngày 24 tháng 10 năm
1961
Gồm 1 tờ
giấy A4 đánh máy bằng chữ quốc ngữ, có con niêm Việt Nam Cọng
Hoà đóng dấu, giá 20 đồng. Nội dung là phán quyết của toà án sơ
thẩm Khánh Hoà đối với quyền sở hữu bất động sản của chùa Thiên
Ân đối với 9 mẫu 6 sào 3 thước điền thổ của mình, mà khế ước bị
thất lạc trong thời gian chiến tranh từ 1945 đến 1954. Số khế
ước này của chùa Thiên Ân nguyên do bồ tát Quảng Đức chấp giữ.
Sau đó, do điều kiện khách quan cho phép, thầy Giác Huệ cùng với
giáo hội tăng già tỉnh Khánh Hoà đã đứng ra xin quyền sở hữu vừa
nói.
TRÍCH LỤC BẢN CHÍNH ĐỂ TẠI PHÒNG
LỤC SƯ TÒA SƠ THẨM KHÁNH HÒA
Ngày
24-10-1961 VIỆT- NAM CỘNG - HÒA
Án hộ số 250/ DS NHÂN DANH QUỐC
DÂN VIỆT NAM
Án xác nhận
Tòa sơ thẩm Khánh Hòa khán định về án ông
quyền sở hữu bất động sản. NGUYỄN
HỮU THỨ ngồi ghế công tố viên và
Vụ số 586/
61 ông NGUYỄN HỮU CHẤN ngồi ghế lục sự đã
----- nhóm lại ngày 24 tháng 10
năm 1961 trong phiên
Có mặt xử
các ông: xử công khai tại Pháp đình công đường tòa sơ
NGUYỄN TOẠI: Chánh án thẩm Khánh
Hòa và đã tuyên án như sau:
NGUYỄN HỮU
THỨ: Biện lý BẢN ÁN
NGUYỄN HỮU CHẤN: lục sự TÒA ÁN
Chiếu đơn đề
ngày 30-9-1961 của THÍCH HẠNH HẢI tục danh Phan Cẩm Long, chánh
trị sự trưởng giáo hội tăng già Khánh hòa và đại diện tăng già
quận Ninh hòa trình bày rằng chùa Thiên Ân ở thôn Phước Thuận,
xã Ninh Đông, quận Ninh Hòa có ba sở tư điền thổ tọa lạc tại
thôn Phước Thuận là:
- Sở thứ nhất: diện tichs 29.843m2
tức 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương Quyên cúng cho chùa hồi năm
1802
- Sở thứ
hai: diện tích 12. 810 m2 thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà
Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị Trộm lập hậu điền.
- sở thứ ba: diện tích 5.355 m2
thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên và Phạm Thị Quá cúng
cho chùa.
Ba sở tư
điền thổ này thật của tư hữu của chùa Thiên Ân có lớp trú trì kế
thế cùng thuộc quyền của tăng sĩ. Đến năm 1945 trong thời chiến
tranh, trụ trì đương thời chùa Thiên Ân là hòa thượng Thích
Quảng Đức lánh nạn văn khố bị thất lạc, ngôi chùa bị tàn phá.
Đến năm 1960 Lê Thành hiệu là Giác Huệ về làm tự trưởng trùng tu
lại chùa và quản trị các điền thổ đã xin vi bằng chứng chỉ thất
lạc văn khế tại quận Ninh hòa. Đến nay Lê Thành già yếu nên đem
giao lại cho giáo hội tăng già quận Ninh hòa nên giáo hội cử
nguyên đơn đứng đơn xin tòa công nhận quyền sở hữu về ba sở điền
thổ nói trên.
Chiếu biên bản điều tra và khám
đất số 688-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 1-10-60 của hội đồng xã Ninh đông
xác nhận việc mất văn khế về các tư điền thổ nói trên của chùa
Thiên Ân
Chiếu thông
cáo số 5354-HC/ CCĐĐ-NĐ ngày 15-11-60 của quận Ninh Hòa đã mãn
hạn niêm yết mà không có ai khiếu nại về các bất động sản nói
trên.
Chiếu chứng chỉ vi bằng ngày
9-2-61 của quận trưởng Ninh Hòa.
Chiếu tài
liệu hồ sơ thì có đủ bằng chứng là những bất động sản nói trên
thuộc quyền sở hữu của chùa Thiên Ân.
VÌ NHỮNG LẼ ẤY
Xử công
khai, theo đơn thỉnh cầu, sơ thẩm về dân sự.
Xác nhận rằng những tư điền thổ
sau đây tọa lạc tại thôn Phước thuận, xã Ninh Đông quận Ninh Hòa
tỉnh Khánh Hòa là thuộc quyền sở hữu của chùa Thiên Aân ở thôn
Phước Thuận:
SỞ THỨ NHẤT:
diện tích 29.843m2 thành 5 mẫu 9 sào 12 thước do Trương Quyên
cúng vào chùa năm 1802.
Đông cận: tự thổ viên gai Cao Bổ,
tự điền Nguyễn Chức, Nguyễn Cương, Dạng Bốn và Gò mả
Tây cận:
sông chò
Nam Cận: tự thổ viên gia Nguyễn
Dẹt và Nguyễn Khao
Bắc cận: tự
điền Nguyễn Chương, Cao Tuyên và tự thổ Nguyễn Quận.
SỞ THỨ HAI: diện tích 12. 810 m2
thành 2 mẫu 5 sào 10 thước do các bà Nguyễn Thị Hào, Nguyễn Thị
Trộm lập hậu điền.
Đông cận:
Mương nước Phước Thuận
Tây cận: Tư điền Nguyễn Thị Mười,
tư thổ viên gia Nguyễn Chức.
Nam cận:
Công điền và viên gia Nguyễn Dìn và Nguyễn Thép.
Bắc cận: Tư thổ viên gia Hồ Định,
tư điền Nguyễn Khiêm và Nguyễn thị Chín.
SỞ THỨ BA:
diện tích 5.355 m2 thành 1 mẫu 0 sào 11 thước do Trương Quyên và
Phạm Thị Quá cúng cho chùa.
Đông cận: Mương nước bến chài.
Tây cận:
Mương chủ Phước thuận.
Nam Cận: Công điền Phước thuận.
Bắc cận:
mương chủ và công điền Phước thuận.
Đễ nguyên đơn chịu án phí.
Đã lập phán
định và đã tuyên tại ngày tháng năm kể trên tại Pháp đình công
đường tòa sơ thẩm Khánh Hòa.
Ký tên: NGUYỄN TOẠI NGUYỄN HỮU
CHẤNH
Trước bạ tại
Nha Trang, ngày 6 tháng 12 năm 1961
TA HUYNH
SAO Y CHÍNH
BẢN
Bản sao cấp cho THICH HANH HAI
theo lời yêu cầu
Nha Trang,
ngày 21 tháng 12 năm 1961
CHÁNH LỤC SƯ
LƯƠNG TƯ PHẤN
CHƯƠNG II
Hai tư liệu
liên hệ với thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm
Chương II là
hai văn kiện liên hệ đến việc cúng ruộng và đúc chuông của bổn
sư Bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm.
Vì là cậu ruột của bồ tát Quảng Đức, nên thiền sư cũng sinh ra
và lớn lên tại cùng quê là làng Hội Khánh huyện Vạn Ninh tỉnh
Khánh Hoà. Thiền sư là người con thứ ba trong gia đình, sinh năm
Đinh Tỵ (1857), tên đời là Nguyễn Giá, anh ruột của bà Nguyễn
Thị Nương là mẹ của bồ tát Quảng Đức.
Thiền sư
xuất gia muộn, lớn hơn vị thầy của mình là thiền sư Chơn Hương
Huyền Túc Thiên Quang đến cả 6 tuổi. Thiền sư sinh ngày 1 tháng
5 năm Đinh Tỵ (1857) và cũng mất trước thầy mình 18 năm vào ngày
23 tháng 11 năm Tân Dậu (1921), thọ 67 tuổi. Tương truyền trước
khi xuất gia, thiền sư đã luyện tập các môn huyền học. Dân vùng
Vạn Ninh còn kể chuyện thấy thiền sư cỡi cọp từ trong núi đi ra.
Cọp vùng này thuộc loại dữ nhất nước, như ca dao đã từng ghi
nhận: cọp Khánh Hoà, ma Bình Thuận.
Sau khi xuất
gia, học tập và thọ giới với bổn sư của mình tại tổ đình Linh
Sơn, thiền sư đã đến làng Phú Cang ở tại chùa Long Hoà của làng
này cho đến lúc khai sơn chùa Long Sơn vào năm Thành Thái thứ 10
(1899). Chính tại ngôi chùa này vào cuối năm 1976, chúng tôi đã
phát hiện ra bản in xưa nhất của tác phẩm dài nhất của văn học
quốc âm Việt Nam là Hứa sử truyện vãn do chính tác giả là thiền
sư Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài (1757- 1834) đứng in. Văn bản này
đã trở thành tư liệu cơ sở cho công tác nghiên cứu và công bố
các thơ văn mà chúng tôi tập hợp được thành Toàn tập Toàn Nhật
Quang Đài. Căn cứ vào bản kê khai pháp bảo tự khí của tổ đình
Linh Sơn do Hoằng Chất thiết lập vào năm Bảo Đại 15 (1940) ở
trên ta không thấy có văn bản ấy. Điều này chứng tỏ nó phải được
chính thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đã thỉnh ở đâu đó
về chùa Long Sơn của mình, nếu không nữa thì các đệ tử, trong đó
có khả năng là Bồ tát Quảng Đức của chúng ta đã làm việc ấy.
Dẫu sao đi
nữa, ngoài Bồ tát Thị Thủy Hạnh Pháp Nhơn Tri Quảng Đức, thiền
sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm đã đào tạo được một số đệ tử kế
thừa mình tại chùa Long Sơn cũng như các chùa khác ở Vạn Ninh.
Chẳng hạn, thiền sư Thị Hớn Hạnh An Nhơn Thọ (1881-1947) đã kế
thế bổn sư mình để làm trú trì chùa Long Sơn, thiền sư Thị Cảnh
Hạnh Phước Viên Minh (1881-1967), thế danh Lâm Văn Quy, là anh
ruột của Bồ tát Quảng Đức, trú trì chùa Pháp Hải ở làng Lạc Hoà,
Ninh Hoà v.v….Cho nên, sự có mặt của Hứa sử truyện vãn tại tổ
đình Long Sơn chứng tỏ, nếu không được các vị ấy thỉnh về thì
chắc chắn cũng được các vị ấy đọc và học tập. Từ đó, nó có ảnh
hưởng nhất định trên tư tưởng và hành động của đồ chúng tổ đình
Long Sơn.
Hứa sử
truyện vãn được truyền bá rất rộng rãi, đặc biệt tại các vùng
Nam trung bộ và Nam bộ. Phần lớn những bản in và chép tay, dù
xuất hiện ở các vùng khác của đất nước, cũng chủ yếu xuất phát
từ hai vùng ấy. Sự tình này giải thích không ít tại sao những
vùng đấy đã sản sinh ra nhiều nhân tài Phật giáo, mà tiêu biểu
là thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1668-1746), người khai sáng ra
dòng thiền Thiên Thai Thiền Tôn ở Huế và Võ Trứ người cùng với
Trần Cao Vân cầm đầu cuộc khởi nghĩa năm 1887 tại Phú Yên mà
thực dân Pháp gọi là “giặc thầy chùa” trong quá khứ và nhất là
Bồ tát Quảng Đức của chúng ta trong thời hiện đại.
Bản thân
thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm thông qua lời lẽ trong
văn kiện cúng ruộng ngày 12 tháng chạp năm Duy Tân thứ hai
(1907) cho tổ đình Linh Sơn, Long Hòa và Long Sơn cho ta thấy
một phần nào tâm nguyện hộ đạo của Người. Bản thân chùa Long Sơn
là do chính thiền sư Hoằng Thâm khai sơn vào năm Thành Thái thứ
10 (1899). Điều này chứng tỏ thiền sư đã xuất gia và theo học
với thầy mình tại tổ đình Linh Sơn một thời gian. Rồi sau đó,
căn cứ vào văn kiện cúng ruộng cho chùa Linh Sơn và Long Hòa, ta
biết thiền sư đã ra ở chùa Long Hoà. Chùa này là ngôi chùa do
dân làng Phú Cang dựng nên. Cho nên, đến năm 1899, thiền sư đã
khai sơn chùa Long Sơn cũng tại làng ấy. Việc xây dựng chùa Long
Sơn kéo dài trong một thời gian dài, cho đến ngày 28 tháng 2 năm
Duy Tân thứ 2 (1907) thì hoàn tất việc đúc đại hồng chung cho
chùa, hiện vẫn còn. Cùng năm với việc đúc chuông, đến tháng chạp
thì thiền sư đã đem ruộng cúng cúng cho ba chùa Long Sơn, Linh
Sơn và Long Hoà.
Tổ Hoằng
Thâm làm xong những việc đó thì đến ngày 23 tháng 11 năm Tân Dậu
(1921) thiền sư đã vĩnh viễn ra đi. Các đệ tử của thiền sư,
trong đó có bồ tát Quảng Đức lúc ấy đang làm tri sự chùa, đã
cùng nhau đưa tiển vị thầy mình đến nơi an nghĩ cuối cùng và xây
tháp ở bên trái phía trước chùa. Trong số các văn kiện liên hệ
đến tổ Hoằng Thâm, ta hiện chỉ mới phát hiện được hai. Đó là bài
minh khắc trên chuông chùa Long Sơn ghi tên những vị chứng minh
và cúng tiền đúc nên quả chuông đó vào ngày 28 tháng 2 năm Duy
Tân thứ 2 và văn kiện cúng ruộng cho chùa Long Sơn, Linh Sơn và
Long Hoà vào ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907).
15. Văn kiện ngày 28 tháng 3 năm
Duy Tân thứ hai (1907).
Văn kiện này
là một bài minh khắc trên đại hồng chung của chùa Long Sơn đúc
vào ngày 28 tháng 3 năm Duy Tân thứ hai (1907) do thiền sư Như
Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm thực hiện. Nội dung ghi trên bốn mặt
của thân chuông, mỗi mặt khắc một chữ ghi lại tên mùa là Xuân,
rồi Hạ, rồi Thu và Đông, chủ yếu ghi tên những Phật tử đã cúng
tiền đúc chuông dưới sự chứng minh của tổ sư Thiên Quang chùa
Linh Sơn và Hiền Thạnh chùa Linh Thượng. Bắt đầu từ mặt chữ
Xuân, bài minh này đọc:
(xuân) Trú trì chùa cổ tích Long
Sơn xã Phú Cang tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà
nước Đại Nam hiệu Hoằng Thâm kính thưa:
Đến chỗ vết
Phật, mắt trông bờ kia mà thấy cao sáng. Nhờ được sự che chở mà
bần tăng tự đến cửa thiền cùng bổn xã tự ra tiền của và quyên
góp mười phương, vâng dựng chùa Phật, để làm báu pháp, nay đã
trải nhiều năm mà chuông trống chưa có. Nay việc tu sửa chùa
chiền đã hoàn thành, hương chủ của bổn xã nguyện phát tâm thỉnh
hồng chung một chiếc. Có bao nhiêu tiền bạc quyên được và quý
danh xin khắc vào trên chuông:
(hạ) Yết ma chùa Linh Sơn hiệu
Thiên Quang chứng minh.
Yết ma chùa
Linh Thượng hiệu Hiền Thạnh chứng niệm.
Hương chủ sở tại Võ Văn Trung pháp
danh Ngộ Đắc phụng cúng tiền 10 đồng.
Hương trưởng
Thái Văn Lương cúng tiền 2 đồng.
Thủ sắc Ngô Khanh pháp danh Tâm
Quang cúng tiền 1 đồng.
Yển tri Phạm
Văn phụng cúng tiền 3 đồng.
Cựu lý trưởng Đinh Văn Tài cúng
tiền 1 đồng.
Cựu phó lý
Võ Văn Trọng cúng tiền 1 đồng.
Binh Ngô Văn Lộc cúng tiền 5
quan.
(thu) Võ Văn
Giới pháp danh Thị Chiếu cúng tiền 1 đồng.
Đệ tử chùa Thánh Kinh Bành Viên
Khải cúng tiền 5 hào.
Trú trì chùa
Nghĩa Phương Triệu Phổ Quảng cúng tiền 3 quan.
Điển toà chùa Linh Sơn pháp danh
Như Độ cúng tiền quan điệu Hoằng Phước cúng tiền 1 đồng.
Phạm Văn Mâu
pháp danh Thị Tâm cúng tiền 1 đồng.
Nguyễn Thị Hậu cúng tiền 3 quan.
Trương Mẫn
cúng tiền 1 đồng.
Nguyễn Văn Ngoan cúng tiền 1 quan
5 hào.
Nguyễn Thị
Ký cúng tiền 3 quan.
Y Nguyễn Hữu Chí cúng tiền 1
đồng.
Bổn đạo chùa
Linh Sơn Nguyễn Ngọc Tung pháp danh Như Kịch cúng tiền 2 đồng.
(đông) cựu lý trưởng Chất cúng
tiền 5 hào.
Cựu lý
truởng Nguyễn Văn Chữ cúng tiền 1 đồng.
Vợ chồng lý trưởng xã Vinh Hoà
Nguyễn Văn Thành cúng tiền 1 đồng.
Lê Văn Ngọt
cúng tiền 1 đồng.
Hoàng Văn Tịch cúng tiền 1 quan 5
hào.
Hồ Thị Bằng
cúng tiền 1 quan 5 hào.
Đinh Điệu cúng tiền 1 đồng.
Hương Lễ
cúng tiền 6 quan.
Hồ Văn Tang xã Xuân Tự cúng tiền 1
đồng.
Danh Đặng
Quán pháp danh Như Tiến cúng tiền 3 quan.
Bổn đạo chùa Linh Sơn pháp danh
Như Niệm cúng tiền 3 quan.
Võ Văn Tự
cúng tiền 2 quan.
Hồ Như Tâm cúng tiền 3 quan.
Ngày 28
tháng 3 năm Duy Tân thứ 2
Nguyện khắp lớn nhỏ đều thành
chánh giác.
16.
Văn kiện này ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907)
Văn kiện này
là một bản sao của chính bản do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng
thực hiện ngày 15 tháng 5 năm 1958 lúc ấy đang trú trì chùa Linh
Sơn, có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày mồng
3 tháng 6 cùng năm cũng như sự xác nhận của Ban trị sự tỉnh hội
Phật giáo Khánh Hoà ngày 30 tháng 9 năm 1958.
Văn kiện này hiện chỉ có 2 tờ giấy
bổi láng, khổ 14x20, đóng chung với bản sao 6 văn kiện cúng
ruộng đất khác của chùa Linh Sơn và được Đại diện hội đồng xã
Vạn Lương chứng thực vào cùng một ngày. Nội dung viết bằng chữ
Hán như sau:
Đệ tử Nguyễn
Như Đạt, tự Giải Nghĩa, hiệu Hoằng Thâm chùa cổ tích Long Sơn xã
Phú Cang tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà trăm lạy xin thưa về
việc phụng cúng tự điền cùng trần tình sự duyên:
Đạt từ lúc nhận giới điệp của bổn
sư tới nay, vui thấy mây từ, mừng gội mưa pháp, bốn ân tưởng
đến, thường quấn tấc lòng, nhưng không biết làm sao. Lòng trái
với việc, tình bị cảnh trở đến nỗi ngổn ngang chưa định, mịt mờ
không thông. Những đêm thanh vắng lúc tham thiền tưởng nhớ, thì
lòng trần vứt hết, bèn may mắn mở được một con đường giác ngộ.
Vì thế, Đạt
không tiếc những gì mình có, chỉ muốn dùng đem để trả ơn. Đạt
xin đem những pháp khí, tự sản cùng tự điền của Đạt (16 mẫu) đưa
vào chùa cổ tích Long Sơn để tiện về một mối. Còn ba mẫu thì xin
dâng cúng cho chùa Linh Sơn của bổn sư để biểu nghĩa thầy trò,
ba mẫu thì đem dâng cúng cho chùa Long Hòa nơi mình ở để đáp lại
ơn đất nước.
Cúi mong hoà thượng bổn sư treo
cao trời tuệ, tác đại chứng minh, duỗi lòng xét nhận hầu giúp
tâm thành của Đạt vươn thấu tới hư không, để cho một tấm hạ tình
của Đạt chóng tiêu hết những lo lắng trần tục. Đạt khôn xiết cảm
tạ đội ơn.
Nay ruộng ba
mẫu đem dâng cúng có gì cũng đem nơi chốn kê ra dưới đây. Nay
lời dâng cúng ruộng xin kê:
Dâng cúng ruộng 3 mẫu toạ lạc tại
xứ Đồng Bé (đông giáp ruộng chùa và sông, tây giáp ruộng chùa,
nam giáp đường sông và bắc giáp ruộng chùa).
Sở ruộng 3
mẫu.(hạng nhất 7 sào, hạng nhì 8 sào, hạng ba một mẫu và hạng tư
5 sào)
Ngày 12
tháng 12 năm Duy Tân thứ 2 (1907).
Bổn xã đồng
ký.
Xã Vinh Huề
bổn xã đồng ký.
Đệ tử hiệu
Hoằng Thâm tự ký.
Vâng viết lời: Đệ tử Phạm Ngũ Giáo
tự ký.
Chương III
Văn
kiện liên hệ đến Tổ đình Linh Sơn
Chương này
tập trung 12 văn kiện liên hệ chủ yếu đến tổ đình Linh Sơn và
thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang về các sinh hoạt Phật
sự ruộng đất và xây dựng của tổ đình. Thiền sư Thiên Quang sinh
giờ Dần ngày 28 tháng 12 năm Nhâm Tuất (1863) và mất vào giờ Dần
ngày 26 tháng 12 năm Mậu Dần (1939), thế danh là Phạm Huyền Túc,
tại làng Sơn Hoà tỉnh Phú Yên. Cha là cụ Phạm Dĩ mẹ là bà Nguyễn
Thị Điền. Lớn lên, thiền sư đến xuất gia với tổ Ấn Chánh Tổ Tông
Huệ Minh, nên sau đó được đặt tên là Chơn Hương Thiên Quang. Ta
hiện chưa truy ra pháp tự của thiền sư. Những người đồng hàng và
đệ tử của thiền sư Ấn Chánh đều bắt đầu bằng chữ đạo như Chơn
Chánh Đạo Tâm Pháp Tạng, người đã chép bản Hứa sử truyện vãn vào
năm Thành Thái Ất Mùi (1895), Chơn Tâm Đạo Tánh Pháp Thân, người
đã khai sơn chùa Phước Huệ tại Huế và chú giải Tam bảo biện hoặc
luận v.v..
Thiền sư
Chơn Quang lớn lên thì đất nước đang bị nạn ngoại xâm do giặc
Pháp gây ra. Chính tại quê hương Phú Yên của mình, những người
Phật tử yêu nước đã anh dũng đứng lên dưới sự lãnh đạo của các
thiền sư Võ Trứ và Trần Cao Vân, quyết liệt chống trả với kẻ thù
vào những năm 1893. Đây hẳn là thời điểm thiền sư Thiên Quang đã
vào vùng Vạn Ninh lánh nạn để tránh sự trả thù đê hèn của giặc,
sau khi cuộc khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân thất bại. Dù với
thời điểm nào, ta cũng có thể chắc chắn là thiền sư vào trú trì
chùa Linh Sơn vào khoảng thời gian ấy.
Lý do suy
nghĩ như vậy xuất phát từ chỗ tổ Thiên Quang có người đệ tử là
thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm, mà ta biết đã khai sơn
chùa Long Sơn vào năm Thành Thái thứ 10 (1899) và trước khi khai
sơn, đã đến ở chùa làng Phú Cang. Việc khai sơn chùa ấy vào năm
đó chứng tỏ thiền sư phải xuất gia cũng trên dưới 10 năm, một
khoảng thời gian cần thiết để một người xuất gia có thể rời thầy
mình, để đi hành hoá ở một trú xứ mới. Cần nhớ rằng khi cuộc
khởi nghĩa Võ Trứ Trần Cao Vân xảy ra, thiền sư Thiên Quang mới
30 tuổi, tức về mặt đời sống đạo vẫn còn trẻ lắm. Dẫu thế, tuy
ta không biết thiền sư Hoằng Thâm xuất gia vào lúc nào, nhưng
điều chắc chắn là phải xuất gia vào khoảng 1893, nếu không là
trước đó.
Chỉ chừng ấy
thôi thì những văn kiện này cũng đáng để chúng ta quan tâm, vì
chúng có thể giúp hiểu thêm một giai đoạn Phật giáo thông qua
sinh hoạt của một ngôi chùa. Đặc biệt khi giai đoạn ấy là một
giai đoạn đất nước đầy những biến cố, lớp lớp người yêu nước đã
liên tục đứng lên để đấu tranh cho nền độc lập của tổ quốc.
Tuy nhiên,
cũng thông qua các văn kiện ấy, chúng ta không những biết về các
hoạt động của tổ Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang, mà còn biết
thêm về các công việc của tổ Như Đạt Hoằng Thâm và bồ tát Quảng
Đức. Chẳng hạn, trong văn kiện ngày mồng mười tháng 4 năm Ất Tỵ
(1905) ta biết vào thời điểm ấy tổ Hoằng Thâm đang làm “thủ tòa
chùa Long Sơn tỉnh Khánh Hoà”. Rồi trong văn kiện ngày mồng 6
tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917), tổ lại là “giáo thọ chùa cổ
tích Long Sơn”. Cũng trong văn kiện này, vào thời điểm 1917 bồ
tát Quảng Đức đang làm “tri sự chùa cổ tích Long Sơn”. Chính vì
những chi tiết này mà các văn kiện ở đây tỏ ra có một sức hấp
dẫn lạ thường đối với chúng ta.
17. Văn kiện ngày 21 tháng 11 năm
Thành Thái 14 (1902)
Đây là một
bản sao trên giấy bổi láng có chứng thực của Đại diện hội đồng
xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958 và của vị trú trì chùa Linh
Sơn là thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng vào ngày 13 tháng 5 năm
1958 cùng với sự phê duyệt của Ban trị sự Phật giáo tỉnh hội
Khánh Hoà ngày 30 tháng 9 năm 1958. Gồm 3 tờ, khổ 13x21, đóng
chung cùng với các văn kiện có sự chứng thực của xã Vạn Lương
cùng ngày. Văn kiện viết bằng chữ Nho, nhưng trang b của tờ thứ
nhất có một đoạn phê tiếng Pháp viết bằng bút sắt mực xanh.
Các vị chức dịch binh dân xã Hiền
Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hoà xin
lập tờ bán đất ruộng sự việc như sau:
Bổn xã có
một chủ tuyệt tự để lại một thửa ruộng nguyên là một mẫu 6 sào
đo theo chiều rộng cộng lại thành 6 mẫu, toạ lạc tại địa phận
của bổn xã, tục gọi là xứ Cây Cau, đông giáp ruộng chùa tây giáp
ruộng công, nam giáp ruộng công, bắc giáp ruộng công, đông tây
bốn phía đúng như trong sổ bộ. Nay bổn xã lập tờ bán đứt cho
người thôn Hội Khánh là Trần Thị Từ pháp danh Như Chí, đúng giá
một ngàn bốn trăm quan tiền. Việc giao nhận tiền xong, bèn lập
văn khế giao cho chủ mua chấp chiểu, đem cúng cho hoà thượng bổn
sư chùa Linh Sơn xã Hiền Lương của chúng tôi hiệu Thiên Quang
vâng giữ để đáp nhu phí hương đèn cho tam bảo và cha mẹ của chủ
mua, đời đời nối nhau cho đến mãi mãi, để cúng để kỵ, để làm
rộng ruộng phước. Đến như thuế lệ thì chiếu theo bổn xã mà đăng
nạp. Ngày sau người nào trong xã không được nói trái, lẽ gì thì
phải chịu lấy tội. Đây là tờ bán đứt ruộng.
Ngày 21 tháng 11 năm Thành Thái
thứ 14 (1902)
Lý trưởng
Nguyễn Văn Chợ nhận ký
Cựu lý trưởng Trần Văn Thiêm thủ
ký
Lão nhiêu
Trần Văn Đạt điểm chỉ
Cựu lý trưởng Thành thủ ký
Cựu lý
trưởng Xuân thủ ký
Hương hào Đức thủ ký
Cựu lý
trưởng Lộc điểm chỉ
Cựu lý trưởng Hoàn thủ ký
Cựu lý
trưởng Chánh thủ ký
Tri yển Tự
Trùm yển
Thuần thủ ký
Tráng Bính thủ ký
Tráng Duyên
điểm chỉ
Tráng Nở điểm chỉ
Cựu hương
trưởng Bá điểm chỉ
Tráng Bối thủ ký
Tráng Lung
thủ ký
Tráng Diệu điểm chỉ
Tráng Thiệu
điểm chỉ
Tráng Tình thủ ký
Cựu phó lý
Xung thủ ký
Viết lời Nguyễn Thống tự ký
No 33. Vente
en une rôle le 20 Décembre 1902 d’une rizière faites par les
autorités communales du village de Hiền Lương, phủ de Ninh Hòa,
à la nommée Trần Thị Từ, bonzesse de la pagode dite Linh sơn tự,
qui donne comme don à la dite pagode, moyennant cent soixante
dix huit piastres en ligatures, mille quatre cents ligatures. 3%
sur 178$00. Recu dix piastres soixante huit cents.(3% sur 178$00
= 5$34 plus amende)
P.o. L’Administrateur adjoint.
Signature
illisible et cachet
18. Văn kiện ngày 12 tháng 7 năm
Thành Thái thứ 15 (1903)
Khổ 14 x 21,
gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện khác có chứng
thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 năm 1958.
Đây là một bản sao do thượng tọa trú trì chùa Linh Sơn là thiền
sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958,
có chứng thực của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3
tháng 6 năm 1958 và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo
Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm 1958. Nội dung viết bằng chữ nho
mực Tàu, đề cập đến việc cúng ruộng cho chùa Linh Sơn của bà
Trần Thị Từ.
Trần Thị Từ pháp danh Như Chí và
con ruột Nguyễn Tấn Khoa thôn Hội Khánh tổng Phước Tường ngoại
huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa xin lập tờ cúng
ruộng sự việc như sau:
Nguyên trước
song thân thị sinh hạ chỉ được hai người. Anh ruột thị trước đã
qua đời. Tiếp đó, cha mẹ thị cũng đã đi chơi cõi tiên. Chỉ còn
mình thị. Hễ là con gái sinh ra là nhắm nhà khác, cô quả một
thân, sợ trăm năm sau không người nối thờ. Lòng mong báo đáp,
còn thẹn phận gái thiếu sót nhiều. Nghĩ kế muốn lâu dài, phải
nhắm tới cửa thiền mà gởi dấu.
Nay thị tình
nguyện xuất tiền của, mua đứt chủ ruộng một thửa tọa lạc tại xứ
Cầu Cau xã Hiền Lương, giá tiền một ngàn bốn trăm quan, đông tây
bốn bên đúng như trong khế. Nay đem dâng cúng cho Hòa thượng bổn
sư Thiên Quang chùa Linh Sơn vâng giữ để làm ruộng chùa và trả
phí hương hoả cho cha mẹ thị, để cúng để kỵ, đời đời nối nhau,
ngỏ hầu lâu dài cùng trời đất, trải bể dâu mà không nát. Trước
đi sau tiếp, theo thứ lớp mà mãi truyền. Được như vậy thì song
thân thị thỏa niềm an ủi ở dưới đất, mà mẹ con thị cũng nhận ơn
tế độ tại bến mê.
Do thế, lập tờ đơn này cùng bản
khế gốc, vái giao cho bổn sư chấp chiểu, lưu làm khoán sắt ngàn
muôn năm của bổn chùa, ngày sau con cháu thị không được nói trái
lẽ gì. Nay dâng tờ cúng ruộng, do ruộng một thửa lớn nhỏ hai
mươi bốn hạng. Nay do.
Ngày 12
tháng 7 năm Thành Thái thứ 15 (1903)
Trần Thị Từ pháp danh Như Chí điểm
chỉ
Con ruột
Nguyễn Tấn Khoa thủ ký
Người làm đơn: Phạm Ngũ Giáo tự ký
19.
Văn kiện ngày 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)
Khổ 16 x 26,
gồm 6 tờ giấy bổi đóng bằng chỉ giấy bổi với hai bìa trước sau
màu gạch. Nội dung kêu gọi quyên góp để đúc lại tượng Phật cho
tổ đình Linh Sơn do thiền sư Chơn Hương Thiên Quang thực hiện.
Yết ma hòa thượng chùa Linh Sơn xã
Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Quảng Phước phủ Ninh Hòa
tỉnh Khánh Hòa hiệu Thiên Quang xin lập tờ thiện khuyến:
Hưởng ơn
lành của Phật tổ thì bước nền cũ ở gò cao, qua chỗ yên của người
xưa thì cỡi lấy nhà trên núi. Đã trải mười năm ngóng trông, được
lấy nền hư tại Hiền Lương. Thấy nền đó gặp buổi tranh giành,
nhân lúc gần trưa, trời hè khí hun, về nam gió tạt. Than ôi,
rường cột điện Phật, thảy giao cho một mồi lửa. Cơ đồ thê thảm,
hình tượng cũng trở thành rụi tàn.
Bần tăng há ngồi nhìn, há yên lòng
ư? Do thế, đã nhọc mình đau óc, hết sức chạy lui chạy tới, dựng
lấy một am chùa, vẽ mấy tượng Phật. Thế mà đã một kỷ, trước mây
che khỏi gió mưa. Thế mà đã mười năm, nhờ đó mà công phu nổi
lại.
Nay một gian
chùa am sắp đổ, mỗi nghĩ một mình khó kham. Mấy tượng Phật chưa
đúc, thâm tâm nguyện lớn sao đáp, nên lòng mãi lo âu, chí mãi
trông ngóng. Cho nên, trình bày cầu xin bố thí, khuyên lành
phương xa. Kính mong thạc đức hiền nhân ban ơn, giúp cho cơ đồ
sắp đổ trở lại như xưa.
Kính nghĩ người nhân quân tử ban
ơn, xót những hình tượng đã hư nát, phải phục hồi lại cho rực rỡ
sáng tươi. Như thế thì dòng thơm mãi chảy, phước lớn vô cùng.
Trên bản ghi tên cùng với tháng năm bất tuyệt. Trong bản lưu
chiếu cũng đời đời chẳng thể quên mất. Đại nguyện lòng này đâu
phải trộm thôi, há dám dong dài. Vậy thôi, xin trước bản xem
xét.
Ngày 10
tháng 4 năm Ất Tỵ (1905)
Yết Ma hoà thượng hiệu Thiên Quang
ấn ký.
Lý trưởng xã
Hiền Lương Nguyễn Thông nhận thực ký.
Thủ toạ chùa Long Sơn tỉnh Phú Yên
hiệu Thiên Đạo phụng cúng tiền 2 đồng
Thị tăng
chùa Khánh Long hiệu Minh Khánh phụng cúng tiền 3 đồng
Đoàn Thị Tố phụng cúng tiền 1
đồng.
Thủ toạ chùa
Long Sơn tỉnh Khánh Hoà hiệu Hoằng Thâm phụng cúng 3 đồng.
Nam xương Trần Thị Quyển phụng
cúng tiền 1 đồng
Phạm Văn
Liên thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3 quan
Châu Nam Xương thôn Đông Hải vui
cúng tiền 1 đồng chẳn hiện đã giao
Châu Thành
Huệ vui cúng tiền 5 hào hiện đã giao
Châu Tự Phụng vui cúng tiền 5 hào
hiện đã giao
Châu Lệ Kim
vui cúng tiền 5 hào hịen đã giao
Thôn Đông Hải phụng cúng tiền 3
quan
Phước Điền
cúng tiền 3 quan
Nguyễn Thi Lũ cúng tiền 1 quan
Võ Văn Thống
Trần Văn Viên cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị Thức cúng tiền 1 quan
Lê Thị Cảnh
cúng tiền 5 đồng
Võ Văn Mân thôn Thang Đông tổng
Xương Hà huyện Vĩnh Xương vui cúng tiền 5 hào
Trần Văn
Thắng phụng cúng tiền 2 quan
Nguyễn Thị Cẩn phụng cúng tiền 1
quan
Đặng Văn
Xung phụng cúng tiền 1 quan
Đăng Tiêu Văn Đá phụng cúng tiền 5
xu
Nguyễn Văn
Mao phụng cúng tiền 1 quan
Lữ Thừa Chân phụng cúng 1 đồng
Trần Thị Chi
cúng 4 hào
Nguyễn Văn Chu, Lê Thị Quyên cúng
tiền 1 đồng
Thông sự
Quan Dụ Phước vui cúng 5 hào
Nguyễn Văn nên thôn Đông Hải phụng
cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền
Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Trần Văn Tuy thôn Đông Hải phụng
cúng tiền 2 quan
Chùa Hiền
Lương chùa Khánh Long phụng cúng
Lê Văn Tung thôn Phú Thọ phụng
cúng chùa Khánh Hoà tiền 1 đồng Tung tự ký
Nguyễn Thị
Tuyệt thôn Phú Thọ cúng tiền 1 hào
Lê Thị Thử thôn Phú Thọ cúng tiền 6 hào
Lê Văn Dài thôn Phú Thọ cúng tiền 1 đồng Dài tự ký
Lê Quang Trạch thôn Như Đàm cúng tiền 5 hào
Nguyễn Văn Phụng thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyễn Du thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyên chánh tổng Nguyễn Phú Xuân thôn Phú Thọ cúng tiền 4 hào
Nguyên tri hương Lê Thoả thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào
hiện đã giao
Cựu xã phó Đặng Văn Phỉ thôn Bạch Hà cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Nguyên thủ bổn Đổ Văn Xa thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Lương Khai Hoà thôn Bá Hà phụng cúng tiền 3 quan
Chùa Hiền Lương, chùa Khánh Long phụng cúng
Nguyên Nguyễn Văn Hạnh thôn Bình Tây phụng cúng tiền 4 hào hiện
đã giao
Chánh tổng Lê Thiện tổng Hà Ngoại phụng cúng tiền 5 hào tự ký
20. Văn kiện ngày 6 tháng 6 năm
Khải Định thứ 2 (1917).
Khổ 16 x 30,
gồm 8 tờ đóng lại bằng chỉ giấy bổi 2 bìa trước sau màu gạch.
Nội dung viết bằng chữ Nho mực tàu, đề cập đến việc quyên tiền
sửa chùa Linh Sơn. Giữa các tờ đều có đóng dấu giáp lai của Xã
Hiền Lương.
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn
xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hoà tỉnh Khánh Hoà
hiệu Thiên Quang cùng với hộ chủ Trần Như Trí cúi trình việc
khuyên phát tâm trùng tu sau:
Hưởng hồng
ân Phật tổ thì đền chùa phải nguy nga, trải dựng xây mấy phen
thì bao lần trao đổi chịu nhiều năm mưa gió thì nay xem nó thấy
nát hư. Há yên lòng mà ngồi xem, chẳng mù mắt mà tìm thấy. Do
thế, lòng mãi lo âu, chí mãi nhắm tới. Mỗi muốn trùng tu, mà
nghĩ một cây không thể chống được nhà lớn. Khó kham một mình nên
mong chắp lớp ngõ hầu dệt nên áo cừu. Đã vậy, phải nhọc lòng vắt
óc, đâu từ hết sức bôn ba, vì để rộng cầu bố thí, khuyên lành
phương xa.
Kính nghĩ đại đức ban ơn, giúp cho
chùa đền sắp nổi. Kính mong người nhân ra huệ, dựng lại rường
cột cho vút cao. Để có thể ở, để có thể trụ, mà thấy được nó rực
rỡ lại và tươi sáng thêm thì ngõ hầu bỏ cũ dựng mới, cùng vung
tên thơm vào nơi bất hủ, làm sáng đời trước, để ơn lớp sau, cùng
gội phước lớn đến vô cùng. Đó cúng là ý của người lành giống với
bần nạp. Cho nên, dám nhắm tới quý vị mong được lượng cao. Nay
vâng có lời khuyến.
Ngày 6 tháng
6 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Tăng là hoà thượng Thiên Quang cúi
trình ký
Bổn xã đồng
ký ( có đóng dấu xã Hiền Lương)
Tăng bổn chùa cúng tiền 50 đồng
(do nguyên cai Cung xã Vinh Huềø cúng bổn sư để lại sau xây bảo
tháp, vì thiếu, dùng tiền này vá vào, việc xong, nay do đó)
Bổn xã hộ
chủ Trần Văn Chu pháp danh Như Trí thủ ký phụng cúng tiền 50
đồng
Nguyên thông ngôn Thương chánh
Nguyễn Phổ vái cúng tiền 4 hào hiện đã giao
Chùa Trùng
Khánh hiệu Chơn Niệm hoà thượng hộ niệm phụng cúng tiền 5 đồng,
việc rồi vâng nhận ký rõ
Yết ma hoà thượng chùa Phước Điền
chùa Như Pháp phụng cúng tiền 2 đồng tự ký
Trú trì chùa
Long Thạnh hiệu Hoằng Ứng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
ký
Trương Thị Thọ phụng cúng 3 quan
tiền ký hiện đã giao
Mai Văn Đoài
thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 3 hào hiện đã giao
Vợ chồng phó lý trưởng Nguyễn Tham
xã Phú Gia tổng Phước Thiện phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bần tăng
chùa Kim Quy hiệu Tứ Đức cúng tiền 1 đồng
Thẩm Hương Hiệu và con ruột Thẩm
Vinh, Thẩm Thơ phụng cúng 3 quan hiện đã giao
Lê Công Dụng
xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 quan hiện đã giao
Tri hương Phan Thuỵ xã Phú Gia
cúng tiền 4 hào
Thủ sắc
Nguyễn Tập xã Phú Gia cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Cựu tri hương Đắc xã Phú Gia phụng
cúng 5 hào, hiện đã giao 5 hào ký
Hương trưởng
Lê Muộn xã Phú Gia phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao ký
Phạm Văn Trực xã Phước Thủy phụng
cúng tiền 3 quan tự ký
Lý trưởng
Phạm Ngọc Điển phụng cúng tiền 1 đồng tự ký
Sương phụ Bùi Thị Thoả xã Hiền
Lương phụng cúng tiền 30 quan ký
Giáo thọ
chùa cổ tích Long Sơn hiệu Hoằng Thâm phụng cúng cây gỗ
Đinh Chơn Hậu cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị
Hoa pháp danh Thị Liên cúng tiền 20 quan, lúa 30 đấu
Giám tự chùa cổ tích Long Sơn
Nguyễn Vô Vi phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao
Tri sự chùa
cổ tích Long Sơn hiệu Quảng Đức phụng cúng tiền 2 hào
Tục nhân chùa Báûo Ân phụng cúng
tiêu đen 10 đấu
Hương chủ Hồ
Văn Sồi xã Xuân tự cúng tiền 15 quan
Võ Thị Cầm xã Mỹ Đồng cúng tiền 30
quan
Đội trưởng
Hoàng xã Long Hòa phụng cúng tiền 2 đồng
Đồng Hoài Ứng xã Vinh Huề cúng nếp
1 ang
Hoàng Văn
Giao xã Vinh Huề ưng cúng tiền 1 quan 5 hào
Phạm Như Diệu phụng cúng tiền 5
đồng
Trú trì tăng
chùa Phước Long Quan Đông hiệu Giác Khánh phụng cúng tiền 1
đồng
Hồ Thị Lưới xã Quan Đông phụng
cúng tiền 3 quan
Đệ tử Hồ Thị
Đổ pháp danh Thị Tiến bổn đạo chùa Long Sơn phụng cúng tiền 3
quan
Lữ Thị Giao pháp danh Thị Sơ phụng
cúng tiền 3 quan
Phan Thị Sao
phụng cúng tiền 20 quan
Cai tri Chương ngụ xã Vinh Huề
phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Thủ bộ Ngô
Tương xã Phú Cang cúng tiền 1 quan 5 hào hiện đã giao
Phụ nhân Phạm Thị Chạy thôn Hải
Triều phụng cúng 3 quan, con ruột tự ký
Trần Văn Nao
thôn Hải Triều phụng cúng tiền 1 quan
Xã Quảng Hội phụng cúng tiền 1
quan, Võ Văn Xuân thủ ký
Cựu thủ sắc
Phan Văn Thái xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 xu
Bát phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Tương
phụng cúng tiền 4 đồng hiện đã giao
Cựu lý
trưởng Vị xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Mười Bông ngụ xã Hiền Lương phụng
cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Bá hộ Lê Đức
thôn Xuân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Phạm Thị Nghĩa xã Vinh Huề phụng
cúng tiền 1 đồng hiện đã giao
Chánh bát
phẩm Ngô Quang xã Trung Dõng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã
giao
Cựu lý trưởng Nguyễn Khải thôn Phú
Hội phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
Huỳnh Trước
thôn Phú Thọ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Lê Văn Thơ thôn Sơn Định phụng
cúng tiền 3 quan hiện đã giao
Phan Thị
Sanh thôn Sơn Định phụng cúng tiền 3 quan hiện giao
Vợ chồng nguyên dịch thừa Nguyễn
Thuận xã Tân Phước phụng cúng tiền 6 quan hiện giao ký
Nam mô A Di
Đà Phật, bần tăng Vạn Minh chùa Giác Hoa vái dâng tiền 6 quan
ký
Nguyễn Văn Niên xã Thạch Thành
phụng cúng tiền 6 quan hiện đã giao
Vợ chồng cựu
trùm trưởng Nguyễn Văn Kỳ phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao.
Vợ chồng binh Nguyễn Văn Nam xóm
Phú Hòa thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 3 quan hiện đã giao ký
21. Văn kiện ngày 4 tháng 11
năm Khải Định thứ 2 (1917)
Khổ 13.5 x 21. Chỉ là một bản sao
trên một tờ giấy bổi láng, đóng chung vào một tập với 6 văn kiện
khác. Bản sao do thiền sư Tâm Thanh Tịch Tràng lúc ấy trú trì
chùa Linh Sơn chép vào ngày 15 tháng 5 năm 1958, có chứng thực
của Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương vào ngày 3 tháng 6 năm 1958
và khán duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa vào
ngày 30 tháng 9 năm 1958, tất cả đều có đóng dấu.
Vợ chồng lão
Trần Văn Cho xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa nay
lập tờ phụng cúng ruộng lúa, việc như sau:
Vợ chồng lão tạo mãi còn có điền
sản, cũng hưởng được ơn tôn vinh trông cậy phù trì. Nay thiết
nghĩ vợ chồng lão thành tâm Phật pháp, may được an khang, không
có vật gì để lại ngàn năm, nhằm đáp ơn hương hỏa. Lão đồng ý
trích lấy ruộng lúa hai nơi (ruộng Bàu Gia 4 sào cùng ruộng
trong Đồng Bé 3 sào) dâng cúng vào chùa Linh Sơn, hòa thượng bảo
hiệu Thiên Quang nhận canh vĩnh viễn, đợi cho vợ chồng lão tịch
cốc theo tiên, xin ghi bài vị. Nếu sau này đám con trái lời thì
chịu tội. Đây là tờ dâng cúng (cùng ruộng Bàu Gia, ruộng lớn nhỏ
sáu khoảnh, lại ruộng Đồng Bé hai khoảnh)
Ngày 4 tháng
11 năm Khải Định thứ 2 (1917)
Chứng kiến: Lý trưởng Hồ Văn Nghị
nhận ký
Lão Trần Văn
Cho điểm chỉ
Vợ Ngô Thị Xung điểm chỉ
Viết thế tờ
đơn: Cao Xuân Sanh tự ký
22. Văn kiện ngày 24 tháng 12 năm
Khải Định thứ 2 ( 1917).
Khổ 16 x 29
gồm 3 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Mỗi tờ 2 trang a
và b. Trang 1a có đề chữ Hán văn văn bằng. Trang 2a viết nội
dung văn kiện đề cập việc xin trùng tu chùa. Trang 2b có đóng
dấu Ninh Hòa phủ ấn và lời phê của tri phủ Ninh Hòa có bốn dấu
triện vuông đề chữ Ninh Hòa. Giữa trang 2b và 3a có đóng giáp
lai dấu triện vuông Ninh Hòa và dấu xã Hiền Lương.
Tăng là hòa thượng Phạm Thiên
Quang chùa Linh Sơn xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh
Hòa khấu đầu xin trình việc trùng tu chùa Phật như sau:
Tăng từ lâu
đã đến ở chùa Linh Sơn (tại địa phận xã Hiền Lương) quy y. Nhân
chùa nầy xây dựng đã lâu, nay đã hư nát, không còn chịu nỗi gió
mưa. Tăng thấy vậy đau lòng, bèn dám cúi xin quan phủ đường đại
nhân xét thương ra văn phê cho làm bằng, giúp tăng chúng được
xây dựng lại ngôi Phật đường, hầu khỏi phải nỗi khổ hương tàn
khói lạnh. Muôn lần trông nhờ. Nay khấu đầu trình.
Ngày 24 tháng 12 năm Khải Định thứ
2 (1917)
Hòa thượng
Phạm Thiên Quang thủ ký
Đệ tử Phạm Hoằng Chất vái ký
Bổn xã đồng
vái ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Lý trưởng Nguyễn Xung nhận ký (có
dấu xã Hiền Lương)
(Lời phê của
tri phủ):
Xuất của ra làm thì được, nếu mượn
vay riêng thì trị tội nặng, đừng trách.
23.
Văn kiện ngày 20 tháng giêng năm Khải Định thứ 5 (1920)
Khổ 19 x 24.
Gồm 8 tờ giấy bổi trắng đóng lại bằng chỉ giấy bổi với 2 bìa màu
gạch trước sau. Mỗi tờ 2 trang a và b. Từ trang 2b cho đến trang
8a đều có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương, dù có những trang
không viết chữ nào như 2 tờ 7 và 8. Đây là một quyển sổ quyên
tiền để đúc tượng Tam thế cho tổ đình Linh Sơn do tổ Thiên Quang
thực hiện.
Thiền hòa chùa Linh Sơn xã Hiền
Lương tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu
Thiên Quang cúi trình khuyên phát tâm trùng tu việc Phật như
sau:
Ở chùa của
thiền hòa, chùa này tương đối mười phần đầy đủ, chỉ trên điện
báu vàng chưa có Tam thế từ tôn mấy tượng thánh ông còn thiếu.
Thâm tâm đại nguyện là muốn làm sao để đáp đền trong khám ngọc
vẫn còn thiếu diệu tướng. Đêm thanh bái sám, trông lên không có
chổ làm bằng. Ngày sáng đốt hương nghĩ hào quang mà cảm vắng.
Nay điêu khắc đúc tô hình tượng
Phật thánh, mà bổn chùa đáp ứng rất thiếu. Hễ một tay thì khó mà
làm nỗi. Vì thế, lòng mãi lo âu, chí lâu nhắm tới, chỉ mong giải
bày tìm lấy bố thí, khuyên lành phương xa. Kính mong người nhân
quân tử ban ơn thương hình tượng Phật thánh ấy, muốn thấy rực rỡ
lại để tươi sáng thêm. Đó tức là thơm lâu mãi mãi, phước lớn vô
cùng. Xin xét lời này thì khôn xiết mong đáp đại nguyện.
Nay kính
Ngày 20 tháng giêng năm Khải Định
thứ 5 (1920)
Bổn xã đồng
ký (có dấu của xã Hiền Lương)
Lão nhiêu Trần Văn Chu điểm chỉ,
phụng cúng tiền ? đồng
Lý trưởng Hồ
Văn Nghị phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Công thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu thủ sắc Thủ thủ ký, phụng cúng tiền 6 quan
Cựu lý trưởng Thống thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Hữu Thụy thủ ký phụng cúng tiền 5 hào
Cựu lý trưởng Nguyễn Thông thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Khắc Minh thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Hữu Đức thủ ký hiện phụng cúng tiền 1 đồng
Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở chánh cửu phẩm văn giai Trần Chư thủ
ký, phụng cúng tiền 10 đồng hiện đưa
Nha Trang khẩn Xuân Sơn sở dật sĩ Trần Tường ký, phụng cúng tiền
1 đồng hiện đưa
Huỳnh Văn Vu thủ ký, Xuân Tự cúng tiền 1 đồng
Cựu lý trưởng Nguyễn Tấn Hựu thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng hiện
có
Cựu hương trưởng Lê Văn Dần phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký
Cựu thí sanh Nguyễn Trọng Cảnh ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Thủ sắc Nguyễn Hương xã Quảng Tân cúng tiền 1 đồng
Bùi Thị Thỏa phụng cúng tiền 2 đồng
Vợ Trần Thị Bền cúng tiền 5 hào
Nguyễn Văn Vạn phụng cúng tiền 5 hào
Trần Văn Thâm cúng tiền 2 hào
Trần Văn Sự (pháp danh) Như Sanh cúng tiền 1 đồng hiện có
Nguyễn Thị Xuyên cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Nhạc cúng tiền 3 đồng hiện có
Ngô Văn Lực xã Phước Thủy cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Đài cúng tiền 1 đồng hiện có
Hương trưởng Nguyễn Thắng xã Phước Thủy cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Thị Sành cúng tiền 1 đồng hiện có
Vợ Phạm Thị Truyền cúng tiền (cho?) chồng
Nguyễn Thành Long cúng tiền 1 đồng hiện có
Huỳnh Chấn (xã) Quảng Tân cúng tiền 4 quan
Nguyễn Thị Chu cúng tiền 1 đồng hiện có
Cựu lý trưởng Nguyễn Lâu (xã) Quảng Tân phụng cúng cùng vợ chồng
tiền 1 đồng, vợ Thị Đường Thị An, chưa (đưa)
Nguyễn Thị Mau cúng tiền 1 đồng hiện có
Vợ chồng giáp trưởng Nguyễn Hậu (xã) Quảng Tân cùng cúng tiền 5
hào chưa (đưa)
Cô phó tổng cúng tiền 2 đồng hiện có
Cai tri Trần Tình cúng tiền 8 quan
Lữ Thị Giao phụng cúng tiền 2 đồng hiện có
Nguyễn Thị Thuỵ (xã) Quảng Tân cúng 1 quan 5 tiền
Huỳnh Thị Nhàn cúng tiền 1 đồng hiện có
Tri hương Đổ Bính cúng tiền 1 đồng
Nguyễn Văn Giới cúng tiền 1 đồng hiện có
Cựu đội trưởng Mai Văn Chữ (xã) Hiền Lương cúng tiền 3 quan
Nguyễn Thị Kiêm cúng tiền 1 quan
Hồ Văn Quyền (xã) Mỹ Tương cúng tiền 2 quan
Trần Thị Trạch (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
Vợ chồng Lê Văn Luận (xã ) Mỹ Đồng cúng tiền 2 quan
Võ Thị Niệm (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 3 quan
Phạm Thị Chỉ cúng tiền 1 quan
Phạm Văn Thông (xã) Mỹ Đồng cúng tiền 5 hào
Tri bộ Nguyễn Hữu Tạo xã Hiền Lương cúng tiền 5 hào thủ ký
Nguyễn Trung Lương (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 hào
Trần Văn Lai (xã) Xuân Tự cúng 1 quan 5
Huỳnh Văn Tử 1 đồng
Trần Văn Chi cúng tiền 2 hào và vợ Thị Đệ cúng tiền 3 quan
Lê Văn Mô xã Hiền Lương cúng tiền 3 quan
Xuân Tự xã phụng cúng tiền 2 đồng
Phó tổng dụng Hồ Văn Chỉ phụng ký
Cựu lý trưởng Nguyễn Văn Vị (xã) Mỹ Đồng phụng cúng tiền 3 quan
Hồ Văn Ẩn xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng
Trịnh Văn Đốn thôn Đông Hải phụng cúng tiền 1 đồng
24. Văn kiện ngày 12 tháng 2 năm
Bảo Đại thứ 4 (1929)
Khổ 21 x 27.
Chỉ là một bản sao trên giấy trắng do thiền sư Tâm Thanh Tịch
Tràng thực hiện ngày 15 tháng 5 năm 1958, lúc đang làm trú trì
chùa Linh Sơn, rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng
thực ngày 3 tháng 6 năm 1958 và Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo
Khánh Hòa khán duyệt ngày 30 tháng 9 năm 1958. Đây là văn kiện
bán 6 mẫu ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu cho vợ chồng ông Phan
Quang Đức. Vì sau nầy bà vợ của ông Phan Quang Đức là bà Nguyễn
Thị Thành đã đem 6 mẫu ruộng đó cúng cho tổ đình Linh Sơn, nên
giấy bán ruộng của bà Huỳnh Thị Điểu vào ngày 12 tháng 2 năm Bảo
Đại thứ 4 (1929) và nhập vào hồ sơ giấy tờ ruộng đất của tổ
đình.
Huỳnh Thị Điểu thôn Tân Đức tổng
Phước Tường nội phủ Ninh Hòa đã lập tờ bán đứt ruộng tư sự việc
như sau:
Có một thửa ruộng tư toạ lạc
tại địa phận xã Phước Thủy (xứ Khu đá, tục gọi là xứ Bàu
Vịt), đóng thuế 6 mẫu (hạng 3 ba mẫu, hạng tư ba mẫu), đạc
thừa một mẫu, cộng thành bảy mẫu, đông giáp đất mộ, lại giáp
miếu, tây giáp ruộng tư của Lê Văn Nam, nay là Lê Mại, nam
giáp rừng, lại giáp đường nước và đường trâu bò, bắc giáp
cây mây, lại giáp đường nhỏ, bốn phía giáp ranh đúng như
trong đơn.
Nay dân đem ruộng đó, bán đứt cho
người ngụ xã Hiền Lương là vợ chồng ông Phan Quang Đức ưng mua
ruộng đó với giá tiền phải trả là tám trăm năm mươi đồng chẳn.
Ngày lập khế ước giao nhận tiền xong, thì thửa ruộng mua đó, chủ
mua canh tác, giữ làm của mình vĩnh viễn. Nếu có người nào tranh
chấp cản trở thì tự mình chịu bồi thường. Vì thế, nay viết tờ
giấy bán đất.
Ngày 12
tháng 2 năm Bảo Đại thứ 4 (1928)
Lý trưởng xã Phước Thủy sở tại là
Ngô Lực nhận thực ký, có đóng dấu.
Huỳnh Thị
Điểu điểm chỉ
Người viết đơn: Nguyễn Quý tự ký
25.
Văn kiện ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại thứ 5 (1930).
Khổ 16 x 29.
Gồm 6 tờ giấy bổi trắng, đóng bằng chỉ giấy bổi với một bìa
trước màu gạch. Văn kiện viết hoàn toàn chữ Nho, có đóng dấu
giáp lai của xã Hiền Lương giữa các tờ 2 và 3, 4 và 5. Nội dung
quyên tiền xây tháp cho thiền sư Thiên Quang vào năm 1930.
Đệ tử chùa Linh Sơn xã Hiền Lương
tổng Phước Tường nội phủ Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa hiệu Hoằng
Nguyện cùng chúng lục hòa vái trình sự việc xin phát tâm sùng tu
bảo tháp như sau:
Mãng nghe bốn đại đều không,
bỏ trí tuệ vô tư của Phật ta thì sáu căn muốn dứt, không Bồ
đề thì thiếu sự tu trì đó. Kính nghĩ bổn sư của chúng đệ tử
là hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang thượng nhân lúc
thiếu thời mộ đạo xuất gia, tham thiền nhập định, giới nhận
sa môn, thành chánh quả Phật, trong có đức trí nuôi chứa,
ngoài có hạnh đẹp rõ ràng. Cửa mở trí thông, bàn cơ huyền
của đạo tối thượng, nhà vào từ bi giảng pháp diệu của dụng
vô vi. Không biết trải qua bao bể dâu mới có ngày hôm nay.
Chúng tôi những nghĩ đời người
như sương xuân móc thu, chốc lát thì tan, như cây bờ dây
giếng, há được dài lâu, nếu không lo việc từ trước, e lại
phải hối về sau. Cho nên, nay bổn sư của chúng đệ tử, tuổi
quá sáu mươi, mình đã run rẩy, tuy mang sắc vẻ của tùng bách
không sợ gì nương dâu cảnh xế, nhưng một mai bỗng phải viên
tịch, cả thế giới còn có hạt cải để dấu bao thì việc nghìn
thu nhất định phải có nơi bằng cứ để vùi lấy kiếp trần vào
chốn tam muội diệt tận. Chúng đệ tử thảy đều thầy tu nghèo,
rất sợ điều đó.
Thiết nghĩ dựng nhà lớn không
phải một cây mà làm được, dệt áo cừu chẳng phải lông của một
con cáo mà thành ra, bèn dám tập hợp vái xin, lập làm một tờ
quyên góp, nói rõ cùng lý hào sở tại cho họ chứng ký. Rồi
riêng đi khắp mười phương, kính trình các thiện nam tín nữ,
ánh tuệ duỗi soi, lượng biển rộng mở, cùng trồng ruộng
phước, ít nhiều dự vào, để giúp bảo tháp nơi tàng chứa chân
thân ngàn ức năm của bổn sư chúng đệ tử, hầu được tháp nền
vút cao, cây báu um tốt, hoa điềm lành nở đẹp, đất Hiền
lương ánh tươi. Ấy sắc ấy không, ngộ được bồ đề không cây.
Bất sanh bất diệt, hiểu rõ gương sáng chẳng đài. Về sau,
chúng đệ tử và thiện tín, một là y bát chân truyền, hai là
đàn na chứng quả, cùng gội mưa pháp, khí thiêng sông Lệ mãi
xuôi, cùng trông mây từ, màu núi non Trì tự tại.
Có bao nhiêu thiện tín ban ơn, xin
đem quê quán tự hiệu, ghi vào sổ quyên, đợi khi việc xây tháp
xong xuôi, xin chép vào bảng để truyền bất hủ. Đây là lời kính
quyên góp để xây tháp.
Mồng mười
tháng ba năm nay khởi công
Ngày mồng 9 tháng 12 năm Bảo Đại
thứ 5 (1930)
Lý trưởng sở
tại Trần Đoan nhận chứng ký (có đóng dấu xã Hiền Lương)
Đệ tử chùa Linh sơn hiệu Hoằng
Nguyện vâng vái ký
Chùa Thiên
Bửu (thượng) phụng cúng tiền xây bảo tháp 1 đồng, hòa thượng
hiệu Phước Tường ký
Đệ tử Trần Như Trí và thất trung
(vợ) Ngô Như Huệ phụng cúng tiền bảo tháp 50 đồng
Chánh cửu
phẩm Trần Lự thủ ký, phụng cúng tiền 1 đồng
Đệ tử bổn chùa Phùng Như Chi
nguyện cúng tiền 10 đồng
Đệ tử chùa
Linh Sơn Nguyễn Như Lãng nguyện cúng tiền 15 đồng
Chùa Thiền Lâm phụng cúng tiền xây
bảo tháp 5 hào, trú trì đệ tử Nguyễn Hiệu thủ ký
Đệ tử Nguyễn
Như Cảm phụng cúng tiền bảo tháp 40 đồng ký
Đệ tử Nguyễn Như Đăng phụng cúng
tiền bảo tháp 5 đồng ký
Ngô Thị Vện
cúng tiền 2 đồng ký
Đệ tử Phạm Như Diệu thôn Hội Khánh
ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 20 đồng
Đệ tử Huỳnh
Như Thái xã Long Hòa ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10
đồng
Đệ tử Như Nghi, Như Thật, bào tỷ
Nguyễn Thị Cảm đồng ký, phụng cúng tiền xây tháp bổn sư 10 đồng
Đệ tử Huỳnh
Như Năng qui y chùa Linh Sơn phụng cúng tiền 5 đồng chẳn ký
Đệ tử chùa Linh Sơn Bùi Như Nhàn,
thất trung Nguyễn Như Chánh phụng cúng tiền xây tháp 20 đồng ký
Đệ tử chùa
Linh Sơn Nguyễn Như Sanh phụng cúng tiền 1 đồng ký
Đệ tử chùa Linh Sơn Nguyễn Đức
pháp danh Như Tài, Lê Thị Việt pháp danh Như Thừa phụng cúng
tiền 10 đồng thủ ký
Chánh bát
phẩm Nguyễn Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 10 đồng xây tháp, nay
vâng thừa ký
Đệ tử chùa Linh Sơn pháp danh
Nguyễn Như Xuân phụng cúng tiền 2 đồng ký
Đệ tử Nguyễn
Như Hữu phụng cúng tiền bảo tháp 5 đồng ký
Đệ tử pháp danh Như Hóa Huỳnh
Trọng Hối phụng cúng 2 đồng ký
26.
Văn kiện ngày 15 tháng 7 năm Bảo Đại 11 ( 1935)
Khổ 13.5 x
21. Gồm 2 tờ giấy bổi láng, đóng chung với 6 văn kiện ruộng đất
khác của tổ đình Linh Sơn. Đây chỉ là 1 bản sao do thiền sư Tâm
Thanh Tịch Tràng sao y bản chánh vào ngày 15 tháng 5 năm 1958,
lúc đang làm trú trì tổ đình Linh Sơn, có chứng thực của Đại
diện Hội đồng xã Vạn Lương ngày 3 tháng 6 và khán duyệt của Ban
trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 cùng năm.
Nội dung đề cập đến việc cúng ruộng của vợ chồng ông bát phẩm
Nguyễn Khoa làng Mỹ Đồng ở Vạn Ninh vào năm 1935 cho tổ đình
Linh Sơn.
Vợ chồng bát
phẩm Nguyễn Khoa xã Mỹ Đồng tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh
xin lập tờ đặt ruộng linh sự việc như sau:
Vợ chồng (lão) nhiêu ân cần
sáng tạo ruộng mầu, tuy bảo nhờ đức trạch của tiên tổ mà có
ra, nhưng thật sự là nhờ Phật trời giúp ban mà tới được
phước vậy. Thiết nghĩ ơn lặng giúp của Tam Bảo chưa chút báo
đền. Vì thế, nay tình nguyện đem một thửa ruộng tư mua được
này dâng cúng cho hòa thượng chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang
và các vị trú trì đến sau được truyền lại nhận quản lý cúng
kỵ, đặt làm ruộng linh, truyền nhau đời đời cho được tiện
nghi.
Lão nhiêu phụng đặt bài vị
tiên linh (tên họ ngày kỵ liệt ra ở trong bài vị) ở chùa
hằng năm hoa quả kỵ chạp, để báo đền ơn trạch vô cùng của
tiên linh cho đời sau. Còn bao nhiêu thì để chi dụng việc
Phật, có lý hào xã Hiền Lương sở tại nhận ký xác minh đầy
đủ.
Đơn này chép thành 2 bản. (Một bản
phụng giao cho chùa và các loại đơn khế cũ mới của ruộng đó. Một
bản lão nhiêu giữ làm lưu chiểu) ngày sau con cháu trai gái của
lão nhiêu không được nói trái, nếu có lẽ gì thì chịu tội. Nay
phụng cúng tờ đơn:
1. Nguyện cúng ruộng tư, vì để
đặt ruộng linh bốn mẫu toạ lạc tại địa phận xã Quảng Tân xứ
Khẩu Gia, đông giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa Nguyễn Số, tây
giáp ruộng tư của Nguyễn Khoa, nam giáp ruộng tư của Nguyễn
Ứng, bắc giáp đường nước. Ruộng hạng nhất 1 mẫu, hạng nhì 3
mẫu. Đơn khế cũ mới và bản vẽ bảy trương, một bản toà án do
Tây ghi lại đóng thành một tập, đều giao cho chùa Linh Sơn
nhận giữ chấp chiểu.
2. Phụng đặt bài vị tiên linh tại
chùa, hằng năm kỵ chạp, con cháu đều đến chùa hầu lạy, cầu nhờ
ơn Phật cho siêu độ.
Ngày 15
tháng 7 năm Bảo Đại 11 (1935)
Bổn xã đồng ký
Chánh cửu
phẩm đội trưởng Trần Lự thủ ký
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Cảnh thủ ký
Hòa thượng
chùa Linh Sơn hiệu Thiên Quang nhận đặt ruộng linh ký
Lý trưởng xã Hiền Lương Trần Ứng
Long ký
Bát phẩm
Nguyễn Khoa thủ ký
Vợ Thị Cầm áp chỉ
Người vâng
chép đơn thế: đệ tử Trần Thoả pháp danh Đồng Minh tự ký
27. Văn kiện ngày 7 tháng 4 năm
Canh Dần (1950)
Khổ 21 x 27.
Chỉ một bản sao trên 2 tờ giấy manh bằng chữ quốc ngữ do thiền
sư Tâm Thanh Tịch Tràng thực hiện vào ngày 15 tháng 5 năm 1958,
rồi được Đại diện Hội đồng xã Vạn Lương chứng thực vào ngày mồng
3 tháng 6 cùng năm và kháng duyệt của Ban trị sự tỉnh hội Phật
giáo Khánh Hòa ngày 30 tháng 9 năm đó. Nội dung đề cập đến việc
cúng cho tổ đình Linh Sơn sáu mẫu ruộng, mà bà Nguyễn Thị Thành
cùng chồng là ông Phan Quang Đức mua lại của bà Huỳnh Thị Điểu
trong văn kiện số 8 trên. Khi cho đánh máy lại văn kiện này,
chúng tôi vẫn giữ nguyên cách viết chữ quốc ngữ của nó. Những
chữ cần phải sửa lại cho đúng cách viết chuẩn ngày nay, chúng
tôi để những chữ ấy vào trong ngoặc đơn. Thí dụ, chữ diều thì
ngày nay phải viết dìu, chúng tôi để chữ dìu trong ngoặc ( ).
Nam mô Thập phương Thường trú Tam
Bảo
Kính bạch
Bổn Sư Đại Đức trú trì chùa Linh Sơn
Kính bạch hiện tiền đại chúng
Đệ tử là
Nguyễn Thị Thành thọ ưu bà di giới, pháp danh Như Trung, bổn đạo
chùa Linh Sơn.
Nhờ ơn Thập phương thường trú Tam
Bảo, hiện tiền Bổn sư trú trì và đại chúng từ bi chứng minh có
đệ tử những lời nguyện vọng như sau:
Thân người
khó đặng, pháp Phật khó nghe, đệ tử trước đã sẵn gieo căn lành
phước đức chút ít nay mới được làm người mà lại nhờ thầy truyền
thọ cho pháp Tam quy, Ngũ giới và thiện trí thức diều (dìu) dẫn
cho theo con đường sáng suốt của Phật là nơi an nhàn giải thoát,
thiệt là hạnh phúc biết bao nhiêu. Đệ tử hằng đội tứ ân không
biết lấy gì đền đáp trong muôn một, trộm nghĩ rằng:
Chùa là nơi phụng sự Tam bảo, là
nơi tiếp tăng độ chúng, là cơ quan hoằng hoá đạo đức, nếu của
thường trú không có được cho dồi dào thì sự duy trì khó được
trang nghiêm bền bỉ mà phần đạo đức khó bề phát triển cho phổ
thông. Ngôi Tam Bảo không bền bỉ, đạo đức không phổ thông thì
chúng sanh mãi mãi về sau trong đêm trường tăm tối biết làm sao
thấy đặng ánh quang minh của Phật, biết do đâu mà tìm nơi giải
thoát, nên đệ tử trước kia cùng chồng là Phan Quang Đức có tạo
được một sở ruộng tục danh là Bầu Vịt rộng được sáu mẫu, thuộc
về địa phận làng Phước Thủy, nay đồng lòng với con trai là Phan
Vu Huợt nguyện đem cúng vào chùa Linh Sơn làm ruộng Tam Bảo đời
đời thường trụ.
Sau đây
nguyện nhờ ơn thầy và đại chúng từ bi cho đệ tử qui bài vị quyến
thuộc quá vãng của đệ tử trí đời đời tại chùa Linh Sơn để nhờ ơn
chú nguyện của Tam Bảo trong những ngày huý kỵ của tiên linh có
tên trong ấy.
Phật pháp còn thì chùa còn, chùa
còn thì ruộng đất còn, ruộng đất còn thì tăng chúng còn có chỗ
tu học; Tăng chúng có tu học thì còn có người ra đảm đương hoằng
pháp lợi sanh.
Đệ tử nguyện
cùng pháp giới hữu tình nhờ duyên lành nầy ai nấy đều đặng vãng
sanh Tây phương, đồng thành chánh giác.
Nam mô Thập phương thường trú Tam
Bảo tát ( tác) đại chứng minh.
Linh Sơn tự Đại đức trú trì
chứng minh
Tân Đức ngày mồng 7 tháng 4 năm
Canh Dần (1950)
Đệ tử thọ Ưu bà di giới Nguyễn Thị
Thành pháp danh Như Trung kính bạch
Con trai là Phan Vu Huợt tuỳ hỷ tự
ký
Tân Đức xã
lý trưởng nhận thiệt ký
Lý trưởng vắng mặt, hương bộ được
quyền chứng. Tên ký không rõ, đóng dấu
Lý trưởng
Hiền Lương nhận thiệt cho bà Nguyễn Thị Thành hảo tâm phụng cúng
cấp sở ruộng cho chùa Linh Sơn duỷ (dĩ) hưởng duỷ (dĩ) tự chư
linh
Ký tên không rõ, đóng dấu
CHƯƠNG IV
MẤY
NHẬN XÉT
Thông qua 27 văn kiện vừa công bố
trên, trong đó có 14 văn kiện trực tiếp liên hệ đến Bồ tát Quảng
Đức, chúng ta rút ra mấy nhận xét sau:
Thứ nhất,
đối với Bồ tát Quảng Đức, kể từ lúc xuất gia vào khoảng năm 1904
cho đến trước năm 1945, trong hơn 40 năm này, ngoài thời gian
còn nhỏ, bồ tát đã có những hoạt động Phật sự rất sớm. Chẳng
hạn, Văn kiện ngày mồng 6 tháng 6 năm Khải Định thứ 2 (1917),
tức Văn kiện số 20 của Chương III, đã ghi nhận vào thời điểm ấy,
lúc mới 20 tuổi, bồ tát đã giữ chức tri sự của tổ đình Long Sơn.
Tri sự là một chức vụ tương đối quan trọng trong chùa, chỉ đứng
sau vị trú trì hay giám tự, lo quán xuyến đời sống kinh tế của
chùa từ việc ăn uống hằng ngày của tăng chúng cho đến kỵ giỗ tu
sửa xây cất chùa.
Chùa Long
Sơn lúc ấy không phải ngôi chùa nhỏ nằm trong một vùng heo hút
không có người ở. Trái lại, bấy giờ, cũng từ Văn kiện số 20 vừa
nêu, ta biết bổn sư của Bồ tát là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa
Hoằng Thâm đang làm giáo thọ, còn giám tự chùa là thiền sư Vô
Vi. Ngoài ra, căn cứ vào Văn kiện ngày 12 tháng 12 năm Duy Tân
thứ 2 (1907) về việc cúng ruộng của thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa
Hoằng Thâm công bố ở Chương II trên, ta biết tối thiểu chùa Long
Sơn có tới 16 mẫu ruộng phải quản lý. Chắc chắn Bồ tát Quảng Đức
với tư cách tri sự của chùa phải trực tiếp coi sóc 16 mẫu ruộng
vừa nêu, ngay cả khi ta giả thiết Bồ tát đem ruộng cho người làm
mướn.
Sự thật thì
việc đem ruộng chùa cho mướn tại vùng Vạn Ninh vào thời điểm ấy
không xảy ra phổ biến, như ta tưởng. Chỉ cần đọc lại Văn kiện
ngày 10 tháng giêng Bảo Đại 16 (1941), tức Văn kiện số 5, ta
thấy vào thời điểm ấy việc trùng tu tổ đình Linh Sơn thiếu tiền,
Bồ tát Quảng Đức muốn cho mướn ruộng, để lấy thêm tiền chi trả
việc trùng tu, bồ tát phải viết văn kiện ấy để xin quan huyện
Vạn Ninh cho phép. Điều nầy chứng tỏ việc cho mướn để lấy tiền
thu tô không đơn giản chút nào, chùa phải trình cho chính quyền
huyện cho phép mới thực hiện được. Và đó là chưa kể phải thông
qua sự cho phép của chính quyền sở tại là lý hào xã Hiền Lương.
Vì thế, mười sáu mẫu ruộng của chùa Long Sơn thời đó phải được
tri sự chùa Long Sơn là bồ tát Quảng Đức trực tiếp canh tác.
Sau thời
gian làm tri sự chùa Long Sơn, và khi bổn sư Như Đạt Giải Nghĩa
Hoằng Thâm viên tịch vào năm 1921, bồ tát Quảng Đức thọ tang
thầy mình xong, đã đến cầu pháp với thiền sư Thanh Chánh Quảng
Đạt Phước Tường (1867-1932) tại chùa Thiên Bửu (thượng) xã Điềm
Tịnh ở Ninh Hòa khoảng những năm 1925 về sau nếu kể luôn 3 năm
nhập thất tại hòn Núi Đất thôn Mỹ Trạch xã Ninh Hà huyện Ninh
Hòa. Chính vì cầu pháp với thiền sư Thanh Chánh Quảng Đạt Phước
Tường, nên Bồ tát mới có thêm pháp hiệu Nhơn Tri. Nhân đây, cần
nói thêm là sau khi thiền sư Hoằng Thâm viên tịch, một số đệ tử
đã đến cầu pháp với thiền sư Phước Tường, nên có các pháp hiệu
Nhơn Thọ, Nhơn Hoằng, Nhơn Sanh, Nhơn Duệ v.v…
Đến năm
1933, Bồ tát đã đến trùng tu lại chùa Thiên Ân xã Phước Thuận
nay là xã Ninh Đông huyện Ninh Hòa, rồi đến năm 1937 đã làm đơn
xin sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Trước đó, năm 1935, Bồ tát đã đến
khai sơn chùa Thiên Lộc trên đỉnh đồi Núi Đất, như biển chùa
Thiên Lộc đã ghi (hiện đang treo tại chùa Thiên Tứ). Tiếp theo,
sau khi tổ Thiên Hương viên tịch vào đầu năm 1939, bồ tát Quảng
Đức đã được mời về làm trú trì tổ đình Linh sơn. Một loạt văn
kiện do bồ tát Quảng Đức viết để quyên góp cho việc trùng tu tổ
đình Linh Sơn cùng việc xin sắc tứ cho tổ đình đã xuất hiện từ
những năm 1940 đến năm 1944. Không những thế, bồ tát còn đứng ra
mở rộng đất đai của chùa.
Như vậy,
thông qua số văn kiện liên hệ đến Bồ tát Quảng Đức, ta có nhận
thức rõ hơn về các hoạt động Phật sự của Bồ tát trong nửa đầu
thế kỷ XX. Đây là giai đoạn hoạt động hết sức tích cực của Bồ
tát Quảng Đức tại vùng Vạn Ninh cũng như tỉnh Khánh Hòa, mà kết
quả là 14 ngôi chùa đã có những gắn kết với Bồ tát. Theo thống
kê thì trong đời của Bồ tát đã trùng tu và khai sơn 31 ngôi
chùa, trong đó 17 ngôi ở miền Nam và 14 ngôi ở miền Trung. Về 14
ngôi ở miền Trung này, ta hiện đã xác minh được.
Có một chi
tiết mà Văn kiện ngày 12 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937), tức
Văn kiện số 2 ở trên đề cập tới là việc Bồ tát Quảng Đức có gốc
gác là “nguyên tùng cửu phẩm bá hộ cổ tích Thiên Ân tự yết ma”.
Thế thì, tại sao vị Yết ma Quảng Đức của chùa Thiên Ân lại có
chức tùng cửu phẩm bá hộ. Phải chăng để hợp thức hoá việc xuất
gia của Bồ tát Quảng Đức nên thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng
Thâm đã mua cho Bồ tát 1 hàm tùng cửu phẩm văn giai và chức bá
hộ, để khỏi bị sưu dịch ở quê nhà, khi Bồ tát đã đến tuổi trưởng
thành? Điều này còn cần làm rõ thêm trong tương lai.
Để có một
quá trình hoạt động Phật sự tích cực, dẫn cuối cùng đến sự kiện
lịch sử vị pháp thiêu thân ngày 11 tháng 6 năm 1963, tức ngày 20
tháng 4 nhuận năm Quý Mão, bồ tát đã có sự giáo dưỡng tác thành
của thầy tổ, đặc biệt là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm
chùa Long Sơn và tổ Chơn Hương Thiên Quang của tổ đình Linh Sơn.
Qua các văn kiện, từ số 15 đến số 27 công bố trên, ta thấy các
vị thầy tổ này đã có những hoạt động Phật sự tích cực không kém
trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh bảo vệ Phật giáo trong giai
đoạn đất nước đang trải qua cuộc đấu tranh để phục hồi chủ quyền
của đất nước. Những văn kiện vừa nêu từ đó đã cho ta một cái
nhìn khá rõ nét không chỉ về bồ tát Quảng Đức cùng thầy tổ, mà
còn cả về một giai đoạn Phật giáo và đất nước đầy những biến cố
bi hùng.
Thứ hai, về
thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm, với văn kiện cúng 22 mẫu
ruộng cho ba chùa là Long Sơn, Linh Sơn và Long Hòa vào năm Duy
Tân thứ hai, ta biết thiền sư chắc chắn xuất thân từ một gia
đình tương đối khá giả. Chỉ có vấn đề là trong văn kiện cúng
ruộng ấy, thiền sư đã nói chuyện đem “pháp khí tự sản tinh tự
điền”, tức pháp khí, tài sản của chùa cùng ruộng chùa, để đem
cúng cho ba chùa vừa nói. Vậy, phải chăng ruộng mà thiền sư đem
cúng cho các chùa, là ruộng thuộc ngôi chùa tư của cha mẹ thiền
sư ?
Sự thật tên
chùa Long Sơn xuất hiện từ việc đúc chuông vào tháng 2 và cúng
ruộng vào tháng Chạp của năm Duy Tân thứ 2 (1907). Trước đó ngôi
chùa này có tên là Thánh Kinh, mà ta còn thấy xuất hiện trong
bài minh chùa Long Sơn. Nói rằng năm Thành Thái thứ 10 (1899) tổ
Hoằng Thâm dựng chùa Long Sơn, thực ra là dựng chùa Thánh Kinh
này. Cho nên, khi văn kiện cúng ruộng cho chùa Long Sơn, Linh
Sơn và Long Hoà ghi là đem “tự điền và tự khí” để cúng, thì thực
chất là đồ dùng và ruộng đất của chùa Thánh Kinh vừa nói.
Theo lời
truyền lại của các vị bô lão làng Phú Cang, thì vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, thiền sư Hoằng Thâm đã phát canh nhiều ruộng
đất tại làng ấy. Làng nầy là một làng tiếp giáp với rừng, có một
cánh đồng khá rộng dưới chân núi. Số ruộng, mà thiền sư Hoằng
Thâm đem cúng cho ba chùa, phải chăng là số ruộng phát canh mà
dân làng nói tới ? Đây là một vấn đề cần nghiên cứu thêm, mới có
thể làm rõ được.
Thứ ba, về
tổ Chơn Hương Thiên Quang, dù gốc gác từ Phú Yên vào hoằng hoá
tại vùng Vạn Ninh, tổ đã có một ảnh hưởng rất lớn lên người dân
vùng nầy. Nhờ thế, tổ đã huy động được sự đóng góp của nhiều
giới Phật tử vào các Phật sự khác nhau từ việc xây chùa đúc
tượng cho đến việc mở rộng đời sống hoạt động kinh tế của chùa.
Đặc biệt là tổ đã thành công đào tạo được một lớp đệ tử mà sau
nầy đủ khả năng và đức độ để giáo dưỡng và tác thành nên bồ tát
Quảng Đức.
Không những
thế, sinh hoạt Phật sự thông qua việc quyên góp và lễ hội của
chùa đã tạo nên một dạng tổ chức Phật giáo nối kết những người
Phật tử tại những địa phương khác nhau thành một tập thể có tính
thống nhất, nhằm thực hiện những công trình Phật giáo. Dạng tổ
chức nầy cho đến bây giờ chưa có một nghiên cứu đầy đủ. Hai mươi
hai Văn kiện trên sẽ giúp cho chúng ta một phần tư liệu cho công
tác nghiên cứu vừa nêu. Nói tóm lại, số tư liệu liên hệ tới
những hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức tại vùng Khánh Hòa
như vậy đang hứa hẹn nhiều cái nhìn mới về tình hình Phật giáo
của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX với nhiều biến cố của nó.
Thông qua các văn kiện này, vấn đề
truyền thừa trong dòng thiền của bồ tát Quảng Đức đã có thể được
vẽ lại. Ta đã biết thầy của bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt
Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) và thầy của tổ Hoằng Thâm là
thiền sư Chơn Hương Thiên Quang (1862-1939). Thiền sư Thiên
Quang, ta đã biết xuất gia với tổ Ấn Chánh Tổ Tông Huệ Minh
(?-1904) tại chùa Bảo Lâm ở Phú Yên. Tổ Ấn Chánh có nhiều đệ tử
kế thừa, mà một trong số đó ta hiện có tư liệu phú pháp là thiền
sư Chân Tâm Đạo Tánh Pháp Thân với bài kệ:
Chánh pháp
trung diệu lạc
Vật trục tà kiến mê
Cổ kim đa
hiền thánh
Giải liễu tức bồ đề
(Vui mầu
trong chánh pháp
Thấy bậy chớ theo mê
Xưa nay
nhiều hiền thánh
Hiểu được tức bồ đề)
Tổ Ấn Chánh
lại là đệ tử của tổ Chương Như Tông Chí Từ Ý tại chùa Thiên Hưng
thôn Hội Phú xã An Ninh Đông huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Và tổ
Chương Như lại là đệ tử của tổ Toàn Thể Vi Lương Linh Nguyên.
Toàn Thể là tác giả của Từ Quang tự sa môn Pháp Chuyên Luật
Truyền Diệu Nghiêm nhân do sự tích chí viết vào năm Giáp Tý của
vua Gia Long (1804) và là anh em đồng sư với một tác gia nổi
tiếng của lịch sử văn học và Phật Phật giáo Việt Nam là Toàn
Nhật Vi Bảo Quang Đài (1757-1834). Những tác gia này đều là học
trò của một tác gia nổi tiếng khác là Pháp Chuyên Luật Truyền
Diệu Nghiêm (1726-1798). Đây là lý do giải thích tại sao Hứa sử
truyện vãn của Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài lại xuất hiện tại chùa
Long Sơn của bồ tát Quảng Đức. Tổ Pháp Chuyên lại là đệ tử của
tổ Thiệt Dinh Chánh Hiển Ân Triêm (1712-1796). Tổ Thiệt Dinh là
cao đệ của tổ Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo (1670-1746), người đã
khai sáng ra dòng thiền Chúc Thánh tại nước ta. Cây thiền phả
của bồ tát Quảng Đức do thế có thể vẽ lại như sau:
Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo
Thiệt Dinh
Chánh Hiển Ân Triêm
Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu
Nghiêm
Toàn Thể Vi
Lương Linh Nguyên
Chương Như Tông Chí Từ Ý
Ấn Chánh Tổ
Tông Huệ Minh
Chơn Hương (?) Thiên Quang
Như Đạt Giải
Nghĩa Hoằng Thâm
Thị Thuỷ Hạnh Pháp Quảng Đức
Trên đây là
một số nhận xét về những đóng góp của số tư liệu mà ta vừa phát
hiện ở vùng Vạn Ninh. Đó là những tư liệu cực kỳ quý giá giúp ta
hiểu một giai đoạn lịch sử đầy bi tráng của dân tộc và Phật giáo
tại một địa phương đất không rộng người không đông. Không những
thế, đối với cuộc đời của bồ tát Quảng Đức, chúng cống hiến cho
ta một cái nhìn rõ hơn về cuộc đời ấy trong nửa đầu thế kỷ XX,
đặc biệt giúp ta tạo nên một niên biểu chi tiết cho bồ tát Quảng
Đức.
Năm Sự kiện
1897 Bồ tát
Quảng Đức sinh
1898 Tổ Hoằng Thâm khai sơn chùa
Thánh kinh
1903 Bồ tát
đến ở với tổ và đổi tên là Nguyễn Văn Khiết
1907 Tổ Hoằng Thâm đổi chùa Thánh
Kinh làm chùa Long Sơn, đúc đại hồng chung và đem 6 mẫu ruộng
chùa Long Sơn cúng cho chùa Long Hoa và tổ đình Linh Sơn
1914 Bồ tát
được gởi vào chùa Linh Sơn ở Cam Ranh tham học với thiền sư
Thiện Tường
1917 Bồ tát làm tri sự chùa Long
Sơn
1921 Tổ
Hoằng Thâm viên tịch
1925 Bồ tát vào tổ đình Thiên Bửu,
tham học với thiền sư Thanh Chánh Quảng Đạt Phước Tường
(1867-1932)
1927 Bồ tát
nhập thất tại Núi Đất
1933 Bồ tát trú trì chùa Thiên Ân
1935 Bồ tát
dựng chùa Thiên Lộc tại Núi Đất
1936 Bồ tát xuống trú trì chùa
Thiên Lộc, đúc 2 chiếc chuông gia trì hiện còn, một ghi Trú trì
hiệu Quảng Đức kiến tạo Ất Hợi niên (1935) thập nhất nguyệt cát
nhật và một ghi Hoà thượng hiệu Nhơn Tri kiến tạo, Bính Tý Bảo
Đại thập nhất niên (1936) thất nguyệt thu
Làm chứng
minh cho hội Phật học Ninh Hoà và có thời gian đến trú trì chùa
Khánh Long.
1937 Khai sơn chùa Long Hà
1940 Bồ tát
về trú trì chùa Linh Sơn
1941 Trùng tu tổ đình Linh Sơn và
chứng minh cho chùa Bảo Sơn dựng lại
1942 Bồ tát
chủ trì đón nhận bằng sắc tứ tổ đình Linh Sơn
1944 Trùng tu chánh điện tổ đình
Linh Sơn và mở rộng đất tổ đình.
Lê Mạnh Thát
Trích từ "BỒ TÁT QUẢNG
ĐỨC NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM", Lê Mạnh Thát Chủ biên, Nhà
Xuất Bản Tổng Hợp Tp.HCM 2005