Đức
Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Bích - Thành viên Hội đồng chứng minh
Uỷ viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Chứng minh ban Trị
sự Thành hội Phật giáo Hà Nội, Viện chủ tổ đình Hội Xá.
Bậc cổ đức có dạy:
"Thanh quy thiền gia có tồn tại cũng bởi bậc lạp trưởng niên cao
Giáo pháp Phật tổ được xương minh là nhờ người Giới nghiêm đức tịnh"
Sở
dĩ Phật pháp được xương minh, hưng thịnh phần lớn cũng nhờ vào công đức
của những bậc trưởng thượng trong tùng lâm. Các Ngài là những người cầm
cân nảy mực, nắm giữ cương thường đạo lý, quy củ phép tắc thiền gia,
làm khuôn mẫu "Mô phạm" cho hàng thất chúng noi theo, nhờ đó mà Tăng già
toát lên phong thái "Khí cao tinh hán, Uy túc phong vân", thiền gia cốt
cách, khác người thế tục để duy trì mạng mạch của Đức Thế Tôn.
Thật
may mắn cho Phật giáo Thủ đô Hà Nội, thời nào cũng có các bậc đống
lương trụ thế, làm giường cột cho "Đạo pháp - Dân tộc". Xưa có Đại sư
Khuông Việt, Thiền Sư Vạn Hạnh..., thì nay lại có Đức Pháp chủ Thích Phổ
Tuệ, Trưởng lão hoà thượng Thích Thanh Bích...cùng biết bao nhiêu chư
tôn thạc đức đang đóng góp cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam phát triển
trong lòng Dân tộc. Nhân duyên hội đủ, hợp thời Chư tôn đức, Tăng Ni,
Phật tử, cùng quý vị khách quý vân tập về Tổ đình Hội xá, làm lễ khánh
thọ cúng dàng Đức Trưởng lão Hoà thượng Thích Thanh Bích đại thọ 100
tuổi, đồng thời cùng kết nguyện giới hương, xem tông phong Lâm Tế Chân
Nguyên, Như Trừng, Tính Dược.... thủa trước để thấy văn phong cốt cách
bậc tiền nhân, dõi theo hành trạng cuộc đời đạo hạnh của Đức Trưởng lão
Hoà thượng Hội Xá, để rồi cùng học theo gương sáng thiền gia, từ đó huân
tập thêm tư lương kế tổ truyền đăng, khiến cho Tông phong vĩnh chấn,
đạo mạch hưng long, đồng thời dâng lên Đức trưởng lão những lời khánh
tuế "Đức tuệ miên trường, tăng diên phúc thọ".
Kính bạch Đức Pháp Chủ chứng minh
Kính bạch Đức Trưởng lão Hoà thượng viện chủ tổ đình Hội Xá!
Kính bạch chư tôn đức.
Kính thưa các vị đại biểu!
Trưởng
lão Hòa thượng viện chủ tổ đình Hội Xá, thế danh là Nguyễn Quang Bích.
Ngài sinh năm Quý Sửu (1912) tại làng Mai Xá – xã Lý Nhân – tỉnh Hà Nam,
sinh trưởng trong một gia đình tiểu nông của dòng họ khoa bảng Nguyễn
Bá Thị, cha là cụ ông Nguyễn Hữu Thượng, mẹ là cụ bà Dương Thị Cẩm.
Ngài
là con thứ tư trong gia đình, nên được cha mẹ hết mực thương yêu. Ngay
từ thuở nhỏ Ngài đã sớm bộc lộ những bản chất hiền lành, nhân hậu, rất
mực yêu thương các loài vật, đặc biệt không bao giờ sát hại sinh mạng
của con vật nào.
Cố Đại lão Hòa thượng Thượng Thanh Hạ Bích
Năm
lên 5 tuổi (1917), Ngài theo cha mẹ rời xa bản quán đi buôn bán xa
phương. Khi đến thôn Kim Đới, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng,
gia đình Ngài gặp vợ chồng nhà nho Dương Đình Huỳnh, Trọng Thị Như. Qua
giao tiếp, cảm mến trước khí khái tao nhã, với những tư tưởng suy nghĩ
có phần khác người bình thường, toát lên phong thái tư chất của bậc quân
tử. Nhà nho Dương Đình Huỳnh đã xin cụ Nguyễn Hữu Thượng cho Ngài về
làm con nuôi, để dạy dỗ với mong muốn gửi gắm vào Ngài những hoài bão mà
cả đời ông chưa hoàn thiện.
Sau khi chuyển về ở nhà cha mẹ nuôi,
Ngài được nhà Nho Dương Đình Huỳnh dạy dỗ cẩn thận, cho đi học các
trường tư thục bên ngoài. Năm 12 tuổi, Ngài đã có trong người lượng kiến
thức Nho học và xã hội tương đối ổn định; đặc biệt đã học thông tiếng
Pháp, có khả năng giao tiếp thạo với người nước ngoài cũng như soạn viết
các văn bản chữ Nôm, chữ Hán.
Cũng là một duyên lành sớm được hạnh
ngộ ngôi Tam Bảo, gia đình cha mẹ nuôi vốn có truyền thống Phật giáo lâu
đời. Mẹ nuôi Ngài và người chị nuôi Dương Tùng Chính (sau này là Ni sư
Tùng Chính, xuất gia tu ở các chùa Kiến Thụy, Hoằng Pháp, Giác Nguyên,
Tiên Long) là những người hết mực tin kính Tam Bảo, hàng ngày phát
nguyện ăn chay, niệm Phật, cầu nguyện Quốc thái dân an. Mẹ nuôi Ngài
cũng chính là người bỏ tiền ra xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện bên bến
đò Song, thôn Kim Đới, Kiến Thụy, Hải Phòng. Như nắng hạn gặp mưa, từ
khi chuyển về với cha mẹ nuôi, hạt giống Bồ Đề không ngừng được nảy nở,
Ngài mau chóng tiếp nhận, thấm nhuần tư tưởng tinh thần Phật giáo, tuổi
tuy mới đồng ấu mà đã phát nguyện trường chay, niệm Phật.
Thắng duyên
hơn, Ngài lại gặp minh sư thiện hữu. Người chú ruột của Ngài là Hòa
thượng Thích Thông Tiến (thường gọi là Tổ Thiên Phúc) là một bậc pháp
khí thiền gia lỗi lạc, một trong ba vị luật sư danh tiếng ở miền Bắc vào
thời bấy giờ; thường vào Viện Viễn Đông Bác Cổ phiên dịch kinh điển; 10
năm khắc ván in kinh trong chùa Vĩnh Nghiêm, xuất gia với Tổ Tế Xuyên,
học đạo ở Tổ Nguyên Uẩn, được Tổ Bà Đá truyền Tâm Ấn. Một hôm đi vân du,
Hòa thượng Thiên Phúc ghé ngôi chùa bến đò Song dừng chân nghỉ, gặp cậu
bé thư đồng ngồi chắp tay niệm Phật, hỏi ra mới biết cháu mình. Được tổ
Thiên Phúc nói pháp vô thường và con đường giác ngộ của Đức Phật, Ngài
đã lập tức phát nguyện xuất gia khi tròn 12 tuổi.
Biết chuyện, mẹ và
chị nuôi hết sức vui mừng, nhưng cha nuôi Dương Đình Huỳnh lại có phần
ái ngại; phần vì thương con, phần vì muốn con mình nối tiếp chí ông,
tiếp tục đi học theo đuổi con đường công danh. Nhưng trước ý chí quyết
tâm của con, ông đành chấp nhận đưa con đến chùa Sủi, thôn Phú Thụy,
huyện Gia Lâm, Hà Nội học đạo với Tổ Thiên Phúc, được Tổ đặt pháp hiệu
là: Tâm Bích, pháp danh là Thích Thanh Bích.
Hiểu được căn cơ của
người học trò thích mật hạnh, chuyên tâm tu tập, không màng đến sự thế
của cuộc đời, nên Tổ Thiên Phúc không dạy các pháp ứng phó, hướng ngoại
mà trước dạy thanh quy giới luật thiền gia, sau hướng dẫn những phương
pháp nội quán chế ngự thân tâm.
Năm 13 tuổi (1918), Ngài được Tổ
Thiên Phúc cho sang chùa Bà Đá tòng Tăng chấp tác. Ở đây, hình ảnh của
Lục Tổ năm xưa lại xuất hiện. Là người bé nhỏ, nhưng hàng ngày phải gánh
hơn 200 gánh nước để phục vụ sinh hoạt của chư Tăng quả không phải việc
nhỏ. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, tinh thần xả thân cầu đạo cuối
cùng cũng được đền đáp. Cuối năm ấy, Tổ Bà Đá nhận thấy Ngài là bậc pháp
khí thiền gia, cơ duyên đầy đủ, liền cho đăng đàn thụ giới Sa di tại Tổ
đình Bà Đá.
Tại chốn Tổ Tế Xuyên, mặc dù Ngài không phải đeo đá giã
gạo như Tổ Huệ Năng, nhưng một người mảnh khảnh, hơn 10 năm giã gạo cúng
giàng chư Tăng chốn Tổ cũng thực sự là một cửa Đạo khó vào của các bậc
trưởng thượng Tông môn. Đi qua cửa ải này, Ngài được thầy nghiệp sư cho
thụ giới Cụ túc tại giới đàn Tổ đình Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Lúc này Ngài tròn 24 tuổi.
Cũng tại nơi đây, Ngài gặp người bạn đạo
Thích Phổ Tuệ, nay là Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hai Ngài
– một Bi, một Tuệ, cùng chung chí hướng, chung con đường, nên nghĩa
tương dao mau chóng kết thành tình đồng đạo pháp lữ. Mỗi khi gặp nhau
hai Đức Trưởng lão lại: “Trải chiếu luật nghi nhà trượng thất, bạn cao
Tăng đến thỉnh lên ngồi” trong niềm an nhiên tĩnh tại của bậc thiền
thiền giả.
Sau 22 năm theo thầy vân du học đạo, mùi tương dưa ngấm đủ
vị thiền, năm 1940, Trưởng lão trở về ngôi chùa Sủi – Bắc Ninh, chuyên
tâm công phu tu tập Thiền – Tịnh song tu. Ngày ngày “Nhất nhật bất tác,
nhất nhật bất thực”, hành hạnh “Thiểu dục tri túc”, thực tập ăn cỏ dày,
nằm bện rơm, sớm khuya đèn sách, ròng rã trải qua 20 năm mà không hề
ngưng nghỉ. Tấm gương sáng đạo hạnh tu hành ấy, người dân Sủi cho đến
hôm nay vẫn hết lời ca ngợi và tự hào mảnh đất quê hương của họ đã có
những bậc hiền nhân đạo hạnh dừng chân để cho dân làng học noi gương
sáng.
Năm 1960, gánh vác trọng trách kế Tổ truyền đăng của Tông phong
Lâm Tế, Ngài cùng với tôn sư là Tổ Thiên Phúc trở về Tổ đình Hội Xá,
Thường Tín Hà Tây – nơi phát tích của Tổ Tính Dược, Hải Quýnh, Tịch
Truyền, Chiếu Khoan, Phổ Tịnh, để duy trì đạo mạch, nối tiếp đèn thiền
tông phong của Tổ Như Trừng Lân Giác.
Năm 1966, mến mộ đạo hạnh của
Đức Trưởng lão, nhân dân xã Nguyễn Trãi – Thường Tín – Hà Tây cảm thỉnh
Ngài sang trụ trì ngôi chùa Đậu – Thành Đạo Tự, để giúp đỡ nhân dân về
đời sống tín ngưỡng tâm linh. Ở nơi đây, học theo hạnh tu của Tổ Vũ Khắc
Minh, Vũ Khắc Trường – thường ngày Ngài tiết chế ăn uống ngủ nghỉ, khi
tứ đại bất điều thường nhịn ăn, uống nước, thiền quán chữa bệnh; luôn
luôn giữ chính niệm tỉnh giác, như lý tác ý, như lý giác sát. Nhờ thực
hành như vậy nên đạo nghiệp không ngừng được tăng trưởng, thân tướng
ngày một đoan nghiêm giống thân tướng thiền sư để lại toàn thân xá lợi
Vũ Khắc Minh.
Vòng trời đất chuyển xoay, vô thường là lẽ đương nhiên,
khi thầy Nghiệp sư trả thân tứ đại cho đời, nhập cảnh giới bất thoái
chuyển, năm 1986 hợp duyên, Trưởng lão Hòa thượng đã gửi lại nhân dân
Nguyễn Trãi chùa Đậu toàn bộ số tiền hương hoa, lui về Tổ đình Hội Xá để
kế Tổ truyền đăng, nối tiếp Tông phong chốn Tổ.
Kể từ đó đến nay,
Trưởng lão Hòa thượng luôn là bậc Trưởng thượng mực thước cho hàng Tứ
chúng Thiền gia noi theo. Đối với tự thân thì khắc kỷ, đối với người thì
rộng lượng bao dung, chan hòa nhã nhặn, từ bi tiếp vật, mẫn niệm độ
sinh; luôn mật hạnh, làm nhiều hơn nói, khiêm nhường nhẫn nại, không tự
cao tự đại; lấy việc tu làm yếu vụ, việc sinh tử làm trọng, việc độ sinh
là cốt yếu; đặt chữ tàm quý ở trên đầu, lấy tứ ân để khắc dạ, nghĩ Tam
đồ mà răn lòng; hiểu công cày cấy nhiều ít của người nông phu, cơm ăn áo
mặc đều do tín thí…coi thường công danh, tiền bạc, sống thanh bần thủ
đạo trong nếp sống thiền gia; Ngày thì cày bừa, cấy hái, thượng Tam Bảo,
hạ trù táo, đêm thì dùi mài kinh sử, nghiền ngẫm pháp xuất thế của bậc
thượng nhân. Tuổi đã đến mực “Bách tuế” mà buổi buổi bên hiên, dù 6 giờ
trời nhá nhem tối, không ánh đèn, không kính, Ngài vẫn say sưa dò câu
kinh con chữ. Trưởng lão mặc cho dòng đời đầy sáo động thịnh suy lên
xuống, tranh nhân, tranh ngã, một câu “Nam Mô Thường Bất Khinh” – Hết
thảy mọi người là Bồ Tát, chỉ riêng mình là phàm phu, chắp tay cung kính
xưng con với cả sư Bác, sư Chú mà thấy lòng an nhiên tĩnh tại. Lòng từ
bi của Trưởng lão mở rộng đến cả muôn loài chúng sinh. Hàng ngày đám mèo
hoang vẫn đến bầu bạn, Ngài nào dám khinh vi vì Phật tính nhất như nào
phân sai khác. Đức Trưởng lão thực hành pháp tu đơn giản chỉ là “Lệch kê
lấm rửa”, thời khóa công phu đầy dủ, chưa khi nào dừng nghỉ. Tinh thần
trì học giới lại càng dũng mãnh, thời gian trước, Trưởng lão tuổi tuy đã
70 ngoài, mà hàng tháng Ngài vẫn đi bộ hơn chục cây số từ chùa Đậu sang
Tổ đình Võ Lăng tụng giới Bá Tát cho đến khi sức khỏe không còn cho
phép; hay khi Hạ tại chùa Đỏ Văn Quán – Hà Đông, vì lên muộn giờ lâm
thụy nên chùa đã cửa đóng then cài, Ngài cũng không dám gõ cửa động
chúng mà lại tiếp tục thiền hành cả đêm cho đến khi trời rạng; Rồi cũng
chính trong hạ trường Văn Quán, vì điều kiện cơ sở hạ tầng khó khăn, chư
Tăng thiếu chỗ ngủ nghỉ, Đức Trưởng lão đã ra ngoài nhà kho ngủ để
nhường chỗ cho Chư Tăng trì tĩnh, cử chỉ ấy thật là cao đẹp biết bao!
Cuộc
sống thường nhật của Đức Trưởng lão Hòa thượng thanh bạch cốt cách,
luôn giản dị trong tấm áo nâu sòng đã bạc màu theo năm tháng; Cả đời
xuất gia tu đạo, chưa khi nào Trưởng lão tự may cho mình bộ quần áo mới,
hay mua những vật dụng trang trí tự thân. Tất cả vật dụng đều do tín
thí phát tâm, Ngài đều tùy công đức nhiều ít của mình mà đắc thụ vật
dụng đàn na.
Trưởng lão hiểu thế giới như hoa đốm, vạn vật đều vô
thường, bởi vậy Trưởng lão luôn bất động giữa dòng đời đầy sáo động
thịnh suy, an nhiên tĩnh tại trước mọi sự cám dỗ của dục vọng, vật chất.
Người tuy quần áo tả tơi nhưng lại thiền gia cốt cách; gậy chặt bờ rào
vẫn đủ để cho thiền trượng thong dong. Túi pháp mặc dù được làm bằng
những bao tải ngoài vườn, vậy mà có biết đâu túi ấy đã viên tròn giới
châu cụ túc. Rồi cả đến giường nằm không cao đẹp to dề, chỉ giản đơn là
những tấm gỗ thừa ghép lại, với manh bạt thay chiếu, nhưng vẫn đủ làm
pháp tòa Như Lai cho ai có trí phát rúc siêu phương trụ tâm Bảo Sở. Dép
mộc, mũ len, Đức Trưởng lão thực tập ngủ ngồi nhiều hơn nằm, ngày ngày
khi rau khoai, lúc rau bợ, lưng bát cơm theo pháp lương dược vị liệu
hình khu, nhẹ phẩy quạt nan, cả đời tu chẳng mấy khi mắc màn, mặc cho
muỗi réo bên tai, lấy pháp lành bố thí kết duyên với chúng sinh lạc
hướng. Mùa đông giá rét, Đức Trưởng lão cũng chỉ một tấm chăn mỏng đối
trị tứ đại cho khỏi bất điều; Quần áo của Ngài cũng chưa khi nào nhờ ai
giặt giúp, mọi việc cá nhân đều tự thân làm lấy; vật dụng tín thí cúng
dàng không thiếu, nhưng cũng chỉ thiểu dục dùng do sợ lạm dụng đàn na.
Trên
con đường tu ấy, Đức Trưởng lão đã giúp cho không biết bao nhiêu người
con Phật thấu hiểu bản chất của cuộc đời mà kiên cố Bồ Đề Tâm. Ngài
không chỉ khẩu giáo, ý giáo, mà lấy chính bản thân chân thực tu tập của
mình làm ngôn ngữ thuyết giáo cho hàng hậu học. Thật đáng mừng, Phật
giáo Hà Nội hôm nay còn lưu giữ được những truyền thống thiền gia tốt
đẹp, thì Đức Trưởng lão chính là một trong những bậc đi tiên phong trong
sự nghiệp duy trì đạo mạch.
Với hàng Phật tử, tín chúng, có không
biết bao nhiêu người lầm lỡ trong cuộc đời đã tìm lại được niềm tin,
nguồn nhựa sống trong ánh từ quang khi được Đức Trưởng lão thiện tâm
giáo hóa. Họ cảm nhận thấy ở nơi Trưởng lão những cảm giác an lành, hạnh
phúc, thấy tin yêu cuộc sống hơn khi cuộc đời trở mặt.
Khi Tăng sai,
Đức Trưởng lão đã trải qua nhiều trọng trách của Giáo hội như Chánh Ban
đại diện Phật giáo huyện Thường Tín, Trưởng Ban trị sự Phật giáo tỉnh
Hà Tây, Hiệu trưởng trường Trung cấp Phật học Hà Tây và hiện nay là
thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTS GHPGVN, chứng minh BTS Thành hội Phật giáo
HN, Viện chủ Tổ đình Hội Xá, Trưởng sơn môn Tế Xuyên – Hà Nam.
Trưởng
lão Hòa thượng cũng là ngôi Thầy Hòa thượng, A Xà Lê, đăng đàn truyền
trao giới châu tuệ mệnh cho hàng nghìn giới tử Hà Tây, Hà Nội, Hà Nam,
là ngôi đường chủ nhiều năm của Hạ trường Mai Xá, Hội Xá, Mỗ Lao…cùng
nhiều trường hạ khác trong và ngoài thành phố Hà Nội để làm khuôn mẫu
cho học chúng noi theo.Kính bạch Đức Pháp Chủ chứng minh
Kính bạch Đức Trưởng lão Hoà thượng viện chủ tổ đình Hội Xá!
Kính bạch chư tôn đức.
Kính thưa các vị đại biểu
Ngang
qua hành trạng cuộc đời đạo hạnh của Đức Trưởng lão viện chủ tổ đình
Hội Xá, Tăng Ni, Phật tử, cùng quý vị khách quý, xin thành kính tán
dương công đức, cầu nguyện Phật tổ gia hộ cho Đức Trưởng lão thân tâm
thường lạc, đức tuệ miên trường, mãi mãi là cội Bồ đề toả bóng mát cho
hàng hậu học, đồng thời nguyện lấy cuộc đời đạo hạnh của Ngài làm tâm
gương sáng, vận dụng vào thân tâm mình để tiến tu đạo nghiệp, tìm con
đường giải thoát ngay tại thế gian.
Vô Lượng, Vô Lượng, Vô Lượng Thọ - Tôn Phật(3lần)
Nam Mô Trường Thọ Vương Bồ Tát Tác Đại Chứng MinhNguồn - chuabang.com