Người xưa
đã có nếp sống cao đẹp như vậy từ bao đời, ngày nay chúng ta cũng phải
biết tiếp nối sự nghiệp cao đẹp đó và gìn giữ những gì mà chư vị tiền
bối đã gầy dựng. Để
bồi đắp và khai mở tuệ giác vốn có ở nơi mỗi con người thì chúng ta cần
phải thực hành theo những gì mà đức Thế Tôn đã dạy, và đó chính là giới
học, định học và tuệ học. Trong ba môn học này thì giới luật đóng vai
trò căn bản cho những ai đang còn chập chững trên bước đường tu nhân học
Phật. Bởi tâm ý của chúng ta vẫn thường xuyên buông lung phóng túng,
nói năng và hành động còn nhiều vụng về, thô tháo nên dễ dàng tạo ra
phiền não và làm tổn hại đến cho mọi người xung quanh. Vì thế, chúng ta
cần phải tìm hiểu, học hỏi về những luật nghi mà đức Thế Tôn đã giảng
dạy.
Trong phạm vi tập sách này, chúng tôi chỉ rút ra vài ý căn bản ở chương Uy nghi, trong luật Sa Di và Sa Di Ni, do Hòa Thượng Thích Trí Quang biên dịch và tham khảo thêm một số ý khác trong sách Bước Tới Thảnh Thơi,
do Đạo Tràng Mai Thôn biên soạn. Đồng thời, chúng tôi căn cứ vào hiện
trạng sinh hoạt của các Phật tử khi đến chùa, rồi biên soạn lại thành
tập sách Uy nghi này, với mục đích giúp cho người Phật tử tại gia dễ
dàng nắm bắt và ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày thêm được nhiều
lợi lạc!
Thiết
nghĩ, cho dù chúng ta tu tập pháp môn gì đi nữa, giới luật vẫn là nền
tảng căn bản của toàn bộ giáo lý đạo Phật. Vì thế, là người học trò của
đức Thế Tôn thì chúng ta cần phải học hỏi và thực hành theo lời dạy của
Ngài, nhằm phòng hộ và chuyển hóa những tập khí tham, sân, chấp ngã của
tự thân, xây dựng nếp sống thanh lương, cao đẹp cho bản thân và cộng
đồng xã hội.
Chúng
con thành tâm kính tri ân Hòa Thượng Thích Minh Thông, đã quan tâm
giảng dạy cặn kẽ về môn Luật học, giúp cho hàng hậu học chúng con được
am hiểu để ứng dụng vào trong đời sống hàng ngày được nhiều lợi lạc! Mặt
khác, Hòa Thượng còn từ bi hoan hỷ dành thì giờ để chỉ dẫn và chỉnh sửa
tập sách uy nghi này, tạo thêm phần chuẩn xác và lợi ích đến cho người
đọc.
Tập
sách này được biên soạn với sự cần mẫn và suy nghiệm của tự thân, nhưng
không sao tránh khỏi những vụng về, thiếu sót. Do đó, con kính xin chư
tôn đức từ bi chỉ dạy và quý thiện hữu tri thức hoan hỷ bổ khuyết cho,
để tập sách được hoàn chỉnh và tăng thêm phần lợi lạc!
Biên soạn
Thích Quảng Hướng
Mục lục
Chương I: Đến chùa………………
Chương II: Tiếp xúc với quý Tăng Ni.............
Chương III: Thỉnh quý Thầy về nhà
Chương IV: Làm công quả……..
Chương V: Ăn cơm……………
Chương VI: Vào nhà vệ sinh…….
Chương VII: Quan hệ với các bạn đồng tu…
Chương VIII: Nghe pháp thoại….
Chương IX: Học hỏi đạo lý……
Chương X: Thờ Phật và lạy Phật
Chương XI: Ngồi thiền, kinh hành,
tụng kinh và niệm Phật……………
Chương XII: Bảo vệ môi trường…
Chương I: Đến chùa
Khi
vào cổng chùa thì phải xuống xe, tắt máy dẫn bộ và để đúng nơi quy
định. Đến chùa nên mặc áo Tràng, nếu không có thì mặc áo quần dài ống,
nhằm thể hiện sự kín đáo, trang nghiêm và lịch sự. Không nên mặc áo ngắn
tay để hở nách, quần cụt, v.v... Vì ăn mặc cũng chính là thể hiện tư
cách của một con người có đạo đức, văn minh và tiến bộ.
Áo
Tràng (áo lễ) thì không nên để nhăn nheo, vo cục, kẹp nách, không vứt
bỏ bừa bãi, lung tung, bạ đâu nhét đó. Không nên vừa đi, vừa mặc hay cởi
áo Tràng mà phải đứng yên thong thả mặc áo xong rồi mới đi.
Đến
chùa hay đi bất cứ ở đâu, dép guốc phải để ngay ngắn, không dẫm lên dép
của người khác. Khi đi, không kéo lê dép hoặc giẫm mạnh xuống nền gạch
tạo ra tiếng kêu ồn ào, làm động niệm và ảnh hưởng tới sự tu học của
người khác. Không chạy nhảy, cười giỡn, huýt gió, ca hát, nói lớn tiếng, gọi từ xa trong khuôn viên chùa. Khi đã uống bia, rượu thì không nên đi đến chùa. Không viện cớ nói dối người nhà là mình đi chùa, nhưng lại đi làm việc khác.
Chương II: Tiếp xúc với quý Tăng-Ni
Khi
chào quý Thầy (quý Sư cô) thì phải chắp tay ngang ngực cúi đầu và cung
kính. Không nên vừa đi vừa xá chào Thầy hoặc đứng trên cao còn Thầy ở
dưới thấp. Không đội mũ nón, đeo kính đen, mặc quần ống cao, ống thấp
lôi thôi mà chào Thầy. Không mặc áo quần hở hang đứng ngồi nói chuyện
với Thầy.
Không ngồi ngả nghiêng hoặc dựa vào tường vách. Không ngồi lắc lư, rung
đùi, đong đưa hai chân hay nhịp chân. Nên ngồi trong tư thế ngay thẳng,
an ổn và mắt hướng về Thầy. Khi rời khỏi chỗ ngồi, nhớ sắp xếp bàn ghế
lại cho ngay ngắn và nhẹ nhàng.
Không
nên đi ngang qua gần trước mặt Thầy, trừ khi không còn lối đi nào khác.
Không nên đi, đứng hoặc ngồi xoay lưng trước mặt Thầy, trừ khi có những
lễ hội đông người và không còn chỗ ngồi nào khác. Khi nói chuyện với
Thầy không chắp tay sau lưng, hút thuốc, đứng đối diện, chống nạnh hoặc
cách Thầy quá xa, nên đứng dịch qua một bên và gần Thầy để thưa chuyện.
Thầy
đang nói chuyện với ai thì không xen vào ngắt lời. Khi gặp Thầy chỉ hỏi
những vấn đề liên quan đến sự tu học hoặc việc quan trọng khác, không
nên hỏi những chuyện vu vơ, linh tinh.
Khi
Thầy đang ăn cơm, tụng kinh, ngồi thiền, làm lễ… thì không đến thưa hỏi
mà chỉ lặng lẽ xá chào và lui ra chờ đợi. Khi thấy Thầy đi đến chỗ mình
thì phải đứng dậy chắp tay cung kính xá chào.
Không
nên bàn tán việc tốt xấu, đúng hay sai của quý Thầy khiến cho người
khác mất tín tâm đối với Tam bảo. Nếu trông thấy một vị xuất gia nào đó
không giữ gìn uy nghi giới luật thì nên đi đến chắp tay xá chào và thưa
chuyện với thái độ cung kính, chân tình để biết rõ ràng về sự việc. Chứ
không nên vội vàng phê phán và đi loan truyền cho những người khác biết,
trong khi đó mình chưa hiểu rõ được vấn đề. Nếu lỡ vị xuất gia ấy thực
sự sai phạm luật nghi thì cũng nhờ vào ngôn từ ái ngữ và thái độ cung
kính của mình mà có thể giúp cho vị ấy điều chỉnh lại hành vi sai trái.
Người
Phật tử đi ra đường gặp các vị xuất gia thì nên chắp tay cung kính xá
chào. Khi trông thấy người xuất gia ôm bình bát đi khất thực thì nên đem
thực phẩm đến dâng cúng và chỉ bỏ vào bình bát vị ấy những loại thức
ăn, chứ không nên cúng dường tiền bạc. Nếu thấy các vị đi khất thực sau
mười hai giờ trưa thì phải biết rằng, họ là những người giả dạng. Bởi
người xuất gia chỉ đi khất thực từ sáng sớm cho đến trưa là trở về chùa
để thọ trai, chứ không bao giờ đi sau giờ Ngọ.
Đừng
bao giờ trước mặt quý Thầy thì tỏ vẻ bằng lòng, nhưng sau lưng lại đem
ra bàn luận chuyện phải trái, đúng sai. Nếu ta chưa thấu hiểu điều gì
thì cứ thật lòng trình bày với Thầy, không nên biết rồi mà còn hỏi thử.
Thầy có dạy bảo điều gì, nên chắp tay trang nghiêm và lắng lòng nghe.
Phật
tử đã phát tâm cúng dường cho chùa thì không yêu cầu hoặc đề nghị quý
Thầy phải làm theo ý của mình. Vì yêu cầu quý Thầy làm theo ý mình thì
sẽ suy giảm phước đức của sự cúng dường và tăng thêm lòng ngã mạn.
Nếu
muốn mua vật dụng cá nhân để cúng dường cho quý Thầy thì nên thưa hỏi
trước, để thuận tiện cho sự tu học và phù hợp với sức khỏe của quý Thầy.
Nếu muốn cúng dường tịnh tài, tịnh vật cho quý Thầy thì nên bỏ vào
phong bì kín đáo, trang trọng và với tâm thành kính.
Nếu
muốn cúng dường riêng cho một Thầy thì không nên kết nghĩa làm cha mẹ,
anh, chị, em nuôi. Người xuất gia đã ra khỏi nhà thế tục, cắt bỏ những
ân ái buộc ràng, để gia nhập vào Tăng đoàn xuất thế và là những người
đại diện cho Tăng bảo. Vì vậy, không thể nhận người cư sĩ tại gia làm
cha mẹ hay anh, chị, em nuôi.
Trong
các buổi lễ hay học giáo lý, bao giờ Phật tử cũng phải vào trước để ổn
định trang nghiêm và chắp tay xá chào khi Thầy bước vào. Thầy giảng giải
có điều gì chưa hiểu thì hãy suy nghĩ cho kỹ càng chứ không cho rằng,
Thầy nói dở hoặc kinh nói sai. Bởi mình còn là phàm phu trí lực hạn hẹp
chưa thể hiểu tới, do đó không nên tùy tiện nói năng bừa bãi mà tạo tội
lỗi. Nếu Thầy có nói thiếu sót điều gì thì hãy đến gặp Thầy và trình bày
với cái tâm chân thật.
Nếu
muốn tham vấn những gì bế tắc đang gặp phải trong đời sống hằng ngày
thì nên thưa trước với Thầy, để Thầy tiện sắp xếp công việc và thời gian
mà giảng dạy, chứ không nên tùy tiện lúc nào cũng hỏi. Nếu Thầy đã hoan
hỷ đồng ý giảng giải và hẹn giờ gặp thì phải đến đúng giờ. Nếu có công
việc đột xuất thì nên gọi điện thoại thưa cho Thầy biết. Tránh gọi điện
thoại tới chùa vào những giờ chỉ tịnh (giờ nghĩ ngơi, tịnh niệm), trừ
khi có công việc quan trọng.
Nếu
muốn đọc tụng kinh sách thì nên thưa thỉnh quý Thầy chỉ dẫn cho ta
biết, cần phải đọc tụng những kinh sách gì cho phù hợp với căn cơ tu
tập. Phải biết trân quý kinh sách như tôn kính đức Phật và nên giữ gìn
cẩn thận, không tùy tiện bạ đâu để đó. Nếu thấy kinh sách dính bụi bặm
thì lấy khăn lau chùi sạch sẽ, chứ không nên dùng miệng để thổi.
Muốn thưa hỏi việc gì với Thầy, trước tiên nên nói câu: “Mô Phật bạch Thầy”. Khi Thầy hỏi hay dạy bảo điều gì thì nên dùng câu “Mô Phật”
để trả lời, chứ không gật đầu hay làm thinh. Xưng hô với Thầy lúc nào
cũng xưng Thầy với con, cho dù Phật tử lớn đến 100 tuổi. Không nên gọi Thầy ơi
và gọi lớn tên của Thầy giữa khoảng cách xa mà phải đến gần bên Thầy
rồi thưa hỏi. Quý Thầy là đại diện cho Tăng bảo, cho nên phải biết kính
trọng quý Thầy như nhau, chứ không nên phân biệt tuổi tác, hạ lạp.
Là
người Phật tử thì khi đi đến chùa hoặc gặp mặt nhau ở những nơi khác
cũng nên xưng hô bằng pháp danh, hạn chế sử dụng tên đời và chắp tay búp
sen xá chào nhau.
Phật
tử tại gia không được tùy tiện cạo tóc như người xuất gia. Nếu vì bị
bệnh thì có thể cạo tóc, nhưng không được mặc y phục thể hiện hình tướng
như người xuất gia. Vì ăn mặc như thế khiến cho mọi người lầm tưởng là
tu sĩ, nên họ cung kính xá chào thì phước đức của mình sẽ bị suy giảm và
nghiệp chướng nặng nề thêm lên.
Chương III. Thỉnh quý Tăng-Ni về nhà.
Nếu
có việc gì cần thỉnh quý Thầy thì y phục trang nghiêm và tác bạch tại
phòng khách, trừ khi Thầy miễn lễ. Nếu muốn thỉnh quý Thầy về nhà làm lễ
thì nên chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết cho buổi lễ, để tạo thêm phần
trang nghiêm và thanh tịnh. Trong các buổi lễ chỉ nên nấu nướng các món
ăn chay, tức là làm bằng rau, củ quả thực vật để dâng cúng cho tổ tiên,
ông bà và các loại cô hồn khác... Không nên dâng cúng thức ăn mặn, tức
là làm bằng các loài động vật. Phải quét dọn, lau chùi sạch sẽ trên bàn
thờ Phật và bàn thờ tổ tiên, v.v... trước khi quý Thầy đến nhà làm lễ.
Mặt khác, phải biết bố trí chỗ ngồi nghỉ, khăn lau mặt, nước uống và các
tiện nghi vệ sinh khác để khi quý Thầy cần sử dụng.
Nước
uống, hạn chế dùng những loại có hóa chất. Nên mời quý Thầy dùng nước
ép trái cây, nước mía, nước rau má, sữa đậu nành, sữa chua hoặc nước
lọc.
Khi
quý Thầy làm lễ thì mọi người trong gia đình phải quy tụ đầy đủ và cùng
nhau chắp tay trì niệm theo sự hướng dẫn của quý Thầy. Khi có người
thân qua đời thì đến trình bày cho Thầy biết sự việc, để Thầy hướng dẫn
và sắp xếp tang sự. Không nên lo sợ và đi tìm các thầy bùa chú, thầy
pháp thuật để xem ngày giờ, tốt xấu. Không nên giết hại các loài động
vật để cúng tế khi người thân lâm chung. Bởi việc làm này chỉ tạo thêm
ác nghiệp cho bản thân mình và gây ảnh hưởng xấu đối với vong linh.
Khi
biết người thân sắp qua đời thì nên đặt tượng Phật đối diện trước người
bệnh, đồng thời mở máy niệm Phật hoặc những người thân trong gia đình
cùng nhau niệm Phật, để trợ giúp cho người bệnh được ra đi nhẹ nhàng.
Không nên than khóc, kêu réo. Bởi làm như vậy chỉ tạo thêm sự quyến
luyến, tiếc nuối và sẽ hại đến cho người sắp lâm chung.
Những
buổi lễ diễn ra trong gia đình, các phật tử nên thỉnh quý Thầy thuyết
giảng Phật pháp cho mọi người có cơ duyên thấm nhuần đạo lý, để ứng dụng
vào trong cuộc sống hằng ngày được an vui và hạnh phúc!
Chương IV: Làm công quả
Làm
công quả cho chùa là một trong những pháp môn tu tạo phước đức. Do vậy,
nếu Phật tử tại gia có thời gian và sức khỏe tốt thì hãy đến chùa để
yểm trợ cho quý Thầy. Tuy nhiên, làm đến chiều ăn uống xong thì ra về,
chứ không nên ở lại qua đêm, trừ khi được chư Tăng trong chùa chấp
thuận.
Nếu
Phật tử muốn phụ giúp việc gì cho chùa thì phải thưa trước cho quý Thầy
biết, chứ không nên tự ý làm. Phải làm việc trong sự hoan hỷ và hết
lòng. Không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì khi làm công quả. Phải tùy vào
sức khỏe và thì giờ cho phép, không nên cố gắng làm để rồi bê trễ công
việc ở nhà.
Nếu
vào nhà bếp phụ giúp nấu ăn thì làm với tất cả tình thương và tài năng
vốn có của mình. Nên ý thức rằng, làm việc ở trong bếp với tất cả sự chú
tâm và hoan hỷ là một trong những pháp môn tu tạo phước đức cho tự
thân, và cũng là phẩm vật cao quý để cúng dường cho đại chúng.
Phải
sắp xếp thời gian cho rộng rãi, đừng để làm trong trạng thái hối hả và
hấp tấp. Đi đứng, nấu cơm, nấu canh, cắt gọt, xào rau, v.v... tất cả mọi
hành động cần phải làm nhẹ nhàng và uy nghi. Không nên nói chuyện, nhất
là những chuyện thị phi không dính líu gì đến sự tu học. Nếu cần hỏi
hay nói gì về công việc với người bạn đồng tu thì nên nói ngắn gọn, nhỏ
nhẹ vừa đủ nghe. Làm việc chung với các bạn đồng tu trong bếp cũng là
dịp để hiểu và thương nhau hơn. Nên luôn luôn hội ý với nhau để công
việc được điều hợp tốt đẹp.
Trong
lúc nấu ăn thì không nên để tâm trạng bực bội hoặc giận hờn, trách móc
ai cả. Bởi khi tâm ý tiêu cực ấy biểu hiện thì sẽ tác động vào thức ăn,
thức uống và nó tạo thành độc tố gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của đại
chúng. Vì vậy khi nấu ăn, ta phải có tâm hồn an vui và tươi mát!
Rửa
rau thì nên rửa cho thật kỹ càng; bởi khi trồng rau, người ta phun
thuốc trừ sâu rất nhiều. Vì vậy, khi rửa rau nên thay nước ít nhất là ba
lần, và chỉ sử dụng những chiếc thau, chậu riêng cho việc rửa rau. Khi
nấu nướng, luôn có những cái thìa riêng dùng để nêm nếm. Khi cần trộn
thức ăn bằng hai tay, phải đeo găng tay. Khi sắp thức ăn, phải dùng đũa
hoặc thìa. Không gãi đầu, ho hen hoặc khạc nhổ trong nhà bếp. Luôn luôn
giữ hai tay cho sạch. Đi vệ sinh xong, phải rửa tay sạch sẽ trước khi
tiếp tục công việc. Tránh đổ nước sôi vào bồn nước, ống cống hoặc đổ ra
đất. Vì ta làm như thế, sẽ giết chết rất nhiều côn trùng. Các dụng cụ
làm bếp sau khi sử dụng phải được lau rửa sạch sẽ và để lại vị trí cũ.
Tránh
vào nhà bếp, nếu không có phận sự trong đó. Tránh tụm ba, tụm năm ăn
uống, đùa giỡn trong bếp. Không sử dụng chén bát của đại chúng để đựng
thức ăn cho các con vật được nuôi trong chùa. Không nên nấu thức ăn mặn
cho chó hoặc mèo. Không lấy bất cứ thứ gì ở chùa để đem về nhà dùng, trừ khi được quý Thầy cho phép.
Chương V: Ăn cơm
Nghe
chuông báo giờ thọ thực thì dừng lại mọi việc và tuần tự thứ lớp đi đến
Trai đường. Nên kéo ghế nhẹ nhàng và thong thả ngồi xuống. Ngồi ngay
thẳng và chờ quý Thầy hướng dẫn tụng kinh trước khi ăn. Trong khi ăn
không được nói chuyện, không suy nghĩ việc quá khứ, tương lai chỉ nhiếp
tâm tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và mọi người quanh mình.
Ngồi
ăn như thế nào để có thể nuôi dưỡng sự hân hoan và niềm biết ơn trong
suốt bữa ăn. Trân quý mỗi hạt cơm, mỗi miếng thức ăn, không để động tâm
về chuyện ngon dở. Nhai thật kỹ thức ăn để tạo thành chất bổ dưỡng, và
đồng thời giúp cho bao tử được dễ dàng tiêu hóa tốt. Khi nhai thức ăn
nên ngậm miệng lại; không nên chép miệng, nhai nhóp nhép hoặc lua húp
thành tiếng. Đừng ăn miếng quá lớn và tránh khua bát đũa ra tiếng. Không
được đứng dậy giữa bữa ăn, không nên ăn xong đứng dậy trước, trừ khi có
công việc quan trọng. Không nên bỏ thừa thức ăn. Buổi chiều nên dùng
thức ăn nhẹ và ăn ít.
Chương VI: Vào nhà vệ sinh
Ở chùa lúc nào cũng có nhà vệ sinh dành cho khách. Vì vậy, Phật tử không tùy tiện đi vào khu vực nhà vệ sinh của chư Tăng.
Muốn
đi đại tiện hay tiểu tiện thì nên đi ngay, đừng chần chờ hoặc đợi đến
lúc bị thúc bách mới đi. Trước khi vào phải gõ cửa ba lần, dù biết trong
ấy không có người. Không nên thúc dục người trong nhà vệ sinh ra nhanh.
Không được đem kinh sách vào đọc. Không được mặc áo Tràng vào nhà vệ
sinh. Không khạc nhổ hoặc rặn ra tiếng. Vệ sinh xong, phải dội nước sạch
sẽ. Giấy vệ sinh dùng xong bỏ vào thùng cẩn thận, không được vứt bừa
bãi. Nếu giấy hết thì đi lấy cuộn mới lắp vào cho người đến sau dùng.
Tắm
rửa và giặt giũ phải biết tiết kiệm nước và điện. Không nói cười, ca
hát hoặc đọc kinh trong khi tắm. Đừng chiếm phòng tắm quá lâu để người
tới sau chờ đợi. Không tiểu tiện trong nhà tắm. Không nên treo khăn hoặc
quần áo của mình chồng lên vật của người khác. Không để vật cá nhân
trong phòng tắm để tránh làm cản trở người đến sau. Xà phòng tắm và dầu
gội đầu phải được sử dụng vừa phải, khi dùng xong nên để vào chỗ được
quy định. Các chậu, thau khi sử dụng xong, cũng cần được rửa sạch và úp
lại.
Khi
chải răng, không đi qua đi lại, nói chuyện và cười giỡn. Cúi thấp người
xuống bồn khi chải răng, để tránh làm văng nước tung tóe xung quanh.
Không
hút thuốc, khạc nhổ nơi có người đi qua lại. Nếu cần thiết thì phải tìm
chỗ kín đáo và cúi thấp người xuống để khạc nhổ. Khi ngáp hoặc xỉa răng
phải lấy tay che miệng lại.
Chương VII: Quan hệ với bạn đồng tu
Các Phật tử sinh hoạt chung trong một đạo tràng thì đôi lúc vẫn có sự hiểu lầm, nghi kị lẫn nhau. Do vậy,
mỗi khi ta có khó khăn với một người nào đó thì phải tìm mọi cách để
hóa giải khúc mắc ấy. Không đi than phiền về người đó với những người
khác, nhất là đi tìm đồng minh để chống lại người đó. Đây là mầm mống
của sự chia rẽ và xáo trộn. Vì vậy, bất cứ ai sinh hoạt trong đạo tràng
cũng phải có bổn phận tìm cách hóa giải ngay từ buổi ban đầu. Luôn ý
thức rằng, mỗi cử động, lời nói của ta rồi ai cũng sẽ biết và ta phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì ta đã làm và đã nói. Khi nói ra
điều gì về một người nào đó thì nên nói trực tiếp với họ, đừng qua trung
gian với người thứ hai.
Nếu
có người đến để than thở về những vấn đề của họ đối với người khác, ta
hãy tập ngồi lắng nghe để có thể giúp cho người ấy bớt khổ. Lắng nghe
với tâm rỗng rang và từ bi để thấu rõ cho hết cội nguồn. Căn cứ trên
nhận thức độc lập của ta, và hãy nhìn sâu để hiểu được cả hai phía. Ta
cũng nói cho người ấy nghe về những khó khăn, đau khổ cũng như điểm tích
cực và dễ thương của người kia, để người ấy nhớ lại hoặc nhìn nhận đó
là sự thực. Ta cũng khuyên người ấy đi tới với người kia để thiết lập
lại sự truyền thông. Nếu cần, ta tình nguyện đi với người ấy và yểm trợ
cho họ có khả năng nói ra hết sự thật. Ta tránh không liên minh với một
người để chống lại người khác, tạo thành thế tam giác của sự tranh chấp.
Nếu cảm thấy mình không có khả năng để hóa giải cho cả hai phía, thì
nên trình bày sự việc một cách trung thực cho Thầy biết.
Người
Phật tử đến chùa thì chỉ lo việc học hỏi đạo lý và làm công quả để vun
bồi phước đức, chứ không nên xen vào bàn luận việc sinh hoạt hoặc thời
khóa tu tập của chư Tăng.
Không
nói chuyện thị phi, tốt xấu, đúng sai. Không đem những chuyện ở bên
ngoài vào chùa bàn tán mà chỉ một lòng học hỏi và tu tập. Không đi loan
truyền những tin tức mà mình không biết chắc chắn là có thật.
Là người đi chùa trước thì phải có bổn phận chia sẻ cho những người đến sau hiểu rõ về việc sinh hoạt tu tập ở chùa.
Chương VIII: Nghe pháp thoại
Khi
tham dự các khóa tu Phật Thất, Bát Quan Trai, khóa tu Một Ngày An Lạc,
v.v... đều phải tắt nguồn điện thoại di động, hoặc cài đặt chế độ im
lặng, để giữ gìn sự trang nghiêm và thanh tịnh.
Nghe chuông báo giờ pháp thoại thì phải đi ngay, đừng bao giờ vào giảng đường sau vị pháp sư. Trong
khi nghe Thầy thuyết giảng thì phải ngồi ngay thẳng, mắt hướng về vị
giảng sư và lắng lòng nghe. Không tùy tiện đứng dậy đi ra, đi vào làm
ảnh hưởng đến thính chúng. Nên đi nhà vệ sinh hoặc sắp xếp mọi công việc ổn định trước khi vào giảng đường nghe pháp.
Khi
nghe pháp, tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật, ăn cơm, v.v... không được
dành chỗ ngồi, mà phải tuần tự thứ lớp, ai vào trước thì ngồi trước và
ngồi trong tư thế ngay ngắn, trang nghiêm.
Giáo
pháp của đức Thế Tôn được ví như một cơn mưa, có khả năng giúp cho
những hạt giống tuệ giác và từ bi nằm trong đất tâm của ta được thấm
nhuận, nẩy mầm và sinh trưởng. Vì vậy, trong khi nghe Thầy thuyết pháp,
ta phải ngồi cho ngay thẳng với tất cả sự chú tâm và cung kính. Trong
quá khứ đã có những người nhờ lắng tâm nghe pháp thoại mà giác ngộ đạo
lý giải thoát. Khi Thầy thuyết giảng, nên chuẩn bị trước một quyển sổ
nhỏ để ghi chép và chỉ nên ghi chép lại một số ý chính quan trọng.
Không được ăn uống trong lúc nghe pháp thoại hoặc nói chuyện với người ngồi bên cạnh.
Các thời khóa tu tập, đều phải đi đúng giờ quy định. Không được lề mề, trễ nải đi vào sau, để đại chúng chờ đợi.
Chương IX: Học hỏi đạo lý
Mục
đích của con người sống trên cuộc đời này là đạt đến sự an lạc và hạnh
phúc. Nhưng muốn có hạnh phúc thực sự thì đòi hỏi con người ấy phải có
từ bi và trí tuệ. Để sống trọn vẹn với hai chất liệu cao quý này thì
chúng ta cần phải học hỏi đạo lý. Do vậy, người Phật tử nên tìm hiểu,
tiếp cận và học hỏi đạo lý với chư Tăng-Ni, để tuệ giác vốn có trong ta
được thắp sáng.
Nếu
là người không có điều kiện để đến chùa học đạo thì nên tìm hiểu, học
hỏi qua những phương thức như sau: thỉnh băng dĩa, kinh sách tại các nhà
phát hành kinh sách Phật giáo về nghe và đọc hoặc vào các website như
là:
http://www.giacngo.vn,
http://www.daophatngaynay.com,
http://www.thuvienhoasen.org,
http://www.phattuvietnam.net,
http://www.matthuongnhindoi.com,
http://www.trungtamhotong.org,
http://www.langmai.org,
http://www.nghethuatphatgiao.com,
http://www.phapam.com,
http://www.chuahoangphap.com.vn,
http://www.phoquang.org,
http://www.buddhanet.net/budsas,
http://www.thuongchieu.net http://www.xaydungtinhhuynhde
Hoặc
download chương trình paltalk về máy và cài đặt, sau đó vào những Room
Phật giáo để sinh hoạt và học hỏi. Mặt khác, có thể tham vấn với quý
Thầy, quý Sư cô qua điện thoại hoặc gửi email… để được giải đáp.
Những
người đã phát nguyện quy y Tam bảo và thọ trì Ngũ giới rồi thì phải
dành thì giờ để đi chùa học hỏi đạo lý, chứ không nên chỉ đến chùa cúng
dường lễ lạy rồi ra về.
Người
Phật tử tại gia mỗi khi đã tiếp nhận Ngũ giới, Bát Quan Trai giới hay
là Bồ tát giới thì ít nhất trong mỗi tháng phải đến chùa đọc tụng hoặc
thỉnh quý Thầy giảng dạy về ý nghĩa và nội dung những luật nghi mà mình
đã thọ. Mặt khác, các Phật tử cũng nên chia sẻ, trao đổi với nhau để cho
việc hành trì giới luật đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.
Các
Phật tử không nên bình luận đúng sai, tốt xấu về các đạo giáo khác.
Không cho rằng, pháp môn của mình đang tu tập là đúng nhất và xem
thường, chê bai những pháp môn, tông phái khác.
Bởi các tông phái được hình thành là do đáp ứng nhu cầu cho từng hoàn
cảnh, xã hội và căn tánh của mỗi chúng sinh sai khác. Vì thế cho nên,
các pháp môn tu tập cũng cần phải có sự uyển chuyển, linh động và thêm
phần sáng tạo, nhằm đáp ứng cho đời một cách khế cơ.
Chương X: Thờ Phật và lạy Phật
Nếu
muốn thỉnh hình tượng Phật, Bồ tát về nhà để thờ thì không nên chọn
hình tượng có sơn phết màu đỏ lên môi, móng tay và móng chân của Ngài.
Bởi vì nếp sống của đức Phật rất là giản dị, không bao giờ Thế Tôn ăn
mặc lòe loẹt như vậy cả. Do một số nhà làm tượng không hiểu đạo lý, nên
đã họa vẽ sai lệch, làm mất đi tính giản dị và uy nghiêm của Ngài. Vì
vậy, nếu Phật tử muốn thỉnh tượng Phật về nhà thờ thì nên thưa trước cho
Thầy biết, để quý Thầy hướng dẫn và làm lễ An vị.
Thiết
kế bàn thờ Phật và Bồ tát tại tư gia bao giờ cũng để trước hoặc trên
bàn thờ tổ tiên. Bố trí bàn thờ không cao hơn đầu người đứng. Vì nếu quá
cao thì khó khăn cho việc thắp hương và không thấy rõ bụi bặm để quét
dọn lau chùi, cũng như leo lên, leo xuống khá nguy hiểm cho những người
lớn tuổi. Mặt khác, thờ Phật quá cao thì ta ít khi để ý tới hình ảnh của
Ngài hơn so với ngang tầm mắt. Nếu để hình tượng đức Phật ở những nơi
mà hàng ngày ta dễ dàng tiếp xúc thì khi nhìn thấy hình ảnh của Ngài sẽ
giúp ta rơi rụng những phiền muộn và lo âu. Do vậy, việc thiết kế và thờ
phụng rất là quan trọng.
Nên
thường xuyên lau chùi bụi bặm và rút chân nhang trên bàn thờ mỗi ngày.
Khi vào nhà ai thấy có thờ Phật, Bồ tát, chư vị Tổ sư thì nên chắp tay
cung kính xá chào và chờ người chủ nhà mời thì mới ngồi xuống.
Khi
đi vào chánh điện thì không đội mũ nón hoặc mang dép vào. Không cười
giỡn, nói lớn tiếng, huýt gió, ca hát, gọi điện thoại. Mũ nón, áo ấm,
túi xách, v.v... phải để đúng nơi quy định. Nếu đem hoa quả, hương đèn,
các lễ phẩm đến chùa cúng Phật thì nên đưa cho quý Thầy tùy nghi chưng
dọn cho phù hợp, chứ không nên tùy tiện đặt để.
Nếu
muốn cúng dường tiền bạc thì hãy bỏ vào thùng công đức. Không nên để
lung tung trên các bàn thờ Phật hoặc nhét tiền lên hình tượng đức Phật,
Bồ tát và chư vị A-la-hán. Không nên lấy tay xoa vuốt trên hình tượng
đức Phật, Bồ-tát và rồi bôi xoa lên thân thể của mình. Bởi vì hành động
này, chỉ dành riêng cho những người thiếu sự hiểu biết và mê mờ, họ xem
đức Phật như một vị thần linh có quyền năng ban phúc giáng họa, nên mới
thể hiện hành động đó. Còn người Phật tử chân chính, hiểu rõ đạo lý nhân
quả thì không bao giờ làm như vậy.
Không
tùy tiện đánh chuông, trống hay bất cứ pháp khí nào ở trong chùa. Khi
có người đang lễ lạy thì không được đi ngang qua trước mặt. Khi đi ngang
qua bàn thờ Phật thì phải cúi đầu. Không chắp tay sau lưng đứng trước
tượng Phật và chư vị Bồ tát.
Không
dùng miệng thổi nhang hay đèn khi thờ Phật. Không cầm nhang vừa đi vừa
đánh xa (vẫy tay). Mỗi lư hương chỉ cắm một cây nhang, nếu thấy trên lư
hương đã có nhang rồi thì chỉ tới lễ lạy thôi chứ không nên đốt thêm
nhang.
Khi lễ Phật thì áo quần phải chỉnh tề, trang nghiêm và thanh tịnh. Chắp
tay ngang ngực, các ngón tay không so le, tay không cầm vật gì. Không
đụng các ngón tay vào cằm hoặc vào lỗ mũi. Khi lạy, đưa hai tay lên
ngang trán, rồi hạ xuống ngang ngực trước khi xòe hai tay sang hai bên
và lạy xuống. Lạy Phật, năm vóc (đầu,
hai tay, hai chân) phải sát đất. Hai bàn chân duỗi thẳng ra, mông áp
sát xuống chạm vào hai lòng bàn chân. Tâm thành kính và đọc thầm danh
hiệu của Ngài. Khi vừa mới ăn cơm no, thì không nên lễ lạy, vì không tốt
cho hệ tiêu hóa.
Không
nên xem đức Phật như một vị thần linh có công năng ban phúc giáng họa.
Phải hiểu rằng, đức Phật là người cha lành của nhân loại, là bậc Thầy có
đầy đủ từ bi và trí tuệ để cứu giúp cho chúng sinh thoát khỏi luân hồi
sinh tử. Vì cảm niệm công ơn sâu dày ấy, nên chúng ta thành tâm cúng
dường và lễ lạy. Mặt khác, lạy Phật giúp ta diệt trừ tham sân si, cống
cao ngã mạn và tiêu trừ nghiệp chướng sâu dày, phước đức ngày càng tăng
trưởng.
Là người Phật tử thì không lễ lạy cầu xin mua may bán đắt, xem xăm bói quẻ, nhảy đồng bóng, đốt giấy tiền vàng mã, tin ông này,
bà nọ linh thiêng. Những hình thức như thế, chỉ là phương tiện để dẫn
dắt cho những người mê mờ đến với đạo, còn đối với người Phật tử chân
chính thì phải tin nhân quả nghiệp báo.
Người
Phật tử đã quy Tam bảo rồi thì không quy y ngoại đạo tà giáo. Không
nghe các học thuyết hoặc những huyền bí nào đó loan truyền một cách vu
vơ. Những tác phẩm hoặc băng đĩa, v.v.. không có ghi tên tác giả và chưa
biết rõ nguồn gốc như thế nào thì không nên xem. Các vị cần phải thưa
hỏi với quý Thầy về những ấn phẩm ấy, để cho việc tu học đúng với chánh
pháp. Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng, tất cả những việc tốt và xấu xảy đến
với chúng ta ngày hôm nay, là do cái nhân ta đã gieo trồng từ trước mà
có. Do vậy, người Phật tử chân chính thì phải tin nhân quả nghiệp báo,
gieo nhân tốt thì gặp quả tốt, chứ không tin vu vơ rồi đi cầu xin ông
này, bà nọ.
Là người Phật tử với nhau thì phải có bổn phận khích lệ và sách tấn các bạn đồng tu siêng năng đi chùa học đạo.
Chương X: Ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh và niệm Phật.
Nghe
chuông báo giờ ngồi thiền, phải lập tức ngưng mọi công việc và xem như
giờ thiền tập bắt đầu ngay từ lúc ấy. Theo dõi hơi thở có ý thức trong
mỗi bước chân đi đến thiền đường. Ngồi thiền là cơ hội để thu nhiếp thân
tâm, chế tác chất liệu an lạc và thảnh thơi. Ngồi thiền với đại chúng,
ta có thể thừa hưởng năng lượng tập thể và giúp cho ta thực tập dễ dàng
hơn.
Nên
mặc áo quần mỏng nhẹ và rộng rãi trong khi tọa thiền. Ngồi xuống rồi,
lập tức khởi sự điều chỉnh tư thế ngồi và hơi thở. Ngồi lưng thật thẳng
mà không cứng. Đầu ngay ngắn, không cúi xuống và cũng không ngửa ra. Đầu
và sống lưng làm thành một đường thẳng. Bàn tay phải đặt nhẹ lên bàn
tay trái. Buông thư tất cả các bắp thịt, từ các bắp thịt trên mặt xuống
đến các bắp thịt trên vai, lưng, cánh tay, bụng và chân. Ngồi thật thoải
mái và buông thư, đừng gò bó, đừng gồng mình. Mắt có thể nhắm hoặc mở
hé, nhìn xuống khoảng chừng một thước phía trước mặt. Ta nắm lấy hơi thở
vào và hơi thở ra để điều phục thân và tâm. Trong suốt buổi ngồi thiền,
sử dụng hơi thở có ý thức, đưa tâm về lại với thân, tạo ra trạng thái thân tâm nhất như, duy trì sự tĩnh lặng và sáng suốt.
Nếu
thân thể bị đau nhức thì nên sửa lại thế ngồi, miễn là mỗi động tác
được đặt trong chánh niệm tỉnh thức và tránh tạo ra tiếng động, làm ảnh
hưởng đến người ngồi bên cạnh.
Xả
thiền cần phải nhẹ nhàng, không nên thô tháo. Trước tiên, lay động nhẹ
đầu về phía trái rồi sang phía phải. Sau đó, xát nhẹ hai bàn tay rồi ấp
lên hai mắt cho có sức ấm. Dùng tay xoa bóp từ trên đỉnh đầu xuống toàn
thân. Xoa bóp các bắp thịt trên mặt, vai, lưng, ngực, bụng, hai cánh tay
và bắp chân. Mỗi nơi xoa bóp khoảng chừng hai mươi lần. Và luôn luôn rõ
biết từng hoạt động của cơ thể trong khi xả thiền.
Sau
giờ ngồi thiền, ta thực tập đi kinh hành hoặc tụng kinh. Kinh hành là
đi chậm rãi khoan thai, mỗi bước chân phối hợp với hơi thở vào hay một
hơi thở ra. Ta đi thật tự nhiên, nhẹ nhàng và duy trì khoảng cách giữa
ta và người đi trước ít nhất là một mét. Đừng nhìn qua, nhìn lại mà hãy
chú tâm tới sự xúc chạm giữa bàn chân và mặt đất. Buông lỏng toàn thân,
trên khuôn mặt điểm nhẹ nụ cười hàm tiếu, mỗi bước đi đều có khả năng
tỏa chiếu sự thảnh thơi và tự tại như đi trong thế giới của Tịnh độ
không khác.
Khi
tụng kinh, phải để hết tâm ý vào lời kinh. Nên chú ý từng nhịp mõ để
tụng theo với đại chúng cho đều đặn. Không nên bắt giọng quá cao hay quá
thấp, mà mỗi âm điệu phải hòa vào với đại chúng.
Khi
niệm danh hiệu Phật hoặc chư vị Bồ tát thì tâm ý phải bám sát vào danh
hiệu của các Ngài. Tâm luôn luôn rõ biết từng chữ một; từ chữ đầu tiên
cho đến chữ cuối cùng không để kẽ hở. Nghĩa là, không có những ý niệm
khác xen lẫn vào, tâm chỉ thuần túy và trọn vẹn với câu niệm Phật.
Chương XII: Bảo vệ môi trường
Người
Phật tử phải ý thức về việc bảo vệ môi trường xanh, sạch và đẹp từ
trong nhà ra ngoài xã hội. Bất cứ đi đến đâu cũng không tùy tiện xả rác
bừa bãi. Bởi tình trạng trái đất bị hâm nóng
đã đưa đến nguy cơ động đất, sóng thần, bão lụt... làm phát sinh nhiều
bệnh tật và giết chết hàng trăm triệu người trên thế giới. Là học trò
của đức Thế Tôn thì phải có lòng từ bi thương xót mọi loài chúng sinh.
Tích cực tham gia bảo vệ môi trường, chăm sóc và trồng thêm nhiều cây
rừng, nhằm đem lại sự mát mẻ, an bình cho tự thân và cho cộng đồng xã
hội.
Ở
trong gia đình chúng ta cần phải biết sử dụng các tiện nghi vừa đủ,
không nên tiêu sài quá phung phí. Khi dùng điện nước phải hết sức tiết
kiệm. Nhớ tắt máy vi tính hoặc các loại máy móc khác sau khi đã sử dụng.
Nên dùng loại bóng đèn có thể tiết kiệm được năng lượng. Đi ra khỏi
phòng phải nhớ tắt đèn. Nếu không có việc gì cần thiết thì hạn chế việc
đi lại, nhằm tiết kiệm xăng dầu và giảm thiểu chất CO2 thải ra làm ô nhiễm môi trường.
Thuốc
lau chùi, xà phòng giặt, giấy vệ sinh, giấy viết thư, v.v... nên dùng
loại hữu cơ để các thứ này có thể dễ dàng chuyển hóa trở lại. Trong vườn
nhà, nên trồng rau trái theo phương thức “sạch”, nghĩa là không nên sử
dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học.
Bao
túi ny-lông rất khó phân hủy, dồn chứa lâu ngày sẽ tạo thành những đống
rác khổng lồ. Vì vậy, khi đi chợ ta nên đem theo giỏ xách để đựng vật
dụng, nhằm giảm thiểu sử dụng túi bao ny-lông.
Chuyển
hóa tất cả những thứ rác nào có thể chuyển hóa được như giấy, nhựa, hộp
thiếc, thủy tinh, dầu ăn đã chiên nhiều lần, dầu từ máy móc, pin, gỗ
cũ, cành lá, v.v... Trước khi đem bỏ thùng rác, ta nên phân loại kỹ
lưỡng. Giấy màu, giấy dầu, giấy báo, giấy có chất nhôm và bìa cứng, mỗi
loại đều phải để riêng và cột lại thành từng bó. Các chai nhựa phải được
súc sạch, tháo nắp để riêng và đạp dẹp để không chiếm chỗ. Sau khi xắt
gọt và lặt rau, các loại vỏ trái cây, củ, cuống rau và lá hư đều được
cắt nhỏ để dùng làm phân xanh. Trong trường hợp chưa làm kịp, nên đậy
lại để tránh ruồi muỗi.
Người
Phật tử đến chùa phải nắm vững những uy nghi này, bởi đây là vấn đề căn
bản ở bước đầu học Phật, mà Phật tử tại gia cần phải hiểu biết. Nếu
chúng ta đến chùa nhưng không hiểu gì về những luật nghi như đã trình
bày ở trên thì sẽ dễ dàng tạo ra phiền não, tội lỗi. Vì vậy, chúng ta
cần phải học hỏi và thực tập để xứng đáng là người Phật tử chân chính,
nhằm góp phần xây dựng nếp sống tốt đẹp, văn minh cho gia đình và cho
cộng đồng xã hội .
Kính chúc quý vị tinh tấn tu tập.
Thân cận người xuất gia
Học hỏi và thực tập
Chuyển hóa nghiệp xấu ác
Là phước đức lớn nhất.
Viên Ngộ