Theo triết lý Prasangika
Madhyamaka, vô minh này được gọi là “quan điểm liên quan đến thủ uẩn”
(Tib’jig tshogs la lta ba ma rig pa). tất cả phiền não và các khổ đau do
phiền não gây ra đều có nguồn gốc từ quan điểm xem trọng thủ uẩn sai
lầm này. Nó là cái tâm bám vào bản ngã như là có thật, cố hữu , nó là
cái tâm chấp vào các thủ uẩn, và chính cái tâm này được gọi là quan điểm
xem trọng thủ uẩn.
Chấp vào sự tồn tại thực sự cảu những cá thể khác được gọi là vô
minh, nhưng điều đó không được gọi là quan điểm xem trong thủ uẩn. Quan
điểm xem trọng thủ uẩn này được xem là nguyên nhân chính làm cho một
người vĩnh viễn trôi lăn mãi trong vòng luân hồi. Hình thức vô minh này
làm khởi lên ham muốn và sự chấp thủ. Nó thu hút các phiền não khác
giống như nam châm hút sắt. Dưới ảnh hưởng của vô minh và sự chấp thủ
gây ra từ nó trong một bánh xe nước. Ngay khi hình thức vô minh này tạo
tác các quá trình tâm của chúng ta không có tự do, không có ý muốn của
riêng chúng và không cả sự lựa chon. Chúng tạo tác chỉ đơn giản bởi vì
các hoàn cảnh bên ngoài.
Một sự tương tự cổ điển khác để minh hoạ ảnh hưởng cảu ham muốn và
chấp thủ là hình ảnh một con nai bị kéo về phía tiếng nhạc ngọt ngào của
đây đàn lute và rồi bị giết bởi sởi dây của người thợ săn. Cũng như vậy
chúng ta bị kéo về phái chấp thủ và kẹt trong vòng luân hồi. Tương tự
như thế, sự chấp thủ lớn của con ngườ và sự bám víu vào danh vọng trở
thành nguồn khổ đau. Vượt ra ngoài ham muốn chấp thủ đối với sự khen
ngợi, danh tiếng, chúng ta cố gắng hết sức để đạt được những điều này
nhưng trong quá trình đó, chúng ta tìm thấy những kết quả ngược lại với
những gì chúng ta mong muốn. Trong sự chấp thủ của cải và thực phẩm,
chúng ta trở thành giống như những con ong mắc bẫy và chết trong mật
ngọt trong chinh tổ ong của chúng, giống như những con buốm đêm bị hấp
dẫn về phía ngọn lửa và bị huỷ diệt trong đó, giống như con cá chạy theo
mồi câu và bị mắc câu.
Bằng vào các sự tương tự này, chúng ta có thể thấy được tất cả chúng
ta bị lôi kéo bởi sức mạnh của ham muốn và chấp thủ như thế nào. Trong
quá trình này, chúng ta đương đầu với nhiều loại khổ đau, cả những khổ
đau vì không đạt được những gì chúng ta mong muốn ( cầu bất đắc khổ) và
những khổ đau gặp phải những điều chúng ta không muốn (oán tằng hội
khổ). Tóm lại, sự chấp thủ phát khởi nhiều vấn đề, gây ra những khổ đau
cả về thể xác lẫn tâm hôn. Khi không có chấp thủ, một người sẽ không
phải đương đầu với khổ đau đó. Một người có thể ứng dụng điều này vào
mỗi điều tương tự được cho trên đây. Trong khi kinh qua sự chấp thủ, một
người có lẽ sẽ có được một ý thức về sự thoả mãn hay thích thú nào đấy,
nhưng đột nhiên nó lại làm phát khởi các loại khổ đau khác nhau.
Candrakirti kết luận đoạn giản trên bằng cách bày tỏ sự tôn kính lòng
từ bi lớn của Đức Phật đối với chúng sanh, nhưng sự tôn kính này cũng
ngầm dành cho tuệ giác nhận diện hư vô. Phương pháp và trí tuệ phải luôn
đi đôi. Trong một số văn cảnh, từ giai đoạn của con đường đi đến sự
tỉnh thức tâm linh rất rõ ràng dứt khoát, trong khi tuệ giác nhận diện
hư vô không biểu lộ ra. Trong vài ngữ huống khác, tuệ giác nhận diện hư
vô rõ ràng dứt khoát còn các giai đoạn của con đường không lộ rõ. Tất cả
điều này phải được tổ hợp lại. Nếu một người chấp vào sự tồn tại có
thực của một đối tượng. Điều này sẽ làm khởi lên sự chấp thủ. Tuy nhiên,
nếu một người không chấp vào sự tồn tại có thực của một đối tượng, điều
này sẽ làm khởi lên sự chấp thủ. Tuy nhiên, nếu một người không chấp
vào sự tồn tại có thực một đối tượng, sự thấp thủ sẽ không được tạo ra.
Vì lí do này, một người nên chống lại sự chấp thủ bằng tuệ giác nhận
diện hư vô.
Hãy nhớ lại xem chúng ta bị đánh lừa bởi việc chấp vào sự tồn tại
chắc thực như thế nào. Chúng ta bắt đầu từ một tình trạng bối rối mơ hồ.
Rồi chúng ta gnắ nhãn mác cho mọi vật, sau đó chúng ta nhận diện đối
tượng theo nhãn mác cho đến khi chúng ta trở nên tin rằng “Đây là cái
này” và “đây là tôi”. Đây là một điểm rất quan trọng vì vậy không nên
quên nó. Cho đến chừng nào chỉ có hình dáng của đối tượng và chúng ta
gán cho dáng vẻ đó một nhãn mác thì không có sự dối gạt. Tuy nhiên vì
thói quen của chúng ta đối với những danh xưng của các hiện tượng, chúng
ta sẽ có một thời gian khó khăn tìm hiểu sự khác biệt giữa bản ngã
Bản ngã bị nắm bắt sai lệch bởi vô minh nên bị loại bỏ, nhưng chúng
ta không nên bác bỏ bản ngã tồn tại theo qui ước, thì giống như nhìn vào
một người và nói: “ồ, tôi không thấy người này”, hay chúng ta có thể sẽ
nhìn vào một người khác và nói: “tất cả những gì tôi thấy là cơ sở danh
xưng một con người hay hình dáng được nhìn thấy của một cơ thể”. Đây
không phải là cách nói, không thể duy trì bất cứ kiểu sử dụng ngôn ngữ
biện minh nào trong cách này. Chúng ta sẽ đang phủ nhận là bản ngã đơn
thuần được định danh, nhưng chúng ta sẽ không phủ nhận bản ngã bị bác bỏ
bởi các phương pháp của tuệ giác nghiên cứu thể tánh của hư vô. Lại một
lần nữa, bản ngã bị phủ nhận là bản ngã bị chấp chặt bởi vô minh.
Để bác bỏ sự tồn tại của bản ngã do vô minh chấp chặt, cần phải hiểu
vô minh chấp vào đối tượng của nó thực hiện sự hiện hữu như thế nào.
Hiểu được cách vô minh nắm bắt đối tưởng của nó là hiểu được các hiện
tượng bị nắm bắt như thể chúng thực hiện sự hiện hữu vậy.
Gen Lamrimpa
Trích từ sách “Tìm về thực tại”