Sau
Thế Chiến Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để cung ứng cho
chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương biến
miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cộng với khẩu hiệu “Để chặn đứng
sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản tại vùng Đông Nam Á”, nhưng thực
tế cũng còn để tiêu thụ hết số hàng hoá và khí giới thặng dư. Để thi
hành hai mục tiêu then chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ
chỉ chấp nhận một chính quyền bù nhìn phục tùng Mỹ, nghĩa là một chính
quyền Công Giáo (vì Tin Lành còn yếu vào thời điểm đó) trong một quốc
gia mà số tín đồ của họ chỉ có 5% dân số.
Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục
tùng thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, do đó,
đã là một trong những nguyên nhân sâu xa và gián tiếp đưa đến vụ tranh
đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc Thích Quảng Đức nhằm thức tỉnh chính
quyền Ngô Đình Diệm và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng
bất công đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo
dài đến không những với chế độ Ngô Đình Diệm mà còn với chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘bình mới nhưng rượu còn nguyên’.
Phác họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để thấy
cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải chỉ vì sự bất công giữa
Phật giáo và Kitô giáo mà nguyên nhân chính còn là sự bất công áp bức
giữa một tôn giáo và các tôn giáo, là sự đày đọa bất công của người dân
miền Nam Việt Nam dưới một chế độ tôn giáo ngoại lai độc tài bù nhìn Ngô
Đình Diệm. Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước
đã quá đầy. Vì thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi xướng là một cuộc
tranh đấu không những của toàn dân miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc
tranh đấu của những người yêu chuộng tự do bình đẳng công bằng xã hội
trên khắp thế giới.
Với cái nhìn thoáng qua chiều dài lịch
sử như thế chúng ta mới biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu
này lại được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong đó có nhiều
nhân vật lãnh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt
nam và nhiều quốc gia lại có cùng một khuynh hướng chính trị với chính
phủ Ngô Đình Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực này càng mạnh hơn sau khi
Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm ngọn đuốc để cảnh
tỉnh lòng người.
Ngài sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh,
tỉnh Khánh Hòa, xuất gia lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế.
Trước lúc tự thiêu Ngài trú tại chùa Quán Thế Âm, Sài Gòn. Sau khi 8
Phật tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện
vọng chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đình Diệm thỏa
thuận,
Hoà Thượng Thích Quảng Đức
người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền
định để tăng trưởng nội lực, đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa
giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-gòn sáng ngày
11.6.1963.
Khác với những lời xuyên tạc của những
người bênh vực nhà Ngô, ký giả New York Times David Halberstam đã tường
thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nể:
“Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy,
nhưng chỉ một lần cũng đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô
lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa
đỏ thật kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người
đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng
hoàng để ghi chép hoặc hỏi một câu, quá bối rối để suy nghĩ...thân thể
chìm trong biển lửa nhưng người vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích,
không một tiếng rên la, thân ngã xuống, những người đang đứng xung
quanh òa khóc.”
Những bài tường thuật của Malcolm
Browne về cuộc tự thiêu của HT Thích Quảng Đức được hãng thông tấn AP
gởi về Mỹ nhanh chóng, và những bức hình tự thiêu do ông chụp cũng được
hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên
độc giả khắp nơi bắt đầu tò mò về những gì đang xảy ra tại Việt Nam,
một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên, thái độ của phái bộ truyền
thông Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các nguồn tin
chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông. Nhưng đây không phải
là một công việc dễ mặc dù bản doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm
đoàn kết chặt chẽ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm
lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy
điện tín, gài người vào các văn phòng và chạy theo ký giả trên các đường
phố. Dẫu vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng
không, và ngay cả những cảm tình viên quân sự nên giới nhà báo vẫn
chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. Vì thất bại trong việc điều
khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ Kennedy đã phải đưa công việc
nầy lên một đơn vị cao hơn.’
Làm đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ
truyền thông của Mỹ và của Việt Nam đã không thể ngăn chận nỗi các tin
tức về cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức tự
thiêu, nên cả thế giới hầu như được biết tường tận về biến cố vĩ đại
này.
New York Times và Washington Post: Ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết:
“Những bức hình mà tôi chụp về cái
chết của HT Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật mà người ta gửi đi
cùng khắp thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cái
nhìn của mỗi người.
Một người quen ở Lisbon gởi thư cho
tôi biết rằng những bức hình về cái chết của ngài Quảng Đức được thành
phần diều hâu bày bán khắp cùng ngõ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng
người Mỹ cũng dùng một trong những bức hình nầy như là một Chú ý cho
những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và
báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ “Chúng ta cũng phản
đối: We, too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người Mỹ ủng
hộ chế độ Diệm.
Trung Hoa: Hình tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa Lục in ra hằng triệu bản.
Một trong những bức hình đó đã gửi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với
hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa
đế quốc Mỹ-Diệm.”
Những hình ảnh tự thiêu của HT Quảng
Đức cũng là một ấn tượng ảnh hưởng đến tòa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được
biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về
việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đã có một bức
hình tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng
Đức có lẻ là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ Ngoại Giao và
Toà Bạch ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi hướng lịch sử Việt Nam”.
Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.”
Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như sau:
“Sự hy sinh rất khích động của vị tăng
sĩ thiêu sống ngay tại Sài Gòn buộc người ta phải kính trọng. Sự hy
sinh vì Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Gia
Tô đầu tiên và sự liên tưởng này càng làm cho chúng ta cảm thấy oái
oăm.”
Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:
“Người ta có thể tuyên truyền rằng đó
chỉ là cuộc nỗi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện vì chính phủ chỉ
là một thiểu số bó kết chặt chẽ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và
cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh vì Chánh Pháp của Hòa Thượng Thích
Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống
và tư tưởng của họ.”
Chính Phủ Ngô Đình Diệm: Sau vụ tự thiêu chấn động dư luận của HT. Quảng Đức. Ngô Đình Diệm thực sự bối rối:
“Ông vu khống nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”
Bà Ngô Đình Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền hình American, ký giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:
“Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng
góp cho đất nước từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một
nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu
sống, nhưng về sau bà Nhu đã tìm cách từ chối một các phát biểu thiếu
trách nhiệm nầy.”
Ông Ngô Đình Nhu: Sau vụ tự thiêu của sư cô Diệu Quang tại Nha Trang ngày 18.8.1963, ông Nhu tuyên bố:
“Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất vui lòng cung cấp xăng.”
Những cuộc tự thiêu đã thức tỉnh thế
giới và chấn động lương tâm nhân loại, nhưng ý nghĩa của nó thì thường
bị hiểu lầm và cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn không kém. Để
làm sáng rõ ý nghĩa các cuộc tự thiêu của Tăng Ni và Phật Tử năm 1963,
tôi xin trích dẫn hai ý kiến của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành một
Phật Giáo để làm sáng rõ thêm lịch sử.
Mục sư Donald Harrington tại New York: Trong
buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư
Harrington đã mô tả trung thực chân tình và cảm phục việc HT Quảng Đức
tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ý nghĩa đích thực của hành
động tự thiêu:
“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày
11.6.63 vị sư tên Thích Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên
đường nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu
niệm Phật còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất
cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến
cố phi thường gì sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi.
Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn
mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi Người bật
một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người
không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân
hình chìm trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...
Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp
và niềm phẫn hận nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương” của
“Hòa Bình”, quyết chí tự thiêu?...
Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán
đời cực độ đã đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một lý tưởng
cao cả nhất và lòng yêu đời nồng nàn nhất một đôi khi cũng đã sản xuất
những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử...
Hòa Thượng Quảng Đức hy sinh đời mình
bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ý
cho toàn thế giới..
Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia
lửa hồng đang đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy
lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu
nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn là tiếng nói của tình
thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của
miền Nam Việt Nam. Người đã để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng
mà Giáo Hoàng Gioan đã mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đã làm
và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho
chính phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay
quyền bình đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt
Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...
Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy
vọng cho những người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay
chính đồng bào của họ...”
Ý Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:
“Báo chí gọi đó là một hành động tự
tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động
phản đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước
lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà
cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền
miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện
vọng mà ông đề cập là rất tối ư quan trọng... Tu sĩ Việt Nam tự thiêu
nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự
khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi... Để bày tỏ ước
vọng bằng cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành
động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết
cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”
Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích
tại sao sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự
tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:
“Tự tử là một hành động tự hủy do
những nguyên nhân sau đây: (1) thiếu ý chí để sống và gặp những khó
khăn; (2) thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn
sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không
thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, ngài có
đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai.
Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự
hy hiến đời mình cho kẻ khác... Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự
thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính
sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của
chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù
và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người.”
Sau cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni
đêm 20.8 bằng kế hoch “Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới
ngày càng hiểu rõ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. Vì
thế, họ đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ
thị bạo ngược của chính phủ Diệm.
Trong những cá nhân, đoàn thể và quốc
gia ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành
phần. Những người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần
theo Phật Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích
dẫn.
LM. Lê Quang Oánh: Từ
hồ Than Thở Đà Lạt ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối
Giải Sĩ Đồng Tâm, Linh Mục T. Võ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan
Hương... gửi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bày
tỏ sự đồng tình cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư có đoạn viết như sau:
“Chúng tôi lên án “Tội bất công” đã
giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản tự
do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nườc văn hiến
trên bốn nghìn năm lịch sử.
“Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”
Vatican: Giáo Hoàng
Phao Lồ Đệ Lục cũng đã ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày
30.8.63 Giáo Hoàng đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng
văn thư nầy đều bị chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn cấm không cho phổ
biến. Một đoạn trong thông điệp nầy đã được Giáo Hoàng viết như sau:
“Giáo Hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và
đau đớn theo dõi các biến cố bi thảm đương dầy vò nhân dân Việt Nam và
sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng cầu nguyện
để cho tất cả mọi người, rong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương
kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân
và tình huynh đệ”
Cao Miên: Sau ngày HT
Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt
kiều tại Cao Miên, đã viết thư lên án chính phủ Ngô Đình Diệm và thỉnh
cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi cacù
chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên ngày
23.8.63 đã chính thức ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam.
Một đoạn trong thông cáo viết:
“Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải
khi nhận đươc tin Chính phủ Sài Gòn đã đàn áp dã man tín đồ Phật giáo...
Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật tử Việt
Nam”
Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẽ rất nặng nề:
“... Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như
tất cả các dân tộc khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước
những hành động dã man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...”
Tích Lan: Ngọn lữa từ
bi hùng tráng Thích Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đã
khiến bà Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà
kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong việc
yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt
Nam. Ngày 26.8.63 hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật
Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh vì tín
ngưỡng.
Miến Điện: Sau ngày
các chùa tại Việt nam bị bố ráp, chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn.
Báo Guandiantai tai Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính
sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết rằng:
“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng
hộ một chính phủ đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử
Việt Nam mà có thể giữ được nguyên vẹn tình cảm ngoại giao với các quốc
gia trong vùng Đông Nam Á”.
Ấn Độ: Nhiều hội Phật
Học Aán yêu cầu thủ tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63, Tổng Thư Ký đảng
Quốc Gia Aán rất công phẫn chế độ Ngô Đình Diệm và cảm nhận nỗi đau
thương của tín đồ Phật Giáo Việt Nam:
“Những tin tức loan đi từ Sài Gòn đã
làm chấn động dư luận tại Ấn Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự tàn
bạo mà các đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm cho ta phẫn nộ khi nhớ
rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo động.”
Thái Lan: Ngày
22.8.63 thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập
một hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo
Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó giám
đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đã khuyến cáo chính phủ Việt Nam
bằng những lời gay gắt và như một tiên tri:
“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng
Thống Ngô Đình Diệm sẽ hứngg chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi hình
thức, hiểu theo giáo lý nhà Phật, kể cả diệt vong và địa ngục...”
Đài Loan: Bộ ngoại
giao Đài Loan tuyên bố rất lo ngại cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt
Nam và mong mỏi chính phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm
dứt cuộc khủng hoảng.
Nam Hàn: Đại đức
Kapchong, Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo, gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu
cầu chấm dứt việc đàn áp Phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên
trong hội đồng Quân nhân cách mạng, đã gửi thư lên án chíng phủ Việt nam
đàn áp Phật tử một cách vô nhân đạo.
Nhật Bản: Tổ đình Bổn
Nguyệt Tự tổ chức một buổi lễ đại cầu siêu cho cố HT. Quảng Đức và Phật
tử Việt Nam hy sinh vì tín ngưỡng. Mặc dù dè giặt nhưng Thứ trưởng
Ngoại giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam tại Nhật để
biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật Giáo Việt Nam.
Báo chí và dư luận của các nước Tây Phương rất nhiệt tình và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.
Báo Le Monde: Được
xem là phản ảnh quan điểm của Bộ Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đã
công kích chính phủ Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt như sau:
“Biến cố ở Huế đã xẩy ra do sự đàn áp
tàn bạo của nhà cầm quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất mãn của
nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần sự cô lập và thất nhân
tâm của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đãi.”
La Croix: Là một nhật
báo có nhiều ảnh hưởng trong giới Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm
chống đối chính sách độc tôn của chính Phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi tín
đồ Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam.
Báo New York Times: Số ra ngày 8.8.1963 viết:
“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi
cách để buộc ông Diệm phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người ta
hết sức kinh ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Tổng Thống Diệm,
vu khống các lãnh tụ Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng chiến
dịch Cộng sản. Có tin cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm,
có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Có nhiều
người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh như vậy là một phần trong
chiến tranh tâm lý chống Phật giáo, và cũng là một sự hăm dọa đối với
Hoa Kỳ.”
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Liền sau khi các chùa trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:
“Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài
gòn, rõ ràng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã có hnững biên pháp đàn áp
nghiêm khắc các lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một vi phạm
trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính
sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa kỳ phiền trách các hành động đàn
áp loại này.”
Liên Hiệp Quốc: Với
những hình ảnh Phật tử Việt nam bị đàn áp, bắt bờ, tù đày, vu khống bởi
chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải vào trang nhất của hầu hết các
báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã không thể làm ngơ, nên ngày
24.9.1963 một phái đoàn đặc biệt được gửi đến Việt Nam để điều tra vụ
Phật Giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phái đoàn Liên
Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để điều tra, nhưng cuối cùng
phái đoàn cũng đã thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng ‘Phật tử Việt
Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết
hại và cải đạo trong nhiều năm qua.’
Tóm kết, cuộc tranh đấu Phật giáo 1963
không nằm hạn hẹp trong việc đòi hỏi sự bình đẳng và quyền tự do tôn
giáo mà còn là một cuộc đòi hỏi về công bằng xã hội và quyền được sống
an bình trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới.
Cuộc tranh chấp ý thức hệ mà Việt Nam là một bãi chiến trường để đọ sức.
Khí giới, bom đạn, hàng hoá bị thặng dự sau Thế chiến Thứ hai thì Việt
Nam là một thị trường tốt để tiêu thụ. Người Việt trở thành nạn nhân
nhưng được các cường quốc che dấu bằng những danh từ hoa mỹ. Vì thế,
cuộc tranh đấu Phật Giáo 63 được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới
tán đồng. Sự tự hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như
những ngọn lửa thiêng tiếp nối sau đó là để chính phủ Ngô Đình Diệm tỉnh
thức và thế giới lưu tâm, nhưng kết quả là cộng đồng thế giới có lưu
tâm nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm lại không đếm xỉa nên cuối cùng, chế
độ mất lòng dân và ngược thời đại nầy đã bị sụp đổ...
Những ngọn lửa thiêng và biến cố 63 đã
tạo cơ duyên tốt cho Phật Giáo để chấn hưng và vận hội mới cho quy
trình cách mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế
chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc vào những
con người có lương tâm, trí tuệ và hùng lực của thành phần lãnh đạo.