Thí dụ Phật có Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong Phật. Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn,
trời, người, A tu la và phi nhân đều có hạt giống Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong
họ. Vì thế nếu biết lắng nghe tiếng âm thanh huyền diệu đó thì ai ai cũng đều
có cả. Quán là xem xét, Thế Âm là âm thanh của cuộc đời cho nên Quán Thế Âm là
xem xét âm thanh của thế gian. Nếu hiểu theo nghĩa thông thường của nhân gian
thì Quán Thế Âm Bồ Tát tu hạnh từ bi cho nên ngài có thể lắng nghe tiếng kêu
thân của chúng sinh mà hiện thân để hóa độ. Nhưng mục đích tu học phẩm Phổ Môn
là học cách giữ Diệu Âm ở lại trong cõi đất tâm của mình. Vì cõi đất tâm của
chúng sinh chất đầy phiền não mê lầm nên nếu biết giữ Diệu Âm, biết lắng nghe
tiếng nói thanh tịnh nhiệm mầu thì cõi đất tâm Ta Bà đó sẽ được trang nghiêm,
đẹp đẽ, thanh tịnh và tự tại hơn.
Kinh
Pháp Hoa là kinh tối thượng thừa nên khi đọc đến phầm này, người tu Phật phải
mạnh dạn loại bỏ ngay những tư tưởng nhân gian, những tập quán mê tín của những
người bình dân tuy có đức tin nơi đức Phật với một tấm lòng tốt, nhưng đức tin
đó chỉ thuần về tình cảm mà không có lý trí cho nên không phải là Chánh tín. Vì
tin một cách mù quáng cho nên họ cầu nguyện, van xin Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu
lời cầu nguyện đó không thành đạt thì họ sẽ mất lòng tin, xa lìa Phật pháp thậm
chí còn bỏ đạo vì họ nghĩ rằng Bồ Tát hết linh. Còn nếu đạt được lời cầu nguyện
đó thì chẳng qua là nhân duyên quả báo đã đến lúc ứng hiện cho nên phước đức
hiễn bày thế thôi. Nhưng vì không thông hiểu Phật pháp nên càng nhắm mắt tin
vào thần linh một cách mù quáng. Nên nhớ đạo Phật không phải là tôn giáo nghĩa
là đạo Phật không có thần linh mà đức Phật chỉ là đấng đạo sư, là người chỉ
đường để giúp cho chúng sinh tận diệt phiền não khổ đau mà có an lạc Niết bàn.
Toàn bộ giáo lý Phật Đà dựa trên thuyết nhân quả và không bao giờ ra ngoài
thuyết nhân quả nghĩa là mình gieo nhân bao nhiêu thì chính mình sẽ gặt hái bấy
nhiêu kết quả. Vì vậy, nếu chúng sinh hiện đang sống khỏe mạnh, làm ăn phát
đạt, gia đình hạnh phúc ấm no, con cái nên người, trên thuận dưới hòa là họ
đang thọ hưởng “KẾT QUẢ” của phước báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước do
chính họ tạo tác chớ không phải do Phật trời ban phát và chắc chắn cũng không phải do
cầu nguyện mà có được.
Ngược
lại, nếu chúng sinh hiện đang gặp nghịch cảnh, luôn đối diện với phiền não khổ
đau trái ý nghịch lòng thì họ đang gánh chịu “HẬU QUẢ” của nghiệp báo do
chính họ tạo tác từ nhiều đời nhiều kiếp chớ không do Phật trời giáng họa cho
và dĩ nhiên cũng không do cầu nguyện mà tránh khỏi được. Một khi đã hiểu thấu
đáo sự công bình của luật nhân quả, chúng sinh sẽ mạnh dạn hơn, can đảm hơn,
dám nhận lãnh “hậu quả” do
chính mình tạo tác hay an nhiên thọ hưởng “kết quả” tốt lành cũng do chính mình tác tạo mà không còn than
trời oán Phật nữa. Nhân quả cần thời gian để tác dụng mà nhà Phật gọi là “dị
thời, dị thục” nghĩa là một người tuy làm rất nhiều điều thiện, nhưng hiện tại
có thể gặp nhiều nghịch duyên bởi vì những chướng duyên đó là do những đời quá
khứ chuyển đến nên nó trở thành “hiện hành”. Còn những việc thiện đang làm mới
là những “chủng tử” nên chưa có cơ hội (duyên) tức là phải cần thời gian để trở
thành hiện hành. Cũng như vào mùa xuân chúng ta gieo rất nhiều hạt cải, hạt
đậu…nhưng cần đến vài tuần, có khi cả tháng thì mới thấy chúng nẩy mầm, sinh
cây, sinh cành, sinh lá.
Kinh Lăng Nghiêm giải thích rất rõ ràng rằng khi Phật thọ trai thì chư
Tăng không thể no được nghĩa là ai ăn người ấy no, ai tạo phước người ấy hưởng,
ai gieo nhân ác thì trước sau cũng phải thọ lãnh quả bất thiện vì thế không có
vấn đề van xin cầu nguyện trong Phật giáo bởi vì Phật trời không bao giờ can dự
vào chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh mà chúng sinh phải tự mình giải
quyết. Đức Phật là vị thầy cao cả nhất, là vị đạo sư vô thượng giúp chúng sinh
hoàn thành sứ mạng đó.
Nhĩ căn có đủ 1200 công đức bởi vì cái nghe thì không ngăn ngại bởi vật
chất nên ở trong cũng nghe, ở ngoài cũng nghe, bên trên cũng nghe, ở dưới cũng
nghe. Nói chung tai có thể nghe được âm thanh bất cứ từ nơi nào. Hễ có âm thanh
là tai nghe được. Ngược lại nhĩ căn cũng có đủ 1200 điều kiện khiến chúng sinh
tạo nghiệp nếu họ không tự chủ được cái nghe nghĩa là để cái nghe chạy theo
thanh trần, chạy theo tiếng thị phi phải quấy, chạy theo âm thanh quyến rũ của
cuộc đời là động lực của vô minh phiền não. Ngoài ra nhĩ căn có ba đức tính là
Viên, Thông và Thường. Thứ nhất “Viên” tức là viên mãn nghĩa là ở đâu mà có âm
thanh thì tai có thể nghe được. Đức tính thứ hai của tai là “Thông” tức là
không bị ngăn bít. Thí dụ một người đánh trống ở căn nhà kế bên mà chúng ta có
thể nghe được tiếng trống rất rõ ở trong nhà mình. Đức tính thứ ba là “Thường”
tức là lúc nào cũng nghe. Thí dụ như có âm thanh thì nghe tiếng tức là nghe động.
Còn không có âm thanh thì tai nghe tĩnh. Vì thế khi tham thiền nhập định, tuy
rất yên lặng, không có tiếng động, nhưng hành giả vẫn có thể nghe rất xa và rất
rõ những âm thanh huyền diệu mà được gọi là Diệu Âm.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quán Thế Âm nói về pháp tu “phản văn văn tự
tánh” nghĩa là không xuôi chạy theo âm thanh động, tĩnh mà xoay trở lại tánh
nghe của mình.
Quán Thế Âm là quán cái “tánh nghe” không tăng không
giảm, không biến chuyển thay đổi, không sinh diệt và bao trùm khắp mười phương.
Tánh nghe thì lúc nào cũng có, khi có âm thanh là nghe tiếng còn không có
tiếng, vắng lặng là nghe tĩnh đến khi không còn nghe động hay tĩnh tức là dứt
được năng văn, sở văn. Khi tai nghe âm thanh động, tĩnh từ bên ngoài (sở văn) thì tâm liền buông
bỏ, quên đi sở văn nghĩa là nghe thì cái gì cũng nghe mà thật ra chẳng nghe cái
gì hết tức là năng văn, sở văn trở nên vắng lặng, không nghe bên ngoài mà chẳng
còn nghe bên trong. Mặc dù động, tĩnh vẫn còn nhưng không quan tâm cái gì hết.
Muốn thực hành tánh nghe được rốt ráo thì trước hết hành giả phải cố gắng thực
tập cái nghe. Nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì hết, hay không nghe gì
hết mà vẫn nghe tất cả. Đây là cách nhiếp căn tai lại không cho chạy theo thanh
trần tức là âm thanh động, tĩnh, thị phi, phải quấy, tốt xấu. hơn thua… bên
ngoài. Nên nhớ căn mắt và căn tai là hai cơ quan nhạy bén nhất của con người
nên dễ tiếp xúc, cảm nhận và phân biệt trần cấu mà phát sinh ra vọng tưởng. Do
đó nghe thì cái gì cũng nghe mà nhưng
không chấp đem nó vào tâm nên chẳng cần quan tâm lưu ý cái gì hết thì tâm không động. Và
cứ như thế mà thực hành lối tu này thì đến lúc năng văn, sở văn hoàn toàn không
còn nữa.
Bây giờ không trụ vào chỗ nghe hay không nghe nghĩa là cái nghe thì đã
không nghe rồi, nhưng cái không nghe thì cũng không vương mắt, chấp vào chỗ cái
không nghe mà trong ta chỉ còn có một cái tánh giác mà thôi. Nói cách khác
trong tâm bấy giờ tất cả những ý niệm cho dù là thiện, ác cũng không còn thì
tánh giác xuất hiện. Nhưng nếu hành giả cố giữ ý niệm về giác thì cũng không
được mà phải xóa bỏ luôn ý niệm năng giác về mình và sở giác là đối tượng giác
mà mình cố giữ gìn, bám vúi vào đó. Sau khi đã xóa bỏ hoàn toàn năng giác, sở
giác thì tâm rỗng rang lặng lẽ và thấy vạn pháp như rỗng Không. Rỗng Không là
thấy vạn pháp là đối tượng “sở không” còn trí của mình là “năng không” nên mới
có sự phân biệt năng không, sở không. Sau cùng hành giả phải diệt hết cái biết
trống không tức là đừng bám vúi vào cái giác tri rỗng không ấy tức năng không,
sở không cũng bỏ hết, chẳng còn gì để phân biệt. Năng Không và Sở Không đều
diệt mất tức là đã giải thoát khỏi pháp. Sau cùng ý tưởng về sanh diệt cũng
diệt luôn nghĩa là dù biết thế giới là sinh sinh diệt diệt, nhưng hành giả phải
diệt đi cái quan niệm sinh diệt của vạn pháp chớ đừng thấy vạn pháp sinh mà vui
mừng, tham đắm, say mê và vạn pháp diệt thì phiền não, khổ đau. Thí dụ còn thấy
mình tu để diệt vô minh phiền não là ý niệm sinh diệt, cần phải diệt vì thế
gian chẳng có cái gì là vô minh phiền não cả. Nếu tâm không còn dính mắc thì
tìm đâu ra phiền não vô minh vì phiền não vô minh đâu có thật! Vì thế nếu hành
giả diệt được ý niệm sanh diệt nghĩa là thấu hiểu vạn pháp là vô thường sinh
sinh diệt diệt cho dù con người có quan tâm thì nó cũng sinh diệt hay chẳng cần
để ý đến thì nó cũng sinh diệt như thường nên họ nhìn vạn pháp một cách trực
giác, hồn nhiên thì chính họ sẽ có cái vui tịch diệt. Sanh diệt đã diệt thì
Tịch Diệt hiện tiền nghĩa là tự tánh Bồ Đề hiển hiện tức là vào Tam-ma-đề,
chứng vô sanh pháp nhẫn. Đó là Thường Chân Thật vậy.
Khi xoay tánh nghe vào trong để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng
mình thì những âm thanh bên ngoài đâu còn lọt vào tâm của ta. Khi tu thiền định
thì họ cắt đứt những đối tượng nghe bên ngoài. Do đó khi tu thiền định, hành
giả nên tìm nơi thanh vắng yên tịnh thì dễ xoay tâm vào bên trong mà không bị
sở văn chi phối. Con người có sống trong phiền não khổ đau cũng chỉ vì bị đối
tượng sở văn lôi cuốn. Nghe một bài ca hay, một tiếng đàn lưu loát, tiếng nói
dịu dàng, lời khen êm ái hay tiếng chửi xót xa…tất cả đều là đối tượng sở văn
cả. Càng chạy theo tiếng nghe bên ngoài thì tâm càng vọng động, không làm chủ
được bản tâm của mình nên dễ rơi vào vô minh phiền não mà phải gánh chịu bao
nỗi ưu bi buồn phiền. Ngược lại biết xoay tánh nghe vào trong thì bít hẳn sở
văn nên con người sống trong an nhiên tự tại thì gông cùm xiềng xích làm sao
đụng đến ta được. Vì thế chúng sinh phải
lắng nghe âm thanh mầu nhiệm thường xuyênliên tục ở trong lòng cho dù có âm
thanh bên ngoài hay không. Tiếng nghe đó phát xuất từ tiếng lòng thanh tịnh của
mình tức là Diệu Âm, là Quán Thế Âm vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Vô Tận Ý
(Infinite Thought) lễ Phật bạch rằng:
-Thế Tôn ! Do nhân duyên nào mà
Bồ-tát Quán Thế Âm có tên là Quán Thế Âm.
Vô tận ý là ý tưởng không cùng, không dứt, sâu tuyệt cho nên Bồ Tát Vô Tận
Ý là người có khả năng tư duy rất sâu thẳm, suy nghĩ đến chỗ sâu tuyệt tận
cùng. Vậy Vô tận ý Bồ Tát chính là biểu tượng cho tưởng uẩn của chúng ta.
Vậy thế nào là tưởng uẩn?
Tưởng uẩn nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái
gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác
quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài
như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản
nhạc đó là loại gì...; hai là
khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những
khái niệm, hồi tưởng ký ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy,
cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. Vì vậy, tri giác là một
trong những tác dụng của thức.
Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, phàm tri giác gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại,
nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn".
Như vậy, những tri giác về các đối tượng bên ngoài, bên trong, thuộc thời gian,
không gian, đơn giản hay phức tạp đều gồm trong tưởng uẩn. Tri giác là tri giác
về cái gì, không thể có một tri giác thuần chủ thể; vì vậy, tưởng bao gồm mọi
nhận thức về thế giới vật lý, tâm lý. Tuy nhiên, thế giới vật lý, tâm lý ấy
được ký hiệu hóa, khái niệm hóa, nên giữa tri giác và thực tại luôn có một
khoảng cách.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri
giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua như khi thấy đóa hoa hồng biết đây
là đóa hoa hồng, cái tri giác về đóa hoa hồng đã có sẵn (chủng tử trong A lai da thức) nên cái kinh
nghiệm đã cho biết đó là đóa hoa hồng. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh
nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động.
Tri giác tồn tại có điều kiện, vì vậy chúng là vô thường,
trống rỗng và do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà chúng ta thường gọi
là vọng tưởng. Nội dung
của đoạn kinh này là phá tưởng uẩn tức là phá cho hết tất cả vọng tưởng để trở
về với tánh giác thường thanh tịnh của chính mình.
Phật bảo:
-Vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang bị khổ não mà nghe
Bồ-tát Quán Thế Âm rồi “ nhất tâm” xưng niệm danh hiệu của Bồ-tát thì tất
cả chúng sanh ấy đều được giải thoát khổ não.
Chung sinh cho dù có bị khổ não đến mức nào mà nghe đến danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm rồi phải “nhất tâm” xưng niệm danh hiệu đó thì những phiền não ưu
bi kia đều tan biến.
Vậy thế nào là niệm Nhất tâm?
Khi một hành giả đạt đến trình độ nhất tâm là đang thực hành: “Niệm mà chẳng niệm”, nghĩa là vẫn
niệm nhưng chẳng có thêm vào một ý niệm là có ta đang niệm. “Chẳng niệm mà niệm”, lúc này, danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cứ tuôn chảy tự nhiên như dòng thác mà chẳng gián đoạn.
Do đó, hành giả thấy căn bản của nhất tâm là không có tâm phân biệt “niệm” hay
“không niệm”, “phân minh” hay “không phân minh”. Khi tu tập, tránh trường hợp
thấy mình niệm Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm rất hay rất tốt, không có vọng niệm,
đây chẳng phải là nhất tâm mà là loạn tâm. Tại sao vậy? Bởi vì hễ còn có cảm giác mình niệm rất tốt
hay còn ý niệm tức là còn vọng tưởng.
Nên nhớ trên thế gian này không có cái gì gọi là “vô niệm” cả bởi vì đạt
đến chỗ vô niệm mà mình biết vô niệm thì lúc ấy không còn là vô niệm nữa mà trở
thành ý niệm rồi. Còn nếu không biết được thì làm sao biết mình đến chỗ vô
niệm?
Lục Tổ dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn rằng:
-Nầy Thiện tri thức! Trí tuệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết bổn
tâm mình, nếu biết bổn tâm tức là gốc của sự giải thoát. Nếu được giải thoát
tức là Bát Nhã tam muội, tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả
pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm.
Thế thì vô niệm dựa theo Lục Tổ là Chánh niệm tức là không dính mắc, luôn
làm chủ tâm mình, trong ngoài tự tại tức là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
vậy.
Thường người niệm Phật, không có vọng niệm thô cũng có vọng niệm tế phân
biệt “tôi đang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm”. Đây là ý thức phân
biệt. Tôi là năng niệm, danh hiệu Phật hay Bồ Tát là sở niệm thì đây cũng là
vọng tưởng. Do đó càng công phu tiến lên đến khi Phật hay Quán Thế Âm từ ngoài
trở thành tâm của chúng ta thì năng sở biến mất và đạt được nhất tâm.
Có nhiều người khi tu, thấy mình có tu, người khác không tu hoặc tu không
bằng mình, đây là tâm phân biệt. Nếu hành giả không tỉnh biết thì càng tu càng
ngạo mạn, nhân ngã… Cho nên, người niệm Phật hay Bồ Tát tức là “năng” còn danh
hiệu Phật hay Bồ Tát là “sở”, năng sở hợp thành một. Khi ấy, thâu nhiếp cả ba
là: Căn, Trần, Thức đưa đến nhất tâm.
Do đó nếu chúng sinh hiện đang cưu mang biết bao phiền não khổ đau, bây
giờ ngồi yên tịnh, chú tâm vào niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm đến khi những
vọng kiến tình thức từ từ tan biến thì tâm sẽ được an tịnh và họ vượt thoát
khỏi mọi khổ ách. Khổ ách là vì chúng ta quá lo âu, đầu óc luôn tính toán phải
quấy, hơn thua, lợi hại, tốt xấu…nên cõi tâm chất đầy vọng tưởng. Bây giờ quay
về “cột tâm vào niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm” thì những vọng tưởng trong
cõi đất tâm từ từ tan biến đến khi được nhất tâm nghĩa là trong cõi đất tâm lúc
ấy chỉ còn tiếng thanh tịnh, huyền diệu nhiệm mầu Diệu Âm phát ra khiến cho
lòng ta hân hoan thanh thoát và có an lạc tự tại. Nhất tâm là trạng thái tâm đã
hoàn toàn an định nên không còn vọng tưởng. Ngược lại nếu không đạt được nhất
tâm thì trạng thái an định kia chỉ là nhất thời cho nên vọng tưởng sẽ trở lại
và lúc đó phiền não đau khổ sẽ trở lại như xưa.
Ngày nay có rất nhiều người niệm Phật sổ tức nghĩa là vừa niệm Phật vừa
đếm hơi thở. Đếm hơi thở là thiền sổ tức cho nên lối niệm Phật này đưa hành giả
đến chỗ nhất tâm nhanh hơn. Hành giả theo dỏi từng hơi thở ra vô rất nhịp
nhàng. Hơi thở vô hành giả niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” rồi hơi thở ra cũng
niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm đến chỗ “Niệm mà chẳng niệm” và “Chẳng
niệm mà niệm” thì lúc đó hành giả có nhất tâm bất loạn và tất cả phiền
não khổ đau sẽ không còn.
Mới nghe chúng ta nghĩ rằng phương pháp này là do Bồ Tát Quán Thế Âm gia
bì, trợ giúp, nhưng trên thực tế thành công hay không là do công phu hành trì
của hành giả tức là tự lực chớ không có tha lực gì hết.
Người nắm giữ danh hiệu
của Bồ-tát Quán Thế Âm thì nhờ oai thần của Bồ-tát mà:
1)Vào lửa, không bị lửa
thiêu.
Thế thì khi thấy nhà mình đang cháy liền trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán
Thế Âm rồi chạy vào trong nhà thì mình có bị cháy không? Nếu bị cháy thì oai
thần của Bồ Tát ở đâu? Phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa là kinh tối thượng thừa,
là vua của các kinh cho nên nếu hiểu theo “Sự Tướng” cạn cợt thì còn gì ý nghĩa
thậm thâm vi diệu pháp. Không thể nói rằng trong một làng đó nhà ai cũng cháy
chỉ có nhà của một người đang niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là không cháy. Bồ Tát
Quán Thế Âm là vị đẳng giác sắp thành Phật mà lại có tâm phân biệt hay sao?
Người cầu nguyện thì giúp còn người không cầu nguyện thì không giúp thế thì tâm
đại từ bi của ngài ở đâu? Thấy người chết mà không cứu thì làm sao thành Phật
được và tu để làm gì?
Thật ra nói về “Lý Tánh” chớ không phải nói về “Sự Tướng bề ngoài”. Lửa
hiểu theo thâm ý của kinh là lửa tham, lửa sân, lửa si đang đốt cháy tâm của
con người từng giây từng phút. Khi nắm giữ danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm tức
là đang lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình thì những vẩn đục như
tham, sân, si biến mất do đó lửa dâm, lửa sân, lửa tham đắm si mê, lửa hận thù
không thể nào đốt cháy tâm ta được. Con người hằng ngày vì chạy theo tham đắm dục
tình, làm nô lệ cho tư kỷ cá nhân nên mới bị lửa vô minh đốt cháy. Ngược lại
người có tâm thanh tịnh tức là họ đang sống với tánh giác hằng sáng của họ thì
lửa vô minh bị dập tắt và lửa tham, lửa sân, lửa si cũng tiêu tan, biến mất.
Cho nên họ có vào trong lửa mà không bị đốt cháy nghĩa là tuy sống trong chốn
bụi trần mà không hề bị đắm nhiễm. Vì thế người nào đang giận hờn ai, nghĩa là
lửa sân đang âm ỉ tự đốt cháy lòng mình. Thấy nhà đẹp cao sang, xe bóng lộn mắc
tiền liền khởi tâm tham đắm tức là lửa tham đang bừng cháy trong tâm của ta
rồi. Thế gian là giả tạm mà thấy cái gì cũng mê cũng thích cũng muốn chiếm hữu
tức là lửa si đang bừng cháy trong lòng của ta đó. Kinh điển Đại thừa dạy về Lý
Tánh cho nên đừng hiểu cạn cợt về Sự Tướng mà áp dụng sai lầm cho nên nếu thấy
nhà đang cháy, tiếc của nên niệm Quán Thế Âm rồi chạy vào trong đó thì chắc
chắn quý vị sẽ cháy thành tro. Đến lúc đó lại cho rằng Bồ Tát không linh. Bồ
Tát lúc nào cũng linh chỉ vì chúng sinh chấp trước mê lầm, áp dụng sai nên
không có kết quả. Tin tưởng sai lầm còn tệ hại hơn là không tin tưởng gì hết.
Niệm Quán Thế Âm là xoay lại để lắng nghe tánh nghe của mình mà tánh nghe là
bản thể chân thật của mỗi người, không có hình dáng tướng mạo. Nếu đã không có
tướng trạng thì lửa làm sao đốt cháy hay nước nào nhận chìm được.
Vì vậy người đệ tử Phật phải sáng suốt biết rằng “lửa” trong kinh là ám
chỉ cho “lửa lòng” tức là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa vô minh, lửa phiền não
chớ không phải lửa lò, lửa than hay lửa nhà cháy.
2)Chìm dưới nước, được
vào chỗ cạn.
Dựa theo truyền thuyết của người Trung Hoa thì Nam Hải Phổ Đà Sơn là đạo
tràng thị hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu chuyện được kể lại như thế này:
“Ở Trung Quốc, vào thời đại Nam Bắc Triều (386-589), trong
khoảng niên hiệu Trinh Nguyên đời Lương, có một vị pháp sư Nhật Bản là Huệ Ngạc
đến Trung Quốc cầu pháp, hết sức chân thành tin tưởng Quán Âm Bồ Tát. Lúc Ngài
học xong, quay về Nhật Bản, ngoại trừ rất nhiều kinh sách mang theo, ngài còn
đặc biệt thỉnh một tượng Quán Âm đem về nước cúng dường. Thời cổ giao thông
chẳng thuận tiện như hiện thời, đương nhiên là phải ngồi thuyền gỗ. Nhưng khi
ngài Huệ Ngạc thỉnh tượng Quán Âm lên thuyền gỗ, thuyền đi chưa được bao lâu,
biển đột nhiên nổi sóng to, gió lớn, khiến cho chiếc thuyền ngài ngồi dù làm
bất cứ cách nào cũng không tiến lên được. Trong tình huống bất đắc dĩ đó, chỉ
còn cách thỉnh tượng Quán Âm Bồ Tát lên một hòn đảo nhỏ, dựng một gian nhà lá
trên đảo để thờ phụng Quán Âm Bồ Tát. Hòn đảo nhỏ ấy ngày càng phát đạt đến nỗi
cái tên gốc là đảo Mai Sầm trở thành Phổ Đà Sơn”. Trong những năm gần đây,
có bức tượng ba mặt của ngài Quán Thế Âm nhìn thẳng ra biển rất to lớn tại núi
Phổ Đà.
Dựa vào câu chuyện kể trên, nếu thật sự ngài Quán Thế Âm linh ứng huyền
diệu thì tại sao ngài Huệ Ngạc tha thiết cầu nguyện mà sóng gió không tan? Bồ
Tát Quán Thế Âm là vị đẳng giác Bồ Tát nghĩa là sắp thành Phật, tâm không còn
phân biệt thì không lẽ ngài không muốn độ cho dân Nhật Bản hay sao?
Thậm chí vào tháng ba, năm 2011, có trận động đất rất lớn lên đến 9.0 Richter
scale, dọc theo bờ biển Tohoku phía Đông Bắc Nhật Bản. Trận động đất kéo theo
những đợt sóng thần cao đến 40.5 thước (133 ft), giết chết trên 15,848 người,
mất tích gần 6.011 người và tàn phá biết bao nhà cửa…Nhật Bản là quốc gia Phật
giáo nên trong lúc nước dâng lên cuốn trôi hàng vạn người như thế thì chắc chắn
mọi người đều cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn. Thế thì Bồ Tát
Quán Thế Âm ở đâu mà không cứu họ? Không lẽ oai thần của Bồ Tát không địch lại
với sóng thần hay sao? Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm Nam Hải ba mặt ở núi Phổ Đà
nhìn thẳng vào nước Nhật Bản thế thì lúc sóng thần tràn vào tại sao Bồ Tát nỡ
nào nhìn hàng chục ngàn chúng sinh già, trẻ, bé, lớn bị làn nước cuốn trôi mà
không ra tay cứu độ?
Lời Phật dạy là chân lý, không bao giờ sai cả chỉ vì chúng sinh hiểu không
thấu đáo chỉ nhìn theo tướng trạng bên ngoài mà áp dụng sai lầm nên dễ rơi vào
mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà Phật. Tin tưởng sai
lầm rồi cho rằng Bồ Tát hết linh.
Niệm danh hiệu Quán Thế Âm là để lắng nghe tiếng Diệu Âm trong lòng của
chúng ta chớ không phải Quán Thế Âm là người đi làm công tác từ thiện nên không
có việc thương người này bỏ người kia. Vì thế chúng sinh tuy có niệm Quán Thế
Âm mà không chịu soi chiếu để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình thì
những tâm niệm kia chỉ là biểu tượng của lòng mong cầu tức là tâm vẫn còn tham
thì không có kết quả chi hết. Nói cách khác khi nói niệm Đức Quán Thế Âm phải
được hiểu là xoay cái nghe từ bên ngoài mà hướng về tánh nghe vốn thanh tịnh
trong sáng sẵn có của mình thì tất cả những phiền não, khổ đau sẽ tan biến. Do
đó nếu thật sự Ngài Quán Thế Âm có độ thì hễ chúng sinh cần độ thì Ngài độ
ngay, thậm chí cả những người không niệm, Ngài vẫn độ, tức là Ngài không để cho
người nào bị nước cuốn trôi cả. Không lẽ Bồ Tát thấy hàng trăm, hàng vạn người
sắp chết mà không cứu? Vậy lúc những người sắp chết đuối Bồ Tát ở đâu? Đức Quán
Thế Âm có thiên thủ thiên nhãn thì không lẽ Ngài không nghe được những lời cầu
cứu ưu bi đó hay sao? Đức Phật Thích Ca không phải là đấng thần linh cho nên
chữ “độ” trong đạo Phật phải được hiểu là những phương pháp tu hành rốt ráo để
giúp chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có giải thoát giác ngộ, có thanh tịnh Niết
bàn. Đạo Phật không dạy chúng sinh tin vào độ mà chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào
nhân quả. Tất cả những khổ vui, sống chết trong đời này của mình là những kết
quả mà chính mình đã tác tạo trong những đời quá khứ. Nếu ngày xưa mình ra tay
cứu giúp người gặp hoạn nạn thì khi mình đối diện với tai họa thì có kẻ khác giúp
trả lại cho nên khi mình gặp nạn sắp bị nước cuốn đi thì nhân duyên quả báo xui
khiến gặp thuyền cứu vớt cho. Dựa theo luật nhân quả, mình bố thí thì mai sau
được giàu sang. Mình lo lắng, chăm sóc người già, bệnh tật thì mai sau mình
sống khỏe, sống lâu. Mình thương người thì được người yêu, người mến. Ngược lại
nếu hại người thì bị người hại lại. Chửi người thì bị người mắng nhiếc lại.
Giết người thì kiếp này hay kiếp sau bị người sát hại lại. Tuy con người có
quan niệm khác nhau về sự thưởng phạt của thiện ác, nhưng Luật Nghiệp Báo thì
lúc nào cũng đại diện cho sự công bình tuyệt đối vì đó là sự thưởng phạt công
minh, chắc chắn và hợp lý.
Bây giờ nếu nắm giữ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và nhờ oai thần của Bồ
Tát để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình tức là mình làm chủ được
mình thì những chướng ngại như nước ái, nước nhẹ dạ yếu lòng, nước yêu thương
mù quáng làm sao cuốn ta theo được. Nói cách khác con người biết tự chủ tức là
sống với trí tuệ hằng sáng của mình thì có thể san bằng tất cả mọi chướng ngại.
Ngược lại nếu sống theo tình cảm yếu đuối thì bị dòng nước thế gian cuốn đi,
chìm đắm trong biển ái sông mê. Do đó Phật pháp giúp chúng sinh hóa giải dần
dần những mê chấp, xa lìa tình cảm chủ quan yếu đuối sai lầm mà bồi dưỡng và
sống với trí tuệ khách quan.
3)Đi thuyền tìm châu
báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỷ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy.
Tất cả mọi chúng sinh đang sống trên thế gian này thì ai ai cũng đều sống
trong khổ ải, bị nhậm chìm trong bể ái sông mê ngoại trừ những người giác ngộ.
Bây giờ thức tỉnh nên muốn nương theo Chân lý tìm lối giải thoát cho đời mình
cũng giống như lên thuyền đi tìm châu báu. Nếu nói về vật chất thế gian thì bảy
báu là vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, trân châu, san hô và mã não. Nhưng ở đây, bảy
báu là bảy con đường thiện xảo đưa con người từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh.
Đây chính là Thất Thánh Tài và gồm có: Giới, Tín, Văn, Sám hối, Tinh tấn, Buông
xả và Trí tuệ.
Vàng là vật cao quý chẳng khác gì Giới
Bạc là sự thay trắng đổi đen nên ám
chỉ cho Tín tức là lòng tin
tưởng vào Phật pháp, không còn nghi ngại.
Lưu ly là lưu chuyển tượng trưng cho Văn
tức là tánh nghe.
Xà cừ có hình tướng xấu xa nên ám chỉ
cho Sám hối.
Trân châu là thanh cao tượng trưng cho Tinh
tấn.
San hô thì tượng trưng cho Buông xả.
Mã não thì sáng chói tượng trưng cho Trí
tuệ.
Con đường Phật đạo viên mãn là người Phật tử phải biết ăn năn sám hối làm
lành tránh dữ và vun bồi công đức thì trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ tức là
thấy được Chân lý. Mà muốn thấy được Chân lý thì con người phải có đủ nghị lực
để lìa bỏ, buông xả và hy sinh những của cải cao quý tạm bợ của trần gian để
vào Thánh đạo bằng cách tích tụ hằng hà công đức, giữ tâm thanh tịnh và dựa
theo Thất Thánh Tài thì mới thành tựu.
Trong khi chúng ta cố gắng tu theo con đường Bát Thánh Tài, chuyên làm
lành lánh dử, vun bồi phước đức công đức, tu tịnh nghiệp thì bỗng nhiên có
người làm cho chúng ta nóng giận, tâm sân liền phát khởi chẳng khác nào tâm
mình đang lạc vào cõi nước quỷ. Quỷ La sát là những cơn sốc, những ảo tưởng giận
hờn, điên đảo làm cho con người mất đi Chánh niệm, không còn làm chủ lấy thân
tâm để bắt đầu tạo ra hành nghiệp.
Ngay vào thời điểm đó, nếu chúng ta niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm
khiến cho những cơn giận hờn, điên đảo dần dần tan biến và đưa chúng ta trở lại
trạng thái bình yên ban đầu chẳng khác nào vào cõi nước quỷ La sát mà không hề
bị ám hại.
Vậy cõi nước quỷ La sát mà kinh nói ở đấy là ám chỉ cho quý sát hại, quỷ
dâm dục, quỷ vọng ở trong tâm nên mới đáng sợ bởi vì nó khiến con người hút máu,
giết người, làm điều dâm dục, trộm cướp, nói lời gươm đao, thấy ác làm ác chẳng
những nó giết đời này của ta mà còn giết biết bao nhiêu đời nữa.
Phàm nhân thì tham luyến vào Thất bảo (Vàng, bạc, lưu
ly, xà cừ, trân châu, san hô, mã não) cho nên tạo nên biết bao chuyện tội lỗi,
gây ra nhiều tội nghiệp để phải chịu quả báo luân hồi cũng vì nó. Ngược lại đối
với Thánh nhân thì Thất bảo là cỏ rác, là cội nguồn phát sinh ra tội lỗi nên
chẳng có giá trị gì. Lời nói sau cùng trước khi đức Phật nhập diệt là “Tất cả
các pháp hữu vi đều là vô thường hoại diệt” cho nên bậc Thánh chỉ lưu ý đến
Thất Thánh Tài (Giới, tín, văn, sám hối, tinh tấn, buông xả, trí tuệ) mà thôi.
Thế thì quỷ La Sát mà kinh nói ở đây là biểu trưng cho lòng sân hận của
con người nên ở đâu và ở bất cứ nơi nào cũng có. Sân là giận dữ, là lúc bản ngã
của mình không được thỏa mãn. Phản ứng của sự bất mãn này là tức giận, nổi cơn
điên.
Ngày xưa có vị tướng quân đến gặp
một Thiền sư và hỏi:
-Thế nào là hắc phong (gió đen)?
Thiền sư đáp:
-Ông đường đường là một tướng quân
mà sao lại hỏi một câu vớ vẫn như thế?
Vị tướng quân nghe chê liền tức
giận, đỏ mặt tía tai.
Lúc đó Thiền sư mói bảo:
-Đấy hắc phong vừa thổi đến đó!
Vậy hắc phong không phải là gió áo ào kéo theo mây đen mù mịt, mà hắc
phong chính là cơn giận của con người. Cơn giận dữ chẳng khác chi ngọn lửa hồng
có thể thiêu cháy tất cả. Vì thế bất cứ ai nuôi dưỡng cơn giận dữ trong lòng
thì chính họ đang tình nguyện đưa ngọn lửa vào thiêu đốt tâm họ thành ra tro
bụi. Do đó hằng ngày trong cuộc sống, nếu cố ý nuôi dưỡng cơn giận dữ trong
lòng thì chính ta đang từ bỏ niềm hạnh phúc, an vui giữa mình với người. Giận
dữ có thể biến một con người bình thường thành ra người điên cuồng, không thể
kiềm chế được ý thức, nhân tính nên hành vi, cử chỉ và việc làm gây thương tổn
cho mình và cho kẻ khác. Thí dụ khi cơn ghen nổi lên, người đó có thể tạt
ác-xít hay đâm chém kẻ khác. Trong xã hội, giận dữ có thể phát khởi do mâu
thuẫn ý thức hệ tôn giáo, chính trị, hay những va chạm về quyền lợi. Khi cơn
giận phát tác, con người có khuynh hướng trút sự nóng giận hay cơn thiêu đốt đó
cho người khác, nhưng vô tình sự trút đổ vô căn cứ đó càng làm cơn giận gia
tăng. Trong kinh Nguyên Thủy, “sân” có nghĩa là thái độ biểu đạt cảm xúc muốn
thiêu hủy đối tượng, đốt cháy đối tượng, bằm đối tượng ra thành các mảnh vụn.
Vì thế để kiềm chế sân hận, chúng sinh chỉ cần quay về niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm là biểu trưng lòng từ bi thì những tiếng nói huyền diệu phát ra từ
trong bản tâm của chúng ta tức là Diệu Âm sẽ là những giọt nước cam lộ tươi mát
làm diệu đi và dập tắt cơn giận dữ kia. Nói cách khác chúng sinh chỉ cần quay
về sống với tỉnh thức Chánh niệm để kiểm soát từng biến hành của thân, tâm lúc
bấy giờ thì chính mình sẽ biết rất rõ sự nóng giận của chính mình. Sau đó hít
ra thở vô nhẹ nhàng để tống khứ những độc tố đó ra ngoài thì sẽ có tự tại ngay.
Thông thường chúng ta nổi giận khi cảm thấy chính bản thân chúng ta hay là
người thân của chúng ta bị đối xử bất công. Vì không chịu nổi sự bất công đó,
cơn giận mới khởi lên. Có thể nói sân hận là một trạng thái tình cảm rất thông
thường của con người vì hầu như ai cũng từng nổi giận, trong một thời điểm nào
đó, với một mức độ nào đó, khi phải đối diện với một người hay một điều kiện
không hài lòng.
Chúng ta nổi giận khi cảm thấy bị từ chối, khinh thường, bất lực và tổn
thương. Và do đó chúng ta có một khát khao muốn làm tổn thương người khác như
chúng ta đã từng bị thương tổn. Đôi khi những đòi hỏi không thực tế cũng là
nguyên nhân của sân hận. Chúng ta mong muốn quá nhiều từ bản thân, đồng nghiệp,
con cái, hay hoàn cảnh sống, và khi sự việc xảy ra không như chúng ta mong mỏi,
chúng ta cảm thấy buồn bực và bất mãn. Đôi khi sự căng thẳng ảnh hưởng đến tình
cảm của chúng ta, hay những người chịu quá nhiều áp lực thường rất dễ nổi giận.
Và một lý do nữa, có thể đó là do cá tánh, vì chúng ta có tánh tình nóng nảy,
có cảm xúc quá mạnh mẽ do yếu tố sân tuỳ miên quá sâu dày trong tâm của chúng
ta.
Một nguyên nhân khác bắt rễ phát sinh ra sân hận bắt nguồn từ trạng thái si mê của con người. Khi bị sự si
mê chi phối tâm trí của con người sẽ không còn sáng suốt nên có khuynh hướng
chiếm đoạt sở hữu của người vào tay mình. Vì sự chấp thủ đó nên ai đụng vào
quyền lợi, sở hữu hay những gì họ đang ham muốn thì người si mê sẵn sàng kháng
cự, chiến đấu đến cùng và đó là đầu mối của tranh đấu, bạo loạn và chém giết.
Về sự tai hại của sân hận, trong kinh Sân Hận, Phẩm Không Tuyên Bố, Tương
Ưng Bộ Kinh, Đức Phật có nói đến 7 điều xảy đến cho một người hay sân hận:
-Này các Tỳ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn
nộ chi phối, dầu cho người ấy khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, rồi người ấy cũng
trở thành xấu xí; dầu có nằm trên giường nệm, chăn len, họ vẫn ngủ một cách khổ
sở ; thâu hoạch bất lợi, lại nghĩ rằng: "Ta được lợi ích", thâu hoạch
điều bất lợi ích, lại nghĩ rằng: "Ta không được lợi ích". Những pháp
này được nắm giữ khiến người khác trở thành thù địch, đưa đến không hạnh phúc,
đau khổ lâu dài; những tài sản nào của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần,
cất chứa do sức mạnh của cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp,
thâu hoạch hợp pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua;
nếu có được danh tiếng gì nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng ấy
lánh xa họ; nếu người đó có những bạn bè thân hữu, bà con huyết thống gì, họ sẽ
xa lánh, từ bỏ người đó, vì người đó bị phẫn nộ chinh phục; người đó làm
ác hạnh với thân, người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến điều ác
hạnh với ý, khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục.
Nói chung, con người chỉ thích làm những gì để thỏa
mãn và tâng bốc cái bản ngã của mình. Ngược lại, họ không thích bất cứ cái gì
thách thức, đe dọa, xúc phạm hay hạ bệ cái bản ngã của mình cho nên những gì đi
ngược lại với những sở thích của bản ngã thì nó phản ứng lại bằng sân hận và
giận dữ. Do đó người diệt được chấp Ngã thì sẽ không có vấn đề gì cả. Đức Phật không còn bản ngã nên ngài
luôn luôn an tịnh và là một nguồn an lạc cho tất cả chúng sanh, cho toàn thế
giới.
Thế thì đừng bao giờ nghĩ rằng có người đi tìm châu báu, lạc vào nước quỷ
sợ quá liền niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì được ngài cứu giúp thoát khỏi tai nạn.
Đây là lối “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là lời văn chỉ là chuyên chở đạo lý sâu kín
bên trong mà thôi.
4)Sắp bị dao gậy chém
đánh, thì dao gậy kia bị gãy từng khúc.
Dao gậy chém đánh ở đây là muốn ám chỉ những lời mắng chửi, nói lưỡi hai
chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói gian dối làm cho chúng ta đau đớn
chẳng khác chi là nhác đao đâm thẳng vào tim nhói buốc. Nhưng nếu biết thức
tỉnh chánh niệm quay về niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những nỗi khổ niềm đau kia
sẽ tan biến.
Các đấng cha mẹ, khi dạy mà con cái không nghe lời thường tuôn ra những
lời nhục mạ, nhưng họ có biết đâu những lời độc địa, chua cay đó có sức mạnh
phá hoại rất ghê gớm còn hơn những đòn roi, những nhát dao vô hình. Vậy đâu là
nguyên nhân?
-Nguyên nhân thứ nhất là sự thiếu hiểu biết: Nói rằng cha mẹ sỉ nhục,
nhiếc mắng con cái là vì họ không yêu con là không đúng. Trong khi nói ra những
lời cay độc, họ vẫn luôn nghĩ rằng có thế nó mới thấy mà sửa chữa khuyết điểm.
-Bất lực trong việc giáo dục: Lý do thứ hai khiến cha mẹ dùng đến “võ
mồm" là sự bất lực trong giáo dục con cái. Khi con có lỗi, cha mẹ thường
dọa nạt, trừng phạt bằng đòn roi. Thấy không còn hiệu quả, họ lại chuyển sang
dùng những lời nhẹ nhàng, nhưng mang nặng tính giáo huấn. Thấy con không chuyển
biến, cha mẹ đành dùng đến những lời cay độc. Cứ như vậy tạo thành cái vòng
luẩn quẩn, không giúp con tiến bộ, mà chỉ khắc sâu thêm oán thù.
-Ảnh hưởng xã hội: Cuộc sống vất vả, căng thẳng hằng ngày cùng với
sức ép công việc, khiến cho đầu óc cha mẹ lúc nào cũng căng lên như dây đàn.
Thế là về đến nhà, bao nhiêu bực dọc, cha mẹ đổ lên đầu con cái.
-Ảnh hưởng di truyền: Mỗi người chúng ta đều mang trong ký ức của
mình "một bộ sưu tập"" những lời la mắng là “di tích” của quá
khứ, nhưng đôi khi chúng ta không ý thức được điều đó. Có người mẹ đã kể rằng:
“Thời nhỏ tôi thường bị cha mẹ chửi mắng là ngu đần. Lúc ấy tôi vô cùng tức
giận và căm phẫn cha mẹ tôi. Vậy mà nhiều lúc bây giờ tôi cũng mắng con đúng
như vậy. Tôi không thích điều đó, nhưng những lời đó cứ tuôn ra một cách tự
nhiên, không cần sắp xếp lại”.
Nên nhớ rằng không có một đứa trẻ nào xấu hoàn toàn và khi có lỗi, có
khuyết điểm thì chúng cũng ý thức và đau buồn về chuyện đó. Đạo Phật là đạo của
từ bi và trí tuệ vì thế các đấng cha mẹ hãy lắng lòng để lắng nghe con em của
mình nói lên nỗi lòng của nó. Từ đó hai bên sẽ thông cảm nhau hơn và nguyên
nhân để phát sinh ra sân hận không còn. Thống kê mới nhất cho biết rằng gia
đình có con cái thành công nhiều nhất hay mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
tốt đẹp nhất là khi không có khoảng cách giữa cha mẹ và con cái nghĩa là cha mẹ
và con cái lúc nào cũng cảm thông nhau, biết chia sẽ những thăng trầm và biết
tôn trọng lẫn nhau. Thay vì nói lên những lời chua cay, độc ác có thể ghi khắc
vào tâm thức của chúng muôn đời khiến chúng có những ác cảm thì bây giờ hãy
lắng nghe, tha thứ và tìm cách khuyến khích giúp đở để chúng gieo những chủng
tử tốt. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là lắng nghe tiếng nói thanh tịnh nhiệm mầu từ
trong đáy lòng của mình thì những tức giận, buồn phiền sẽ tan biến. Khi mình tự
tại, an vui thì thế giới mình đang sống cũng sẽ nhẹ nhàng thoanh thoát và những
người thân chung quanh ta sẽ kính yêu ta nhiều hơn.
Thế thì khủng hoảng về tinh thần còn đau đớn hơn là bị hành hạ bằng thân
xác cho nên có Chánh niệm để niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những dao gậy đó không
làm cho mình đau khổ nữa.
5)Khỏi bị Dạ Xoa và La
Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn.
Khi một người có Chánh niệm để niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những giận hờn,
trách móc, những gì trái với bản ngã không còn phát tác được. Thí dụ có người
chửi mình như tác nước vào mặt. Nếu không có Chánh niệm để biết được hậu quả
tai hại của việc chửi lại thì chúng ta đã mắng chửi lại ngay. Ắn miếng trả
miếng là chuyện thường. Nhưng Chánh niệm đã đánh thức khiến tâm ta bừng tỉnh để
thấy biết rõ ràng những tác hại của việc chửi mắng vì vậy cũng nghe lời chửi
đó, nhưng chúng ta không chấp lời nói thị phi, không đem nó vào tâm nên nghe thì
cũng nghe mà tâm vẫn bình yên vô sự. Vì vậy bọn quỷ La Sát, Dạ Xoa không cám dỗ
được mình, không xuối đẩy chúng ta vào con đường tội lỗi đau thương nên chúng
xa lánh, không dám nhìn chúng ta nữa.
Ở đời thì “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” cho nên người ác
thường giao du với kẻ ác, người hiền thường tìm đến người hiền. Vì thế nếu bạn
không còn giận hờn, si mê cuồng loạn thì quỷ La Sát sẽ không bao giờ tìm đến
với bạn.
Có một ông Tướng chán ngán nhân tình thế thái nên đến
xin xuất gia với ngài Đại Huệ :
- Bạch Thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần,
xin Thầy từ bi thu nhận con làm đệ tử xuất gia.
Sư bảo :
- Ông có gia đình, còn tập khí ngoài đời nặng nề nên
chưa thể xuất gia, hãy thong thả từ từ.
Ông thưa :
- Bạch Thầy! Gia đình, vợ con, thê thiếp, công danh, phú
quý con đều bỏ được hết, cúi mong Thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo :
- Hãy thong thả từ từ.
Ông đành chờ. Ngày nọ, ông dậy rất sớm vào chánh điện
đảnh lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy vậy, liền bảo :
- Tướng quân vì sao mà dậy sớm đến lễ Phật như thế?
Ông trả lời bằng bài kệ :
“Vì trừ lửa trong
tâm
Dậy sớm lễ sư trưởng”
Sư cũng đối lại :
“Dậy sớm như thế
ấy
Chẳng sợ vợ ngủ người”
Ông vừa nghe liền nổi giận bảo :
- Lão quái này, sao hôm nay nói năng xúc phạm đến người
quá vậy?
Lúc đó, Thiền sư Đại Huệ cười mà bảo rằng :
“Nhè nhẹ phẩy
chiếc quạt
Tánh lửa đã cháy phừng
Nóng nảy hừng như thế
Sao bảo buông xuống xong?
Đang nổi giận, ông nghe nói vậy chợt bừng tỉnh lại. Do
đó khi nổi giận là sân, nhưng khi tỉnh lại là giác. Con người vì mê nên mới
khởi tham-sân-si, nếu bây giờ giác được tham-sân-si thì sẽ trở về với tánh giác
nhiệm mầu trong sáng sẵn có của chính mình.
6)Bị giềng xích gông
cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã.
Gông cùm xiềng xích mà kinh nói ở đây chính là Thập Triền, Thập Sử dẫn đắt
đưa đẩy con người sa vào hố của tội lỗi đau thương.
1.Thập triền: là mười món phiền não nương vào tham, sân, si mà
khởi, tương ưng với tâm nhiễm ô, tạo các ác hạnh để trói buộc chúng sinh trong
sinh tử.
-Vô tàm: Không biết hổ thẹn.
-Vô quý: Không biết hổ thẹn đối với những tội lỗi do mình tạo ra khi bị
người khác thấy biết.
-Tật: Tâm đố kỵ đối với những việc hưng thịnh của người khác.
-San: Bỏn sẻn, keo kiệt.
-Hối: Hối hận vì những lỗi xấu của mình đã làm, khiến tâm bất an.
-Miên: Mê ngủ khiến tâm mờ tối, không có năng lực tỉnh xét.
-Điệu cử: Thân dao động khiến tâm không yên, không thể nào thành tựu các
thiền quán.
-Hôn trầm: Thần thức u mê, thân tâm không có năng lực an trụ trong thiện
pháp.
-Phẫn: Đối với cảnh trái ý mình thì sinh tâm tức giận, đánh mất chánh
niệm.
-Phú: Che đậy tội lỗi của mình.
Nếu hằng ngày chúng sinh không giữ vững chánh niệm, sống trong tỉnh thức
thì mười món này sẽ trói buộc (triền) con người không có lối thoát.
2.Thập sử chính là xiềng xích, là gông cùm đã cột chặt, sai sử con
người suốt cả cuộc đời để làm nô lệ cho vô minh phiền não. Căn bản phiền não có
sáu món là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Phần ác kiến lại chia làm năm
phần: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ. Thập sử là tên gọi
dựa theo Duy Thức Học còn tên thông thường là Tư Hoặc và Kiến Hoặc trong phần
Tập Đế. Do đó con đường duy nhất để có giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi là
phải phá cho được Tư Hoặc và Kiến Hoặc chứng đắc thánh quả A la hán. Năm món
tham, sân, si, mạn, nghi gọi là năm món “độn sử” bởi vì nó ngấm ngầm sai
sử con người cũng như than đỏ trong tro làm chướng ngại ba món vô lậu Giới Định
Tuệ. Ví dụ, cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà có người dám làm những chuyện
tày trời, phạm luân thường đạo lý, không kể hậu quả sau này sẽ vào tù ra khám.
Khi cơn giận nổi lên thì bất chấp phải trái ngay cả giết người họ cũng làm.
Hoặc một khi lòng si mê tham đắm dục tình bùng cháy trong tâm, người đàn bà có
thể giết chồng, bỏ con để chạy theo tiếng gọi của con tim. Nói chung hằng ngày
tham, sân, si, mạn, nghi sai sử chúng ta trên mọi phương diện của cuộc sống và
chúng nhận chúng ta vào trong bể ái sông mê. Vì thế chỉ có chánh niệm tỉnh thức
giúp chúng sinh quay về niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để lắng nghe tiếng
nói Diệu Âm trong suốt thanh tịnh trong lòng ta thì mới đủ công năng đánh thức
con người quay về sống đúng với chơn tánh của mình tức là chính mình đã chặt
đứt những sợi dây vô hình đã cột chân,
cột tay chúng ta vào con đường bất thiện.
Giáo lý Phật Đà là Phật giáo trí tuệ giúp người tu khai tâm mở tánh, làm
lành lánh dử, luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, làm chủ đời mình thì sẽ có
an lạc tự tại mà không cần cầu xin, van lạy ai hết. Niệm Quán Thế Âm là niệm
tâm mình chớ đâu phải niệm một tha lực nào đó ở ngoài tâm.
Các tôn giáo khác trên thế giới nói rằng Thượng đế của họ có thể
rửa sạch mọi tội lỗi mà con người đã làm. Nhưng ở đây, đức Phật đã khẳng định rằng tội do
một người làm thì
không bao giờ có thể được rửa sạch bởi một người khác. Thực sự cả Đức
Phật lẫn Thượng Đế đều không thể làm được điều đó. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật
dùng thí dụ Phật thọ trai thì người khác không no được nghĩa là ai ăn người ấy
no, ai uống người đó hết khác. Nói thế có nghĩa là bạn tạo tác tội nghiệp gì
thì chính bạn phải thọ lãnh kết quả đó. Khi một người sắp chết và nói
rằng ông ta tin vào Thượng Đế, suy cho cùng những điều tội lỗi ông đã phạm ấy
thử hỏi Thượng Đế có thể làm cho hết đi được không? Thí dụ bạn là người
rất thích uống rượu và bạn biết
điều đó là sai nhưng bạn lại không biết làm cách nào để loại trừ tính xấu ấy.
Vì thế bạn đi đến Thượng Đế để cầu nguyện và xin Ngài làm ơn lấy thói xấu ấy ra
khỏi tâm cho bạn, bạn nghĩ có vị Thượng Đế nào làm được điều đó không? Bạn có
thể đi đến đức Phật và cầu
xin Ngài. Nhưng đức Phật cũng không thể lấy tánh xấu đó ra khỏi tâm bạn được màđức Phật chỉ có
thể dạy cho bạn biết
cách làm thế nào để loại trừ thói hư tật xấu đóbằng tất cả nỗ lực của
bạn mà thôi.
Không ai có thể giúp bạn ngoại trừ bản thân bạn qua sự
hiểu biết. Chính bạn là người phải nhận ra rằng "tật uống rượu này thật nguy
hiểm, nó có thể tạo ra nhiều điều phiền muộn, rắc rối và khó khăn, làm hại bản
thân ta và người khác. Ta phải cố gắng giảm thói hư tật xấu này bằng cách
dùng nghị lực của ta và sự quyết tâm mạnh mẽ sáng tạo của ta để nhổ bật nó ra khỏi tâm”.
Vì vậy cho dù là đức Phật hay Thượng Đế thì cũng không thể rửa sạch những
tội lỗi do chúng ta tạo ra mà chỉ có một mình chúng ta làm được điều đó bởi vì đạo Phật là đạo chuyển
nghiệp. Nghiệp ác chẳng khác nào những tảng đá đè nặng lên ta, bây giờ dùng tất
cả nghị lực xô tảng đá đó xuống thì thân, tâm sẽ được nghẹ nhàng thanh thoát. Đức Phật có
đưa ra một lời khuyên, nếu một người phạm phải một ác nghiệp (karma) họ không
thể loại trừ được quả báo bằng cách cầu nguyện Thượng Đế hay đức Phật. Tuy
nhiên khi họ biết mình đã phạm ác nghiệp, họ phải dừng lại không tạo thêm ác nghiệp nữa.
Họ phải quyết tâm mạnh mẽ tạo thật nhiều thiện nghiệp hay những việc phước đức.
Khi họ tạo được nhiều thiện nghiệp như vậy, quả của ác nghiệp họ đã làm trước
đây có thể nhờ thiện nghiệp này mà bị triệt tiêu hay giảm nhẹ. Ác nghiệp có thể ví như viên thuốc
độc, nếu uống thì bạn sẽ chết ngay. Nhưng bạn tạo rất nhiều thiện nghiệp, vun
bồi phước đức lộng lớn chẳng khác nào nước chứa trong đầy cái hồ lớn. Bây giờ
lấy viên thuốc độc đó bỏ vào cái hồ nước rồi múc vài ly uống bạn vẫn thản
nhiên, không hề hấn gì hết.
Thí dụ bạn có nghĩ rằng có một người làm việc bất thiện, bị cảnh sát bắt
liền cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm để cảnh sát khỏi còng tay hay không vô tù?
Hay nhiệm mầu hơn nữa là ở trong tù người đó niệm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm tức
thì gông cùm tự nhiên rớt xuống, của ngục mở toang và người đó thư thả đi về?
Chư Phật và chư Bồ Tát không bao giờ dính dáng hay can dự vào chuyện ân oán
nhân quả của chúng sinh. Đức Phật đã khẳng định rằng không một một ai trên thế
gian này có thể chuyển quả của người khác được. Vì vậy, giáo lý Phật Đà có mục
đích giúp chúng sinh gieo nhân lành,
giống tốt, nhưng một khi đã thành quả rồi thì phải lãnh chịu quả báo thế thôi.
Đức Phật dạy rằng:
“Ta có Nghiệp (Karma) là tài sản của chính ta, ta thừa kế
Nghiệp của ta, Nghiệp là hậu duệ của ta,
Nghiệp là quyến thuộc của ta, Nghiệp là nơi nương tựa của ta. Bất kể ta làm
việc tốt hay xấu, ta sẽ thừa kế các quả của hành động đó”.
Những lời của Đức Phật vô cùng mạnh mẽ không chỉ cho các vị Tỳ-khưu mà còn
đối với tất cả mọi người. Mọi người phải nhận thức rằng Nghiệp là tài sản của
ta. Ta phải thừa kế Nghiệp của ta. Hậu duệ thực sự của ta là Nghiệp của ta.
Người bạn đường thủy chung nhất là Nghiệp sẽ luôn theo sát bất kỳ nơi nào ta
tái sanh. Bất kể hành động và nhân của Nghiệp ta đã gieo trồng là tốt hay xấu,
ta sẽ phải gặt hái quả của hành động đó. Đó là điều mà đức Thế Tôn muốn nhắn
nhủ chúng ta.
Đức Phật đã khẳng định rất rõ ràng rằng ta gieo nhân thì chính ta phải gặt
quả và không có tha nhân nào, cho dù đó là đức Phật hay Bồ Tát Quán Thế Âm có
thể chuyển “quả” của chúng ta được. Nói cách khác, mình gieo nhân thì tự gặt
quả lấy, hoàn toàn không có một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ … can
dự vô nhân quả của mình được. Mình gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai
cũng được sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì
sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với cảnh giới của những người bất
thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo
ác độc, không có một vị thần nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả.
Tuy nhiên, muốn lìa khổ được vui, đạo Phật dạy chúng sinh chuyển nghiệp
tức là chuyển mê thành ngộ.
Cơ quan phát ra và tạo thành nghiệp gồm có: thân, khẩu, ý. Trong 3 thứ
nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo phân biệt, Duy
Thức Học gọi nó là “liễu biệt cảnh thức”. Ý là chủ động tạo nghiệp. Khi ý nghĩ
điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và cái thân làm điều
lành. Ngược lại, khi ý nghĩ điều xấu ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu
ác hung dữ và thân hành động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy là động cơ tạo
thành thiên đường hay địa ngục ở thế gian. Tất cả mọi khổ vui của con người, từ
cá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là tất cả nhân quần xã hội khắp năm châu bốn
biển, đều do thân, khẩu, ý tạo ra cả. Cho nên, trong nhà Phật rất chú ý đến 3
nghiệp quan trọng nầy. Sự tu hành của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu
xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở nơi 3 nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3
nghiệp lành. Như trước kia, chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói năng hành động xấu
ác, như miệng chửi rủa, mắng nhiếc, thân hành động tà hạnh, cướp của, giết
người v.v… nay biết tu hành, chúng ta nên chuyển đổi lại quyết định không gây
tạo những điều xấu ác đó nữa. Đó là chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3
nghiệp. Thí dụ như trước kia, vì si mê khờ dại và nghèo khó ta đi vào con đường
trộm cướp, nay ta biết được tai hại của việc trộm đồ cướp của nầy rất nguy hiểm, ta quyết định từ bỏ trộm
cướp và kiếm việc làm lương thiện nuôi thân, nuôi gia đình, đó là ta đã chuyển
nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Khi đã chuyển nghiệp rồi, đời ta thật vui vẻ hạnh
phúc biết bao và ta có rất nhiều tự do, không còn lo sợ bị tù tội, bị người
đánh đập hay giết hại ta nữa. Một người biết tu chuyển nghiệp, thì chính người
đó được lợi lạc trong hiện tại và mai sau. Gia đình nào biết tu chuyển nghiệp
xấu thành nghiệp tốt, thì gia đình đó được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm. Và từ
đó, lan rộng ra xã hội được trật tự, an bình, hạnh phúc, lợi lạc, đó là mục
đích mà người Phật tử hướng đến.
Thế thì tu là chuyển nghiệp bởi vì nếu nghiệp không chuyển được thì không
ai tu làm gì. Chuyển là chuyển xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà
thành chánh, chuyển dở thành hay v.v… Sở dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa
nghiệp, bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên bên trong nội tâm hơn là nói cái bên
ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói
chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy.
Ngài Quán Thế Âm thật ra rất huyền diệu nhiệm mầu nếu bạn thành tâm niệm
từ trong tấm lòng trong sáng của mình. Thí dụ có một người khi thấy một món
hàng đắc tiền trong một cửa tiệm, tâm tham liền khởi nên muốn đánh cắp vật quý
giá này, nhưng ngay trong giây phút đó Chánh niệm bừng sáng khiến người đó thức
tỉnh quay về niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì lòng tham đắm, si mê tức thì biến
mất nên người đó không phạm tội và thư thả đi về.
Nói chung, những hình ảnh như có người bị quỷ La Sát ám hại, hay có người
bị hại bằng bằng dao gậy, hoặc có người bị xiếng xích trói chân liền niệm đức
Quán Thế Âm thì sẽ thấy tâm mình nhẹ nhàng an lạc và bao nổi lo sợ tự nhiên
biến mất. Đây là điều có thật bởi vì nguyên nhân phát sinh ra những nổi khổ đau
đều phát nguồn từ lòng sợ hãi. Nào là sợ đói, sợ khát, sợ nghèo, sợ bệnh, sợ
thua sút bạn bè, sợ thiên tai bảo lụt, sợ thiếu công danh, sợ xa cách và mất
người mình thương yêu…lúc sợ thì bồn chồn, lo âu, ăn không ngon và ngủ không
thẳng giấc. Mà lo sợ là do tư tưởng phát hiện và đó là chức năng của tưởng uẩn.
Tưởng uẩnlà nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì,
đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan.
Có sáu nhóm tri giác:
1. Tri giác về
vật thấy.
2. Tri giác về
âm thanh.
3. Tri giác về
ngửi.
4. Tri giác về
vị.
5. Tri giác về
xúc chạm.
6. Tri giác về
các pháp (sự vật).
Chữ “Tri giác” hay tưởng có nghĩa là ‘sự thấy” hay “sự nhận ra” bằng cách
ôn lại quá khứ để nhận biết ra đối tượng. Đó là quay vào trong A lại da thức để
so sánh những hình ảnh, kỷ niệm, ký ức hay kinh nghiệm đã lưu trử rồi so sánh
rồi cho ta cái tri giác nghĩa là đây là một con người dáng như thế này, thế
kia, hay đây là một chiếc xe, màu trắng hay màu xanh…Đức Phật ví tưởng hay tri
giác như ảo ảnh, một hiện tượng không thật nhưng hiện ra giống y như thật. Vì
thế chúng sinh lầm tưởng hình sắc, âm thanh, mùi vị và các pháp là đàn ông, đàn
bà, xe cộ…Do lầm lẫn như vậy nên họ tham ái dính mắc vào “cái tưởng” sai lầm
này. Nên nhớ tưởng hay tri giác là ảo ảnh, không thật.
Thí dụ như khi mắt thấy một vật thì nhãn thức thấy vật đó, nhưng không thể
cho ta biết vật đó là gì nên sau đó ý thức đưa tư tưởng đó vào A lại da thức so
sánh rồi cho ta ý niệm (tưởng) tức là tri giác về sự thấy đó rằng vật đó là
chiếc xe đạp. Khi sự thấy hay sự nhận biết ra vật đó là chiếc xe đạp thì chúng
ta tin chắc rằng đó là chiếc xe đạp. Nhưng thế nào là chiếc xe đạp? Phải chăng
hai bánh xe là chiếc xe đạp? Cái thắng xe ư? Cái yên ngồi ư? Chẳng có cái gì là
chiếc xe đạp cả vì chiếc xe đạp là dựa theo quan niệm biết của mình nghĩa là
mình đặt tên cho nó chớ thật tánh của nó đâu có tên tuổi gì. Vì vậy chúng ta chỉ thấy các pháp dựa theo
quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của các pháp tức là “tự nó
thật sự là”. Một thí dụ khác là khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình
đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không
phải là” đóa hoa “hay là” đóa hoa. Mà thật chất của nó là
sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình
tướng rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa
có nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh
sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng
trong các thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa là không tánh
vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có
hay tồn tại được.
Thế thì chiếc xe đạp hay đóa hoa thì nó “đang bị
nghĩ là” chớ con người không nhìn thẳng vào tự tánh “đang là”
của chúng. Do đó chúng sinh luôn lầm lạc cho tất cả hiện tượng vật chất theo tư
tưởng “đang bị nghĩ là” của họ nghĩa là họ cho rằng nhà cửa, xe
cộ, con người, súc vật, chim bay, cá lặn…là như thật, là vĩnh cửu, là trường
tồn bất biến. Nhưng tự tánh “đang là” phủ định điều này vì cũng
nhà cửa, xe cộ đó thì trong giây phút “đang là” này nó đang hoại diệt chớ đâu
có thường hằng bất biến được. Vì vậy tri giác hay sự thấy, biết, nếm, ngửi tức
là tưởng uẩn của con người là không thật, là ảo tưởng.
Chẳng những tưởng uẩn không thật mà ngũ uẩn cũng không thật cho nên đức
Phật dạy rằng:
Sắc như phù mạc (hoa đốm trên
không)
Thọ như thủy bào (bong bóng nước)
Tưởng như ảo ảnh (ảnh giả)
Hành như hương giá (vỏ cây chuối)
Thức như ảo thật.
Bát Nhã Tâm Kinh xác định rằng “ngũ uẩn giai không” vì mỗi uẩn không có tự
thể nên chúng là vô ngã tức là không. Ngũ uẩn không thật nên tưởng uẩn cũng
không thật. Nó không thật mà chúng ta cho là thật nên sống theo ảo tưởng khiến
lo sợ, đau khổ, buồn phiền.
Nói chung tất cả những nỗi lo sợ là do “tưởng” mà ra và khổ thì cũng do
tưởng mà có. Tưởng tượng càng nhiều thì lo sợ càng nhiều mà sợ nhiều thì khổ
nhiều. Tưởng có muôn hình vạn tướng cho nên nỗi lo sợ cũng biến thiên theo và
đau khổ vì thế có cơ hội phát triển mạnh. Ngài Quán Thế Âm cứu khổ ở đây là làm
cho chúng sinh hết sợ tức là ngài bố thí pháp Vô úy. Thí dụ sắp đi ngang qua
một chỗ thanh vắng nên sợ ma nhát làm chúng ta sợ hãi. Bây giờ có Chánh niệm
liền niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì bảo đảm những hình ảnh ma quỷ, lo sợ biến mất
và chúng ta tiếp tục lên đường bình an vô sự. Đây là sự huyền diệu nhiệm mầu
của Bồ Tát. Pháp Quán Thế Âm là loại pháp thí cho chúng sinh vô úy (hết lo sợ)
vì quán niệm Thế Âm nhất tâm thanh tịnh thì trên thế gian này chẳng có gì đáng
sợ nữa ngay cả sự sống chết. Chết không sợ mà con người lại sợ chết cho nên
quán niệm Bồ Tát để thấu triệt chân lý vô thường: sinh, trụ, dị, diệt và vô
sanh nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt để rồi lại sinh thì cuộc sống sẽ vô cùng
an nhiên tự tại, sinh thuận tử yên nên hết sợ.
Chúng ta do “tưởng” điên đảo nên phóng hiện ra hình ảnh ma quái khiến ta
lo sợ. Đến khi thức tỉnh liền niệm danh hiệu ngài Quán Thế Âm thì những ý niệm
điên đảo, ma quỷ tiêu tan ngay vì thế chúng ta yên ổn, hết sợ hãi thế thôi. Cao
hơn nữa, niệm Quán Thế Âm là trở về với tánh giác hằng sáng thanh tịnh của ta
thì tất cả những vọng niệm điên đảo sẽ tan biến nên không còn cái gì để lo sợ,
buồn phiền. Nhưng cao hơn hết, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là trở về với Tri
Kiến Phật, là cái thể chân thật của mỗi người, vô hình vô tướng, thì làm sao
lửa đốt, nước nhận chìm, hay ma quỷ hại được nên hết lo sợ và mọi hiểm nguy đều
hóa giải.
Vì thế chủ đích của phẩm này là phá tưởng uẩn để trở về sống với cái chân
thật, với trí tuệ Phật hằng sáng trong ta.
7)Gặp đường hiểm nạn,
được thoát khỏi và không bị sợ hãi.
Lại nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều
ngu si, mà thường cung kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì được lìa dục,
lìa sân, lìa si.
Đường hiểm nạn là đường dẫn chúng
ta vào làm những điều tội lỗi, bất chánh. Do đó khi có Chánh niệm liền niệm Bồ
Tát Quán Thế Âm thì lúc đó chúng ta đang sống trong tỉnh thức, trí tuệ sáng
suốt nên không còn sa vào con đường tội lỗi đau thương nữa.
Đoạn kinh sau
là nói về sự tai hại của thất tình lục dục, làbảy thứ tình cảm biểu lộ ra bên
ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm chung trong câu nói ngắn gọn là
"thất tình lục dục".
1.Thất tình: Bảy thứ tình cảm mà mỗi
chúng ta đều có như: Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và
ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục vậy.
Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ
khi nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên ra
bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói v.v... Như
khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận
thì mặt tái mét, xanh xao; yêu thương mặt đỏ, nóng bừng v.v... Một trong 7 thứ
tình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân
bình và gây ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất
tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là: Chọn
lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức
và xã bỏ những ý tưởng thấp hèn.
2.Lục dục: là 6 điều ham muốn đã trở
thành thói quen khó sửa đổi:
-Sắc dục: Thấy các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và hình sắc nam nữ rồi tham
đắm vào đó.
-Hình mạo dục: Thấy hình dung đoan chánh, tướng mạo tốt đẹp mà sanh lòng
tham đắm.
-Uy nghi tư thái dục: Thấy tướng đi, đứng, nằm ngồi, nói cười mà sanh lòng
ái nhiễm.
-Ngữ ngôn âm thanh dục: Nghe tiếng nói trau chuốt êm ái thích ý vừa lòng,
giọng ca lảnh lót, tiếng nói dịu dàng mà sanh lòng yêu mến.
-Tế hoạt dục: Thấy da thịt của nam nữ mịn màng, trơn láng mà sanh lòng yêu
mến.
-Nhân tượng dục: Thấy hình nam nữ dễ thương mà sanh lòng đắm trước.
Thế gian là giả huyễn, vô thường, vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khi nhân
duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho
nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng ta vẫn luôn
luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của
đoạn kinh nầy vào trong cuộc sống, con người sẽ không còn chấp Tướng tức là
chấp vào hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui
tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con
người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua
chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung
tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh
diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị
phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc
giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm
thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều
là âm thanh Phật.
Thất tình lục dục ví như những cục nam châm lúc nào cũng muốn hút con
người vào trong quỷ đạo đam mê tham đắm sắc dục mà không có lối thoát. Bây giờ
có Chánh niệm liền niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tâm liền bừng sáng nên sống với
tánh giác thanh tịnh của mình. Một khi tâm đã thanh tịnh thì cũng cái thế giới
mà người đời gọi là “thất tình lục dục” đó, nhưng đối với ta thì bình yên thanh
thản, không còn cái gì quyến rũ nữa.
Những mong muốn tìm cầu được thỏa mãn là vị ngọt, thích một thứ âm thanh,
một loại nhạc nào đó mà nghe được nó là thỏa mãn, sự thỏa mãn đó chính là vị
ngọt của dục lạc, là cái đã đáp ứng được cho lòng ham muốn, làm cho người ta
cảm thấy hạnh phúc khi vừa mới đạt được. Bản
tính của dục lạc là không bao giờ được thỏa mãn. Từ ham muốn này đến ham muốn khác
nên con người không bao giờ dừng lại ở cái gọi là hạnh phúc. Vì khi sự khao
khát mong muốn vừa mới đạt được, vừa mới chớm thấy hạnh phúc, con người lại
thấy tham muốn cái khác, cái cao hơn và cao hơn nữa. Chưa bao giờ lòng dục,
lòng tham về dục lạc có một điểm dừng vì vậy mà tạo nên một trạng thái bức
bách, khát khao không bao giờ được bình yên. Nói thế thì dục lạc chỉ là
cái vui tạm bợ, nhất thời và thường đưa đẩy chúng sinh lún sâu vào vòng sinh tử
triền miên. Chính đức Phật cũng thừa nhậnrằng dục lạc là một sự
thật có mặt ở thế gian, dục lạc ấy cũng đem đến hạnh phúc, đem đến sự khả ái,
khả lạc, sự thỏa mãn cho con người nghĩa là Ngài cũng thừa nhận niềm
vui của dục, công nhận nó có vị ngọt, làm quyến rũ con người. Nói khác đi, Ngài
vẫn thấy rằng sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm dịu có vị ngọt làm say đắm lòng
người. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh bên ngoài, còn khía cánh tâm lý sâu xa hơn
bên trong là bất cứ hiện tượng dục lạc nào cũng đều dẫn đến khổ đau. Cho dù bạn
có ham thích bất cứ thứ gì trên thế gian này thì sự đam mê này sẽ thay đổi bởi
vì bất cứ vật gì rồi cũng sẽ bị thời gian vô thường thay đổi, biến hoại.Muốn
đạt được hạnh phúc, thỏa mãn dục lạc, con người phải ra sức tìm cầu, phải tạo
dựng để gặt hái kết quả. Con người cần có nhà đẹp, xe tốt, nhiều tiền, danh
vọng, ăn ngon, mặt đẹp . . . nên phải cố gắng làm lụng vất vã, chịu đủ sự khổ
đau nhọc nhằn đến với bản thân như ốm đau bệnh tật, chịu đựng nắng gió, mưa
lạnh và vô số chướng ngại khác để đạt được mục tiêu, có khi còn phương hại đến
cả tính mạng. Vì lý do này hay lý do khác, con người không ngừng cố công tìm
cầu nhằm thỏa mãn cái mà người ta gọi là “giá trị của cuộc sống”. Nhưng cuộc
sống thì không đứng yên, giá trị cuộc sống mà con người quan niệm thay đổi từng
giây, từng phút. Cái giá trí của ngày hôm qua
thì hôm nay đã bị thay thế bằng một cái khác, giá trị hơn. Cuộc tìm cầu
“giá trị của cuộc sống” cứ xoay quanh lẩn quẩn, xem ra không có lối thoát.
Nhưng rồi con quỷ vô thường không tha cho một ai cả, những gì con người trân
quý thì cũng không nắm giữ nó mãi. Con người sẽ khổ đau khi tài sản, hạnh phúc
tan rã, cuộc sống gặp trắc trở rủi ro. Họ sẽ buồn khóc, than trời, trách đất và
thái độ tiêu cực đó chỉ mang lại cho bản thân họ thêm khổ đau vướng mắc. Vì thế
đức Phật dạy rằng “Này các Tỳ kheo, nếu
thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy mà tài sản
ấy không đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực mê man
bất tĩnh: ‘ôi! sự nỗ lực của ta thật sự vô ích, sự tinh cần của ta thật sự
không có kết quả’. Này các tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm của các dục”.
Nhưng làm thế nào để thoát khỏi khổ ách?
Tuy Bát Nhã Tâm Kinh chỉ vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng
quan trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự tại Bồ-tát
hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế
khổ ách". Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn đề thoát khổ. Con
người sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa soi rọi
rõ ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không. Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết tất
cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ là Vô ngã và người cảm thọ khổ cũng là Vô
ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh. Như thế rõ ràng, không thực có khổ, cũng
không thực có cái gọi là con người thọ khổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổ
ách nào ràng buộc cả. Quan trọng nhất là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã
thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mình
nghĩa là thân này không phải là Ta, là của Ta và thế gian vạn vật cũng không
phải là của Ta. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy là ngõ vào giải thoát.
Tóm lại, một khi đã thực sự nhận biết rốt ráo rõ ràng
rằng trong ta không hề có “Cái Ta” hay “Cái của Ta” thì lúc đó
chúng ta sẽ khám phá một chân lý tuyệt vời độc nhất vô nhị, là tinh hoa cốt tủy
của Phật giáo mà ngày xưa chính đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề là Chân lý
Vô Ngã. Đó là:
-Thân thể này không phải là tôi, là
của tôi.
-Những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến cái tôi.
-Cái tâm đang quán sát cũng không phải là linh hồn của tôi.
-Và tất cả những đối tượng của tâm như ý thức và hành thức cũng không phải
là của tôi.
Tuy căn bản của phiền não là Kiến hoặc và Tư hoặc,
nhưng cái gốc để tạo ra những phiền não đó chính là chấp Ngã. Chấp Ngã đã phá
thì chấp pháp cũng theo đó mà diệt bởi vì trong thì Ngã Không và ngoài thì Pháp
Không, trong ngoài tự tại tức là có giải thoát. Vì thế nếu diệt được chấp Ngã
thì tất cả những vô minh phiền não cũng tan biến theo.
Ngày xưa, khi đức Phật chưa chứng quả giải thoát thì
tham sân si, các lậu hoặc và ham muốn vẫn thỉnh thoảng dấy khởi, vướng mắc. Vấn
đề này khiền Ngài ưu tư và cuối cùng nghĩ ra rằng: “Chỉ một mình quán như
thật các dục vui ít khổ nhiều chưa đủ mà phải hành thiền để chứng
được hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể nhiếp phục và đoạn trừ các dục”.
Như vậy, hành thiền chứng được hỷ lạc do ly dục là
thoát được dục lạc, kinh nghiệm này của đức Phật đã mở ra một đường hướng để
giải quyết vấn đề dục lạc. Điều quan trọng mà chúng ta thấy ở đây là muốn hành
thiền theo phương pháp của đức Phật thì phải “ly dục, ly bất thiện pháp” bởi vì dục và bất thiện
pháp là chướng ngại của thiền, là kẻ thù cần loại bỏ của thiền.Nói rõ
hơn, thiền không phải là một pháp môn trong 84.000 pháp môn tu của đạo
Phật (Đại thừa), mà thiền là mạng mạch, là cốt lõi của đạo Phật. Nhờ hành Thiền
mà Thế Tôn đã chứng ngộ và khai sáng ra đạo Phật. Suốt 49 năm hành đạo của
Ngài, đức Phật thực hành thiền với nhiều hình trạng khác nhau và trong suốt
thời gian hành đạo này, Ngài luôn hành thiền trong cả bốn oai nghi, trong khi
sinh hoạt, khất thực, thọ trai, … và tất nhiên vẫn luôn toạ thiền.
Khi đã thông hiểu tính vị tha vô ngã thì con người có thể khắc chế được
tâm tham đắm dục lạc, bớt lòng ích kỷ, hướng về cứu giúp chúng sinh để phát
triển Bồ-đề tâm.Chúng sinh nên lấy từ bi và trí tuệ làm gốc. Bởi vì từ bi là
tình thương không phân biệt thân sơ và chính là tình thương chân thật bình
đẳng, nhưng từ bi mà không có trí tuệ thì từ bi dễ bị tình cảm chi phối, thiếu
sáng suốt và yếu đuối dễ bị sa ngã. Còn trí tuệ mà thiếu từ bi thì thành trí
tuệ khô tức là sự khôn ngoan mánh lới chỉ làm lợi ích cho riêng mình, phát triển
tánh tham tật đố và tăng trưởng bản ngã.
-Này Vô Tận Ý, Bồ-tát
Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng
nhớ.
8)Người nữ nào lễ bái,
cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm để cầu con trai thì được con trai phước đức trí
tuệ, còn muốn cầu con gái thì được con gái hình tướng xinh đẹp, trồng sâu
cội phước, người người kính mến.
Khi chúng sinh phát khởi một niệm giác ngộ để sống đúng với chân lý là
mình đã cúng cho một vị Bồ Tát. Phát khởi một niệm khác lợi ích cho chúng sinh
và sống đúng với chân lý là cúng dường cho hai vị Bồ Tát. Cứ như thế mà nghĩ
niệm lành, nói lời thiện, làm việc tốt cho chúng sinh là mình đã cúng dường cho
vô số chư Bồ Tát trong mười phương rồi. Phải chăng chữ “Bồ Tát” muốn ám chỉ
trong đoạn kinh này là chúng sinh vì trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều
có Bồ Tát tâm, Bồ Tát tánh như nhau, không sai khác. Trong Phật giáo, Pháp cúng
dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là chúng sinh đúng theo lời Phật
dạy mà tu hành để cúng dường. Làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường. Nhiếp
thọ chúng sinh để cúng dường. Thay thế sự khổ ách cho chúng sinh để cúng dường.
Siêng tu căn lành để cúng dường. Chẳng bỏ hạnh nghiệp Bồ Tát để cúng dường. Vì
thế chúng sinh có đem vô lượng công đức của tài cúng dường cũng không bằng một
phần trăm, một phần nghìn của Pháp cúng dường vậy.
Nếu có chúng sinh cầu có con trai sẽ sinh được con trai nghĩa là nếu chúng
sinh muốn tu phước đức trí tuệ thì chắc chắn sẽ được phước đức trí tuệ. Con
trai ở đây là phước đức trí tuệ, là nguồn sống chân thật của mình chớ một vị
Đẳng Giác Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm đâu có giúp chúng sinh tăng trưởng thêm
lòng tham dục, muốn gì được nấy, trái với luật nhân quả khách quan của thế gian
vũ trụ. Vì thế nếu chỉ hiểu trên chữ nghĩa chúng ta sẽ bị kẹt.
Có một nữ Phật tử muốn cầu con nên đến chùa gặp vị Ni cô dạy niệm Đức Quán
Thế Âm thì muốn con trai sẽ có con trai. Cô Phật tử làm y như vậy, tuần nào
cũng đến chùa cầu nguyện đức Quán Thế Âm rất chân thành. Nhưng đến khi sanh thì
sinh con gái. Cô có vẻ bất bình tìm đến chùa để chất vấn vị Ni cô. Sư cô biết
được nên cố tránh né không muốn gặp mặt. Dựa theo xác suất (probability) của
toán học thì xác suất để đạt được bất cứ vấn đề gì có thể tăng hay giảm, ít hay
nhiều, nhưng có thể xảy ra. Vì thế xác suất lời nói của Ni cô là 50% đúng nghĩa
là cơ hội đúng rất cao. Ngay cả xác suất để trúng lô độc đắc là rất nhỏ có thể
là một trong hai trăm triệu, nhưng tuy là rất nhỏ nhưng hàng tuần vẫn có người
trúng. Vậy khi trúng số không phải là Phật, hay Bồ Tát ban cho mà phước đức của
mình đến lúc xuất hiện vậy thôi. Con cái, vợ chồng là do ân oán nhân duyên kết
tập từ những đời quá khứ nên gặp lại nhau trong đời này. Nếu đời trước cha mẹ
nợ nần thì đời này con cái đến đòi nợ cho nên cả đời cha mẹ khổ vì con cái. Còn
nếu đời trước con cái nợ nần cha mẹ thì sang đến đời này nó đến để đền ơn trả
nghĩa nên đó là những đứa con hiếu để, biết thương yêu, lo lắng, chăm sóc cho
cha mẹ. Vì thế Bồ Tát không can dự vào chuyện ân oán nợ nần của chúng sinh mà
ban cho con trai, con gái hay bất cứ đứa con nào. Giả sử nếu Bồ Tát ban cho
chúng sinh đứa con ngỗ nghịch, vào tù ra khám, giết cha hại mẹ thì chúng sinh
nghĩ sao về ngài? Rất nhiều gia đình có liên tiếp ba bốn đứa con trai. Lại có
gia đình có liên tiếp bốn năm đứa con gái. Nhưng phần lớn thì trai gái chen
nhau là chuyện thường. Thế thì không phải cầu nguyện, van vái để được cái này,
có cái kia. Có hay không có là do phước đức quả báo của mình đến lúc xuất hiện
hay chưa vậy thôi chớ Bồ Tát không cho hay ban phát cho ai cái gì cả. Đạo Phật
không dạy chúng sinh cầu nguyện vì có cầu cũng chẳng được mà đạo Phật chỉ dạy
chúng sinh tin sâu vào nhân quả bởi vì chính đức Phật cũng phải đi xin cơm tín
chúng thì lấy gì để Ngài cho. Nếu đức Phật và các đại đệ tử của Ngài linh thì
họ chỉ cần niệm Úm Ba La Bát Nhi Hồng rồi phẩy cái phất trần thì đồ ăn, thức
uống hiện ra trước mặt, nhưng tại sao hằng ngày họ cũng phải đi hóa duyên? Do
đó không có vấn đề linh hay không linh trong Phật giáo bởi vì đức Phật Thích Ca
chỉ là một đấng đạo sư vô thượng chớ không phải là đấng thần linh. Ngài dạy
chúng sinh lau sạch bụi vô minh phiền não thì sẽ có thanh tịnh an lạc Niết bàn.
Nếu y giáo phụng hành thì đây là linh vậy. Do đó nếu hiểu kinh điển một bên hay
hiểu theo sự tướng bề ngoài thì rất nguy hiểm dễ rơi vào mê tín dị đoan, khiến
tâm bất tịnh.
Do đó không có chuyện ai cầu con trai Bồ Tát cho con trai hay cầu con gái
thì Bồ Tát cho con gái. Đây là nói theo nghĩa đen của kinh (sự tướng) còn thâm
ý của kinh thì con trai đồng nghĩa với phước đức trí tuệ và con gái tức là đoan
chính tứ hảo. Đặc biệt hơn nữa muốn cầu con trai được con trai, cầu con gái
được con gái nói lên công đức bất khả tư nghì của người niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm. Do công đức thù thắng bất khả tư nghì nên người niệm danh hiệu ngài mọi
việc được như ý. Nhưng cao hơn hết, niệm Quán Thế Âm là xoay lại với tánh nghe
thanh tịnh huyền diệu tức là trở về sống với tánh giác, Tri Kiến Phật của mình
thì mọi việc đều được như ý cho nên cứ y theo kinh mà giải nghĩa là hàm oan cho
ba đời chư Phật và nếu hiểu kinh chỉ một bên thì tai hại vô cùng.
9)Cung kính lễ bái Quán
Thế Âm phước đức không bao giờ mất và nhiều như phước đức của người niệm danh
hiệu và cúng dường sáu muơi ức hằng hà sa Bồ-tát.
Người đệ tử Phật phải sáng suốt nhận định rằng chính đức Phật Thích Ca
trong suốt 49 năm trời rày đây mai đó thuyết pháp độ sinh không ngừng nghỉ.
Ngài dùng biết bao phương tiện : Ngài nói rộng, nói hẹp, nói đốn, nói tiệm, nói
quyền, nói thật và sau cùng để lại cho Phật tử ba tàng giáo lý thì nếu đây
không là “Phật gia bì” hay “Tha lực Phật” thì là gì? Nhưng trong Phật giáo
không hề có chuyện van vái, cầu xin thế này thế kia để được Phật hay Bồ Tát gia
bì bởi vì nó trái với quy luật nhân quả khách quan của hiện tượng vạn hữu trong
thế gian vũ trụ. Đức Phật không phải là đấng thần linh vì thế “gia bì” hay “cứu
độ” trong Phật giáo phải được hiểu là thực hành đúng theo những giáo pháp của
Như Lai đã dạy. Phương pháp quán niệm Bồ Tát Quán Thế Âm rất quan trọng vì thế
người đệ tử Phật khi tu học phẩm này này hãy gác qua tình cảm do tập quán và
truyền thuyết dân gian hời hợt. Chúng sinh hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy
biết, tư duy vận động lý trí có tánh khách quan thì mới có thể nhận chân giáo
lý và mới có thể biết được sự thật về những điều huyền diệu mà đức Phật đã dạy chúng
ta.
Đức Phật dạy rằng công đức người niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm so với
người niệm và cúng dường vô số chư Bồ Tát khác ngang nhau và nhiều vô tận. Vì
sao vậy? Bởi vì niệm vô số danh hiệu chư Bồ Tát khác là mục đích trở về với Tri
Kiến Phật trong khi đó niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cũng trở về với Tri
Kiến Phật, trở về với tánh giác, chơn tâm hằng sáng thanh tịnh vốn có sẵn trong
mỗi chúng sinh thì mọi nguyên nhân gây ra phiền não khổ đau không còn thì không
còn phước đức nào lớn hơn. Niệm ở đây không phải chỉ là niệm ngoài miệng, niệm
suông mà niệm nghĩa là quay vào để lắng nghe tiếng Diệu Âm, là âm thanh huyền
diệu phát ra từ tánh giác trong sáng của chính mình. Từ đó chúng sinh sẽ luôn
sống trong tỉnh thức chánh niệm, luôn làm chủ tâm mình, tránh xa mọi ảo vọng
điên đảo, loại bỏ những tư tưởng thấp hèn, không còn bị tham-sân-si sai sử thì
đây mới chính là công đức thù thắng bất khả tư nghì của người niệm Bồ Tát Quán
Thế Âm.
Vô Tận Ý bạch:
-Thế Tôn ! Bồ-tát Quán Thế Âm làm
thế nào mà dạo khắp Ta-bà? Sức mạnh phương tiện của Bồ-tát như thế
nào?
Phật bảo:
-Nếu có chúng sanh quốc độ nào cần thân Phật mới độ thoát họ được, thì
Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe. Nếu cần
thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Tự Tại
Thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ-Sa-Môn, thân Tiểu Vương,
thân Trưởng Giả, thân Cư-Sĩ, thân Tể Quan, thân
Bà-la-môn, thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thân con trai,
thân con gái, thậm chí đến thân Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, cùng không phải loài người, để độ thoát một
chúng sanh của một quốc độ nào đó, thì Bồ-tát Quán Thế Âm tùy trường hợp mà
hiện thân ấy để hoá độ.
-Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ
thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “
nhất tâm” cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta-bà gọi là “ Người
bố thí vô uý” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ-tát có khả
năng làm cho hết sợ.
Thế nào là thế giới Ta Bà?
Ta Bà là kham nhẫn nghĩa là chúng sinh ở trong cái thế giới tâm có nhiều
phiền khổ, bức ách mà vẫn phải cam tâm nhẫn chịu. Nếu hiểu theo “sự tướng” thì
Bồ Tát Quán Thế Âm có đủ thần thông diệu dụng nên ngài dạo khắp thế giới Ta Bà
để lắng nghe từng nỗi khổ của nhiều hạng người và sau đó tuỳ trường hợp mà cứu
độ họ. Nhưng hiện thân thế nào? Bồ Tát
Quán Thế Âm có Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam muội nên có thể ứng hiện bất cứ
hình tướng nào theo ý muốn? Bất cứ ai sống trong thế giới Ta Bà cũng đều cưu
mang nỗi khổ từ hình thức này đến hình thức khác, nặng nhẹ khác nhau. Quan
trọng nhất là hãy nhìn lại chính mình. Từ khi lớn lên đến giờ chúng ta phải cam
chịu biết bao nỗi khổ từ tinh thần đến vật chất. Có những lúc quá khổ, chúng ta
cũng cầu nguyện Bồ Tát, nhưng cái khổ, cái nghèo đâu có hết? Nếu cầu nguyện Bồ
Tát làm thế gian hết khổ, hết tai nạn thì tại sao hằng ngày con người vẫn còn
khổ, tai nạn, thiên tai, động đất vẫn xảy ra khắp mọi nơi? Thế thì không lẽ
kinh nói sai?
Mới đây nhất ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở Nhật Bản có trận động đất với
cường độ 9.0 mang theo nhiều ngọn sóng thần cao đến 40 thước (133 ft) đã quét
sạch nhiều thành phố dọc theo bờ biển về phía Đông Bắc. Có trên 15.846 người
chết, 3.320 người mất tích và trên 125.000 tòa nhà lẫn cao ốc bị hủy diệt. Nhật
Bản là quốc gia Phật giáo cho nên khi gặp biến cố tai trời ác nước như thế thì
dĩ nhiên ai cũng cầu nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm đến cứu giúp, nhưng nếu có thì
tại sao số người chết và sự tàn phá cao đến như vậy? Ngoài động đất, còn có núi
lửa, bảo tố và biết bao thiên tai khác đã giết hại con người khắp mọi nơi trên
thế giới. Vì vậy, sự sống chết của con người là do ân oán nhân quả của họ cho
nên Phật trời không bao giờ can dự vào. Nếu một người gieo rất nhiều thiện
nghiệp, phước đức quá to lớn đến lúc gặp nguy nan, hoạn nạn thì có kẻ khác ra
tay giúp trả lại thế thôi. Vì thế cứu độ ở đây phải được hiểu là Bồ Tát Quán
Thế Âm phát ra tiếng nói thánh thiện từ trong lòng của mỗi chúng sinh để nhắc
nhở, khuyến khích, động viên họ làm việc lành, tránh việc ác và giữ tâm ý cho
được thanh tịnh thì cuộc sống sẽ có an vui, tự tại. Nên nhớ ngày xưa đức Phật
Thích Ca hằng ngày cũng phải ôm bình bát đi xin cơm thính chúng, nếu Ngài có
thần thông diệu dụng thiên biến vạn hóa, chỉ cần niệm thần chú thì bát cơm tự
đầy cần gì phải đi xin. Nếu đức Phật không làm được thì không có một vị Bồ Tát
nào có thể làm được. Vì thế không có chuyện Bồ Tát thương người này và không
cứu giúp người khác, tất cả đều là do nhân quả ứng hiện mà ra. Nói cách khác,
mình gieo nhân thì tự gặt lấy quả, hoàn toàn không có một tác nhân của Phật,
Chúa Trời, Thần, Quỷ … can dự vô nhân quả của mình được. Mình gieo nhân tốt,
không cần sự cứu rỗi của ai cũng được sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu
mình làm chuyện bất thiện thì sau khi chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với
cảnh giới của những người bất thiện, khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh
giới chịu khổ sở để trả quả báo ác độc chớ không có một vị thần nào đày ta
xuống cõi âm ti, địa ngục cả. Lương tâm là tòa án công bằng nhất
của mỗi người, mình dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm
mình.
Tóm lại, Thần có nghĩa bất tư nghì, việc làm mà người thường
không thể làm được. Thông có nghĩa là vô ngại, thông suốt tức là không còn ngăn
ngại.thần thông được hiểu là bất tư
nghì, vô ngại tự tại. Vô ngại tự tại đối với những việc khó tự tại để vượt qua
những thử thách mà người thường không thể nào tự tại được. Vì vậyngười có thần thông là người mà lục căn được sức tự tại vô
ngại một cách bất tư nghì (không thể nói được) mà đối với một người thường
không nghĩ đến được, không thực hành được, không thể chiến thắng được những dục
vọng làm ô nhiễm tâm ý của mình. Đó là
mắt đối với sắc, tai đối âm thanh, lưỡi đối với mùi vị, mũi đối với hương vị,
thân đối với cảm xúc và ý đối với pháp trần mà vẫn được tự tại vô ngại một cách
bất tư nghì, không bị lôi cuốn, nhận chìm trong bể ái sông mê.
Cái tinh hoa của Phật giáo là phát triển trí tuệ và sống bằng trí tuệ nên
Phật giáo là khoa học và vượt hẳn khoa học vì tất cả những gì đức Phật tìm ra
con đường giải thoát giác ngộ rất phù hợp với tiến trình khám phá của khoa học
và ngày nay khoa học cũng nương theo con đường đó mà phát triển mạnh. Thống kê
mới nhất năm 2011 cho thấy những quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ thì số người tin
vào Thượng đế và thần quyền đang trên đà sa sút trầm trọng. Ngay cả những người
tuy vẫn còn tin vào Thượng đế, nhưng họ rất thất vọng ê chề với hệ thống tôn
giáo rườm rà, quá chú trọng vào hình thức và những giáo điều lỗi thời đi ngược
lại với dòng tiến hóa của nhân loại nên họ không còn muốn đi nhà thờ nữa. Ngược
lại số người tin vào thuyết nhân quả, lý nhân duyên và con đường tự giác của
đạo Phật càng ngày càng gia tăng. Con người cảm thấy hạnh phúc hơn, hãnh diện
hơn, tự tin và thoải mái hơn khi họ nhận những kết quả tốt đẹp mà do chính tự
tay họ gieo. Vì thế không có nhân bản, đạo đức nào bằng nhân bản, đạo đức của
đạo Phật.
Ngay cả nhà bác học Albert Einstein cũng nói:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của hoàn cầu, vượt lên trên
mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả hai phương
diện tự nhiên và siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ
kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật
giáo sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với
các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét
lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.
Phật giáo cũng không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa
học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học”.
Khi tâm của chúng sinh đang bị dày vò, buồn bực, đau khổ, phiền muộn, đau
thương, trắc trở, rối rắm, bất bình, bất mãn, bất an thì lúc đó chúng ta đang ở
trong thế giới Ta Bà. Nhưng khi chúng sinh nhớ đến Bồ Tát Quán Thế Âm nghĩa là
chúng ta nhớ đến Chánh niệm tỉnh thức nên quay về sống với Tri Kiến Phật hằng
hữu thì tất cả những ưu phiền đó tan biến vì vậy kinh mới nói Bồ Tát độ chúng
sinh trong cõi Ta Bà là vậy. Vì thế khi không còn phiền não khổ đau thì ngay
thời điểm đó chúng ta đang vãng sinh từ thế giới đau khổ sang thế giới an tịnh,
nhẹ nhàng thanh thoát tức là mình đang sống trong cõi cực lạc rồi. Cốt tủy của
kinh Pháp Hoa là giúp chúng sinh “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến” nghĩa là đức Phật muốn khai mở, chỉ bày, làm tỏ ngộ
và thâm nhập cái thấy biết
của Phật vốn đã có sẵn trong tất cả mọi người. Như vậy đức Phật giúp chúng sinh
mở toang và thanh tịnh hóa trí tuệ Phật của họ để nhận biết như thật về tánh Vô
Ngã và thuyết Duyên Khởi của các pháp. Vì thế niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm
chỉ là quay về với tánh giác hằng sáng của mình để thanh tịnh hóa cái tri kiến
Phật đó. Đạo Phật là đạo tin sâu vào nhân quả cho nên bất cứ giáo điều nào ra
ngoài nhân quả thì chắc chắn đó không phải là của Phật giáo.
Hiện nay có trên sáu tỷ người trên thế giới trải khắp năm châu bốn bể nên
không có chuyện Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân bằng hình tướng này hay hình tướng
nọ để an ủi, cứu giúp họ. Mà huyền nghĩa của kinh là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện
thân chính ở ngay trong tất cả mọi người. Tâm tưởng con người biến đổi từng giây,
từng phút. Thí dụ có những lúc chúng ta giận dữ, cố đấu tranh hơn thua là giây
phút đó chúng ta đang sống trong cảnh giới của A tu la. Nếu bấy giờ chúng ta
niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngài hiện đến thế giới A tu la đó nghĩa là từ trong
lòng ta phát ra những Diệu Âm để hóa giải hết giận hờn, tranh chấp tức là đưa
chúng ta thoát ra khỏi cõi A tu la. Nếu tâm ta đang phát khởi những niệm lành
và muốn phát triển thêm hạnh lành nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát liền
hiện trong cái tâm lành của ta bằng với thập thiện nghiệp đó tương ứng với các
chư Thiên để khuyến khích, giúp đở ta thành tựu ý chí thiện đó. Vì thế bất cứ
tâm niệm nào cũng có thể tưởng niệm, tư duy quán chiếu tiếng Diệu Âm mầu nhiệm
trong lòng mình để nhắc nhở trên con đường hoàn thiện của mình. Đó chính là khả
năng du hành tự tại của Bồ Tát ở cõi Ta Bà vậy.
Nói thế thì bất cứ ai ở đâu và làm gì cũng đều có Bồ Tát Quán Thế Âm ở
trong họ để nhắc nhở họ luôn làm lành lánh dữ, tránh xa dục lạc thấp hèn, luôn
sống trong thức tỉnh chánh niệm, luôn làm chủ tâm mình thì cuộc đời sẽ không
bao giờ có hoạn nạn, bao nhiêu khổ ách sẽ tan biến. Đó chính là thần lực nhiệm
mầu của Bồ Tát. Cao hơn nữa, Bồ Tát còn khuyến khích họ quay về sống với chơn
tâm, Phật tánh hay Tri Kiến Phật hằng sáng thì cuộc sống sẽ trở thành thanh
tịnh tự tại Niết bàn.
Chúng sinh sắp làm bất cứ việc thiện hay ác gì thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng
nhắc nhở, khuyến khích hay cảnh báo trước. Nếu con người biết nghe theo và thực
hành đúng những Diệu Âm đó thì chính họ sẽ có nhiều lợi ích và tránh xa biết
bao tai họa. Thí dụ có người muốn đi cướp nhà băng hay có ý định giết người thì
Bồ Tát Quán Thế Âm liền cảnh báo cho biết tai họa sắp xãy ra, nhưng vì vô minh
tham dục che lấp khiến họ không nghe theo Diệu Âm nên mới phải vào tù chịu khổ.
Một khi đã bị bắt hay vào tù tức là nhân đã thành quả rồi thì Bồ Tát Quán Thế
Âm cũng đành bó tay, không giúp gì cho ai được.
Vì sự huyền diệu đó mà Bồ Tát Quán Thế Âm Âm có thể hiện trên sáu tỷ thân
người là như vậy nghĩa là thế giới có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu hiện
thân của Bồ Tát Diệu Âm. Tiếng nói Diệu Âm này không nhất thiết chỉ dành cho
Phật tử, những người quy y Tam Bảo, mà nó có trong tất cả mọi chúng sinh. Người
theo đạo Thiên Chúa giáo cũng có tiếng nói này, kẻ theo đạo Bà la môn cũng nghe
rất rõ Diệu Âm này. Thậm chí, những người không theo bất cứ tôn giáo nào thì
tiếng nói Diệu Âm vẫn réo gọi trong tâm hồn họ rất huyền diệu chằng sai khác vì
tất cả mọi chúng sinh đều có sẵn Phật tánh (Buddha Nature) rồi.
Thế nào là chúng sinh phải “nhất tâm” cúng dường đức Quán Thế Âm?
Ở đây kinh không dạy chúng sinh cúng dường đức Quán Thế Âm bằng hương,
hoa, quả hay những món quý giá, đắc tiền hữu vi sinh diệt vì Bồ Tát chẳng cần
những thứ đó. Mà công đức lớn nhất là cúng dường nhất tâm. Nhất tâm là: “Niệm
mà chẳng niệm”, nghĩa là vẫn niệm nhưng chẳng có thêm vào một ý niệm là có ta
đang niệm. “Chẳng niệm mà niệm”, lúc này, danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cứ tuôn
chảy tự nhiên như dòng thác mà chẳng gián đoạn. Do đó, căn bản của nhất tâm là
không có tâm phân biệt “niệm” hay “không niệm”, “phân minh” hay “không phân
minh. Nói cách khác người có nhất tâm là người có Chánh niệm, Chánh định và từ
đó họ sẽ hóa giải hết tất cả những phiền não, khổ đau. Thí dụ mình đang đau khổ
cực độ, nhưng nếu có nhất tâm, chánh niệm liền niệm danh hiệu Quán Thế Âm để
quay về sống với tánh giác hằng sáng thanh tịnh thì những đau khổ đó sẽ tức thì
biến mất. Vì hết đau khổ, hết lo sợ nên người ở Ta Bà gọi ngài Quán Thế Âm là
người bố thí pháp vô úy.
Vô úy là không sợ vì thế pháp vô úy thí là phương pháp giúp cho người khác
không còn lo sợ. Nghĩ lại, cái sợ đã chiếm quá nữa cuộc đời của con người. Khi
còn nhỏ, chúng ta sợ rắn rít, bò cạp, sợ bóng tối, sợ ma…khi lớn lên thì sợ
thiếu ăn, thiếu mặc, sợ cô đơn, sợ giặc, sợ thi rớt, sợ tai nạn, sợ kiếm không
ra việc làm, sợ thiếu công danh sự nghiệp, sợ thua sút bạn bè, khi già thì sợ
đau, sợ bịnh, và cuối cùng là sợ chết. Nếu muốn kể cho hết tất cả những nỗi sợ,
thì phải nói cả đời vẫn chưa xong. Đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm
vì sợ. Cho nên làm cho họ hết sợ chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nữa nỗi khổ
đau trong kiếp sống này. Muốn giúp người, trước hết chúng ta phải luyện cho
mình một đức tính đừng sợ. Làm thế nào mà
đạt đến điều này? Khi đã hiểu thuyết vô thường của nhà Phật thì
chúng ta không còn sợ cái gì cả, bởi vì nếu
không tham lam tiền của thì chúng ta không sợ mất, không màng danh lợi
thì không sợ thất vọng, cái thân tứ đại này là giả tạo nên không sợ chết. Con
người có lo sợ, có đau khổ cũng vì sống trong vọng tưởng, bất giác vô minh,
không đúng với chân lý, bây giờ chịu quay về nhất tâm niệm danh hiệu Quán Thế
Âm tức là trong tâm chỉ có danh hiệu Bồ Tát chớ không còn vọng niệm nào khác
thì lúc đó vọng tưởng tiêu tan, ý niệm tham đắm biến mất thì hết lo sợ, đau
khổ, buồn phiền.
Như vậy phương pháp tốt nhất có thể tạo ra một môi trường hạnh phúc và an
bình chân thật là pháp thí vô úy tức là làm cho người khác không còn sợ hãi vì
trong ý nghĩa sâu thẳm nhất của vô úy thí đồng nghĩa với giải thoát và hạnh
phúc. Ở đây Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là “thí vô úy giả” tức là người bố thí sự không sợ hãi. Nhưng bên
cạnh nhân cách lý tưởng trên, còn có một mẫu người thứ hai cũng có thể đem sự
không sợ hãi đến cho chúng sinh. Đó là những người ngang qua nỗ lực cao đẹp và
phi thường của tự thân đạt đến con đường giải thoát Giới, Định, Tuệ và tri kiến
giải thoát một cách trọn vẹn. Nhưng chính đức Phật Thích Ca xuất hiện trong
cuộc đời này là vì lòng từ bi vô lượng của Ngài luôn luôn được hướng đến tất cả
chúng sinh, do vậy đức Phật là một nhân cách toàn thiện cả hai đức tính từ bi
và trí tuệ mà vô úy nghĩa là không sợ hãi là kết quả của lòng từ bi và trí tuệ
đó.
Trên thế gian này, bất cứ sự thành tựu nào mang tính sáng tạo luôn luôn là
kết quả của một sự kiên nhẫn phi thường và một sự tập trung cao độ. Các nhà bác
học, các vĩ nhân đã miệt mài, tận tụy nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm vì
thế mọi sáng tạo, những phát minh đều là sản phẩm của sự tập trung (thiền định)
tột cùng. Dĩ nhiên trong lãnh vực chứng đắc tâm linh việc này lại càng rõ ràng
hơn. Sự chứng ngộ của đức Phật tại Bồ Đề đạo tràng sau 49 ngày đêm thực hành
thiền định được xem như là một biểu mẫu cụ thể và hùng hồn nhất cho sự thật đó.
Nhưng một thành phần cốt yếu giúp Ngài thanh tựu đạo quả Bồ Đề là Ngài thực
hành tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả với cấp độ cao nhất. Vì thế thực hành từ,
bi, hỷ, xả và luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm chắc chắn sẽ khiến cho phiền
não, khổ đau biến mất trong tâm thức của con người, đem lại an lạc, hạnh phúc và xóa đi những lo sợ cho cuộc
sống.
Do “tưởng” điên đảo nên phóng hiện ra hình ảnh ma quái khiến chúng ta lo
sợ. Vì thế chủ đích của phẩm này là phá tưởng uẩn để trở về sống với cái chân
thật, với trí tuệ Phật hằng sáng trong ta. Vì thế niệm danh hiệu ngài Quán Thế
Âm thì những ý niệm điên đảo, ma quỷ tiêu tan ngay khiến chúng ta yên ổn, hết
sợ hãi thế thôi. Cao hơn nữa, niệm Quán Thế Âm là trở về với tánh giác hằng
sáng thanh tịnh của ta thì tất cả những vọng niệm điên đảo sẽ tan biến nên
không còn cái gì để lo sợ, buồn phiền. Nhưng cao hơn hết, niệm danh hiệu Quán
Thế Âm là trở về với Tri Kiến Phật, là cái thể chân thật của mỗi người, vô hình
vô tướng, thì làm sao lửa đốt, nước nhận chìm, hay ma quỷ hại được nên hết lo
sợ và mọi hiểm nguy đều hóa giải.
Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm là quay về lắng nghe âm thanh vi diệu
nghĩa là quay về sống với tỉnh thức chánh niệm để làm chủ thân, tâm của mình ở
mọi thời và mọi nơi. Chánh niệm là
biết rất rõ mọi biến hành của thân và tâm. Ngược lại người không sống trong
tỉnh thức chánh niệm thì ăn không biết mình ăn, mặc không biết mình đang mặc,
thở không biết mình đang thở. Chánh niệm là trạng thái trước khi biểu tượng
hình thành và nó vượt ra ngoài mọi lý luận của ý thức. Chánh niệm phản chiếu
những gì đang xảy ra ngay trong sát na hiện tại và không có chút thiên vị vì vượt
ra ngoài tầng ý thức phân biệt. Chánh niệm là sự quan sát không có phán đoán,
là sự theo dõi vô tư, không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố
gắng lẫn tránh những trạng thái tâm không tốt
và nó cũng không bám theo theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó
chịu. Vì thế Chánh niệm không phải là ý thức suông việc làm của mình mà phải
thấu biết rõ ràng tức là tuệ tri những biến hành của thân, tâm từng sát
na, từng hơi thở ra vào.
Nhắc lại, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát thì Bồ Tát Dược Vương đốt thân và
hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì đây là bố thí nội tài.
Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát vãng lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10.000 thứ kỹ
nhạc và đem 84.000 cái bát ăn cơm làm bằng châu báu để cúng dường cho Phật Vân
Lôi Âm Vương thì đây là bố thí ngoại tài. Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm bố
thí vô úy.
Bố thí là một quan niệm sống, một nghệ thuật sống cao đẹp, phát sinh từ
tâm từ bi. Nếu không có tâm từ bi thì không thể thực hành hạnh bố thí. Ngoài
ra, muốn bố thí đạt đến cứu cánh, thì phải hợp với tinh thần Ba la mật mà kinh
Kim Cang gọi là “Bố thí vô tướng, độ
sinh vô ngã” nghĩa là khi giúp người mà chúng ta hoàn toàn không thấy
mình là người ban ơn, chúng sanh là kẻ chịu ơn. Có như vậy chúng ta mới phục vụ
người khác bằng một tấm lòng trong sáng, không có tính toán, mưu mô.
Một điểm quan trọng khác là trong phẩm Dược Vương Bồ Tát thì Bồ Tát Dược
Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì đây
là phá sắc uẩn.
Sắc uẩn là yếu tố vật
chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là đất (Tóc, lông, móng răng, da, thịt,
gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử, thực phẩm
chưa tiêu, phẩn), nước (Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước
mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu), gió (Gió hướng lên khiến ta nôn,
gió hướng xuống giúp nước tiểu và phẩn ra ngoài, gió trong ruột, gió ngoài ruột
nhưng nằm trong bụng, mọi tác động của cơ thể như đi, đứng, ngồi, co, duỗi v.v…
hơi thở ra vào), lửa (Thân nhiệt, sức nóng làm cho cơ thể tưởng thành,
già nua,nhiệt độ quá
cao khiến chúng ta khó chịu và than phiền là quá nóng,nhiệt độ cần
thiết để tiêu hóa thức ăn). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh,
mùi vị, vật xúc chạm.Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp
mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, của Tôi, đàn ông,
đàn bà…Do ý niệm sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm ta. Như vậy yếu tố
vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay năng lượng, thuộc
thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn.Thân thể là sắc uẩn, vì vậy
chúng không phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động
và mâu thuẫn như mảng
bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy thân tứ đại chỉ là những bọt vật
chất tạm bợ. Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức ăn thức
uống, không khí, nhà cửa, xe cộ...vì thế thân tứ đại là vô thường, vô ngã tức là Không.
Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một
đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ cho nên đức Phật đã dạy rằng“Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là của Ta, là tự ngã của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã
và tai nạn”.
Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát vãng lai thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10.000
thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là phá thọ uẩn.
Thọ uần:Thọ là cảm
giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức Phật dạy
có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với
mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo
Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu
hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại: một là cảm giác khổ, hai là cảm
giác vui sướng, ba là cảm giác không vui không khổ.Tất cả những loại cảm thọ ấy
tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, chúng sinh
khởi biến hiện thay đổi vô chừng; chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã
và hiện hữu có điều kiện. Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt hái
khổ đau.
Đến phẩm này, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng sinh hết sợ.
Tưởng uẩn: là nhóm tri giác
có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu
giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại:
một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm
thanh nhận ra tiếng
chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận biết đối
tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng, ký ức, kinh nghiệm... Như vậy,
tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự
kiện. Vì vậy, tri giác là một
trong những tác dụng của thức.
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri
giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoathì biết đây là
đóa hoa bởi vì cái tri giác
về đóa hoa đã có sẵn trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đóa là đóa hoa? Khi ý thức
muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó vào A lạ da thức và sau
khi so sánh các kinh nghiệm của các đóa hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa
Mạt na thức liền chuyển ý tưởng đó cho tưởng uẩn thành ra “tri giác” tức là “sự
thấy” hay là “sự nhận ra” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri
giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động.Vì sao? Bởi vì chúng ta chỉ
thấy đóa hoa dựa theo quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức
là “tự nó thật sự là”. Khi nhìn đóa hoa chúng ta cho rằng mình
đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không
phải là” đóa hoa “hay là” đóa hoa. Mà thật chất của nó là
sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình
tướng rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa hoa. Nói vậy thì trong đóa hoa
có nước, nhưng chúng ta có thấy trời mưa hoa rơi xuống đâu? Trong hoa có ánh
sáng mặt trời, nhưng ngoài trời đâu có rơi hoa? Trong hoa có phân bón, nhưng
trong các thùng phân bón làm gì có hoa? Do đó thật tánh của hoa là không tánh
vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có
hay tồn tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không thật”
mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại có điều kiện, vì
vậy chúng vô thường, trống rỗng; và do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà
ta thường gọi là vọng tưởng.
Ngoài sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì ngũ uẩn còn có hành uẩn và thức uẩn
nữa. Phẩm Đà-la-ni kế tiếp là phá hành uẩn và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm
Vương Bổn Sự là phá luôn thức uẩn.
Hành uẩn:Hành có nghĩa là các hiện tượng
tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của
nghiệp,
nói cách khác là tạo động lực tái sinh. Hành uẩn là những hiện tượng tâm
lý còn
được gọi là tâm sở. Duy thức học chia thành 51 tâm sở gồm cả thọ, tưởng,
tức là
cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và
tri
giác vào nhóm hành vì thọ và tưởng không có khả năng tạo nghiệp và quả
của
nghiệp.Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên
chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận.Mỗi uẩn chỉ có thể làm
công
việc của chính nó. Thọ uẩn chỉ kinh nghiệm lạc thọ, khổ thọ và vô ký
thọ. Tưởng uẩn đóng vai trò nhận ra đối tượng là cái gì. Thức uẩn chỉ
làm nhiệm vụ nhận biết đối tượng (chỉ biết thấy, biết nghe, biết ngửi
v.v...). Nhưng hành
uẩn có đặc tính là phản ứng hay tác động của tâm. Hành uẩn là nguyên
nhân của đi, đứng, nằm,
ngồi, co, duỗi, di chuyển, cười, nói, nghĩ, thấy, nghe... và tất cả
những hoạt động khác.
Do sự kích thích của hành uẩn nên tất cả hành động về
thân, khẩu, ý xảy ra. Bởi vậy, thân,
khẩu, ý là sự biểu hiện của hành uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân,
khẩu, ý người ta hiểu lầm rằng: Đó là
linh hồn, tự ngã, tôi, ta.
Thức uẩn: Thức là có khả
năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với
đối
tượng, thực nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối
tượng ấy
là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức
chỉ nhận
biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả
những
hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có tám loại nên gọi là bát thức tâm
vương: nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức và A lại
da thức. Thức là nền
tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm
sở. Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích khai thác các
khía cạnh sâu kín của thức. Mạt na thức là ý căn, là căn cứ của ý thức
đồng thời
nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. A
lại
da thức là cái kho dung chứa tất cả những chủng tử của kinh
nghiệm, ký ức, kiến thức và tất cả những chủng tử thiện ác hay vô ký.
Mặt khác,
A lại da thức làm căn bản
cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động.
Nhờ khả
năng bảo tồn của A lại da thức mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở
lại khi hội đủ
các yếu tố.Có
thể hiểu A lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na thức là người
giữ kho.
Chính Mạt na thức vào trong cái kho để chuyển các chủng tử ra hay vào mà
Duy thức
gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó
là
gì.
Mặc dù thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không
tồn tại độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do duyên sinh. Thí
dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không thể nào có thức được cho nên
mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả phân ly vì vậy đạo
Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một
linh hồn bất tử chẳng hạn. Tuy A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến
chuyển vận hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào và có
khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển này mà con người mới có
thể tu thành Thánh nhân hay trở thành ác quỷ. Còn linh hồn là cố định, bất biến
cho nên đạo Phật phủ nhận có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm
chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn biến đổi theo hoàn cảnh sống
và theo hành động của chúng sang mang nó. Chính đấy là năng lượng, là sức mạnh
gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó đẩy A-lại-da hay Thức nương gá
vào một thân thể mới vừa tượng hình có hoàn cảnh phù hợp với nó. Đó là ý
nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu
thai. Thức được hiểu như là dòng chảy liên tục của các ý niệm.
Các ý niệm này tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, đức Phật gọi quá trình
tuỳ thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). “Thức” chỉ là một mắc
xích trong 12 mắc xích duyên khởi mà thôi. Do đó, khái niệm “thức” của Phật
giáo khác nhau với "linh hồn bất tử" của các tôn giáo khác rất lớn.
Chính sự tiếp nối của các ý niệm tương tục nầy mà thức đi tái sanh,
lên xuống trong 3 cõi 6 đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng
như cách hiểu của các tôn giáo khác.
Dựa theo khoa học thì vật lý là sự vật chưa có cái biết,
chưa có sự sống. Sinh lý là sự vật có sự sống mà chưa có cái biết. Còn tâm lý
là có sự sống, có cái biết mà chưa có phân biệt đó là cảm giác tức là thọ uẩn. Thế thì vật lý là
trần, sinh lý là căn và tâm lý là thức. Dựa theo Duy thức thì căn tiếp xúc với
trần sinh ra thức tức là sinh lý tiếp xúc với vật lý thì tâm lý phát hiện.
Và tâm lý đầu tiên là cảm giác tức là thọ uẩn. Tuy nhiên mỗi uẩn đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn
tại. Thí dụ trong sắc uẩn có thọ uẩn và trong thọ uẩn có sắc uẩn rồi. Khi chúng
ta có một cảm giác đau khổ, khó chịu thì cái cảm giác này gồm luôn cả thân thể
và tri giác, tâm tư và thức.
Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô thường vô ngã
nên toàn khối cũng là vô thường vô ngã tức là Không chẳng khác nào như cây
chuối không có lõi, chỉ là sự kết tập của các bẹ chuối. Khi thấu rõ bản chất
thật của con người và vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn
bám vúi vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là của Ta thì
những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt.
Tuy Bát Nhã Tâm Kinh vỏn vẹn có 260 chữ, nhưng quan
trọng nhất của Tâm Kinh vẫn nằm ở câu đầu: "Quán tự tại Bồ-tát hành
thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thế khổ
ách". Đoạn kinh Bát Nhã này chú trọng đến vấn đề thoát khổ. Con người
sẽ thoát khổ, theo Bát-nhã, khi thực hành trí tuệ Bát-nhã sâu xa, soi rọi rõ ngũ uẩn là Vô ngã tức là Không.
Thấy biết ngũ uẩn là Vô ngã là thấy biết tất cả các pháp là Vô ngã nghĩa là khổ
là Vô ngã và người cảm thọ khổ cũng là Vô ngã, bởi cả hai đều là duyên sinh.
Như thế rõ ràng, không thực có khổ, cũng không thực có cái gọi là con người thọ
khổ, thì hẳn là không còn có một thứ khổ ách nào ràng buộc cả. Quan trọng nhất
là chúng sinh thấy rõ ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình,
là của mình, hay là tự ngã của mình. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đấy
là đường vào giải thoát.
Vô Tận Ý bạch Phật:
-Thế Tôn ! Con xin cúng dường
Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nói xong, liền mở xâu chuỗi ngọc
đang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dâng cho Bồ-tát Quán Thế Âm
mà nói rằng: Xin ngài nhận món pháp thí bằng châu báu nầy.
Bồ-tát Quán Thế Âm không chịu nhận.
Vô Tận Ý lại thưa:
-Xin Ngài thương xót chúng tôi mà
nhận cho.
-Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm:
-Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ
xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài
người và không phải người… mà nhận chuỗi ngọc.
Tức thì Quán Thế âm thương hàng tứ
chúng và Trời, Rồng, Nhân và Phi Nhân…mà nhận chuỗi ngọc. Rồi ngài chia chuỗi
ngọc làm hai phần: Một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp
của Phật Đa Bảo.
Đức Phật gọi Bồ Tát Quán Thế Âm bằng “Ông” trong câu “Ông nên thương
xót…”. Tiếng “Ông” mà kinh diễn tả có nghĩa là đức Quán Thế Âm dựa theo kinh
Pháp Hoa là người nam trong khi hình tượng đức Quán Thế Âm mà chúng ta thường
thấy trước chùa hoặc trong chánh điện lại là người nữ. Vậy phải giải thích như
thế nào?
Trong lịch sử tín ngưỡng ở Ấn Độ thì Bồ Tát tự nhiên phải thuộc nam tính
như tất cả mọi thần thánh quan trọng khác cho nên không dễ dàng tìm ra bất cứ
dự kiện trong lịch sử để nêu lên vấn nạn rằng Bồ Tát Quán Thế Âm hay Đại Thế
Chí là nam giới hay nữ giới. Thật vậy, trong nghệ thuật và văn học Ấn Độ thì
tất cả hình tượng về Bồ Tát đều được mô tả và diễn đạt trong tư thế và hình
thái của nam giới. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại”.
Quán Tự Tại chính là Quán Thế Âm. Kinh gọi Ngài là “bậc trượng phu dũng mãnh”,
chứng minh Quán Âm vốn là nam tử.
Khuynh hướng đó có lẽ được cho là bị ảnh hưởng triết học thần thoại của Ấn
Độ giáo (Hindu), tôn giáo mà tất cả những thần thánh quan trọng nhất đều là nam
giới. Thí dụ thần sáng tạo tức là đấng sáng tạo vũ trụ: thần Brahma (Thượng
đế); thần hủy diệt kalki, truyền thuyết nói rằng khi Vishnu tức là đấng sáng
tạo tối cao đến sẽ kéo theo sự hũy diệt sau cùng của thế giới này, để phán xét
những điều xấu ác và tưởng thưởng những điều tốt; thần Vishnu là đấng sáng tạo
tối cao hay là Chân lý cuối cùng mà đức Phật Thích Ca được Ấn Độ giáo gọi là
thần Vishnu, đều là nam giới. Nhưng Phật giáo Mật tông Tây Tạng thì hình tướng
Bồ Tát Quán Thế Âm là Tara Quán Âm màu xanh, chớ không phải Bạch Y Quán Thế Âm
như ở Trung Hoa hay ở Việt Nam.
(Xin xem Green Tara Mantra: Thần chú lục độ mẫu):
(http://www.youtube.com/watch?v=PHg22_lMtNk&feature=related).
Đức Phật sinh ra trong xã hội Bà la
môn (tiền thân của Hindu), nhưng Ngài không chấp nhận lý thuyết tiểu ngã, đại
ngã, Thượng đế và thần thánh của Bà la môn giáo nên khai sáng ra đạo Phật với
chân lý Vô Ngã, Duyên Khởi, tự giác, tự giải thoát và vô tín ngưỡng. Thế mà Ấn
Độ giáo ngày nay đặt đức Phật vào vị trí của một trong số thần thánh không
thuộc thế giới con người trong danh sách thần thánh của đạo Hindu khiến cho
người dân Ấn Độ đều cho rằng đức Phật Thích Ca là hiện thân thứ chín của thần
Vishnu.
(http://www.sanatansociety.org/hindu_gods_and_goddesses.htm).
Như thế kinh điển Phật giáo Đại thừa diễn tả giới tính của tất cả Bồ Tát
đều là người nam. Nhưng khi kinh điển Đại thừa từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc
thì người Trung Hoa bắt đầu chuyển thân Bồ Tát Quán Thế Âm từ nam sang nữ.
Theo khảo cứu của họa giả Edkins thì người Trung Hoa thờ phượng đức Quán
Thế Âm sớm nhất vào khoảng thế kỷ thứ nhất cho đến năm 220 sau công nguyên.
Nhưng theo sự nghiên cứu của học giả Alice Getty thì việc thờ phụng đức Quán
Thế Âm được truyền bá vào Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và
lúc đó gọi là Quán Âm. Có một lý luận cho rằng vua nhà Đường tên là Lý Thế Dân
cho nên nhà vua cho đổi Quán Thế Âm thành ra Quán Âm vì chữ “Thế” là húy kỵ của
nhà vua. Ở trong các hang động Long Môn (Lung men) và Vân Cương (Ying kang),
các nhà khảo cổ tìm thấy hình tượng đức Phật Thích Ca và các vị Bồ Tát được tạc
và điêu khắc trong hình tướng nam giới vào thời kỳ ban sơ tức là vào khoảng thế
kỷ thứ tư và thứ năm sau công nguyên. Và tất cả những tranh tượng điêu khắc đó
đều mang đặc tính nghệ thuật Trung Hoa. Ngay cả đến thế kỷ thứ mười, Quán Thế
Âm còn được giữ dưới dạng nam giới trong các động ở Đôn Hoàng (vùng Tân Cương)
và tượng Quán Thế Âm có để râu mép.
Tượng
Quán Thế Âm nam giới có râu mép.
(Ở động
Đôn Hoàng, Trung Hoa)
Tiến trình nữ hóa ngài Quán Thế Âm ở Trung Hoa trải qua nhiều giai đoạn và
nhiều truyền thuyết:
1)Việc chuyển đổi giới tính của Bồ Tát Quán Thế Âm là do ảnh hưởng của
Phật giáo Mật tông bắt đầu thịnh hành ở Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ tám sau
công nguyên. Các nghệ nhân triều đại nhà Đường đã uyển chuyển thay hình đổi sắc
của Bồ Tát cho phù hợp với dáng người Trung Hoa và thêm vào đó, giáo lý Mật
tông đã đóng góp một số đặc tính thần thoại đưa đến việc thần thánh hóa đức
Quán Thế Âm trở thành một đối tượng tín ngưỡng tôn giáo ở Trung Hoa rồi sau đó
truyền sang Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, đặc biệt là Quán Thế Âm Nghìn Tay
Nghìn Mắt và (Thần) Chú Đại Bi. Với sự thần thánh đó, Phật giáo Đại thừa thật
sự hấp dẫn quần chúng bản địa và người dân Trung Hoa hoàn toàn bị lôi cuốn bởi
loại tín ngưỡng này.
Dược sư Long Thọ là vị Sơ Tổ Mật tông ở Ấn Độ bắt đầu từ thế kỷ thứ bảy
sau công nguyên. Ông có người đệ tử là Long Trí. Lúc bấy giờ có ngài Kim Cương
Trí (Vajrabodhi) (663-723) là người rất tinh thông về kinh luận. Năm 15 tuổi,
ông qua Tây Ấn Độ học về Nhân Minh Luận với ngài Pháp Xứng, sau đó tham học Luật,
Trung Quán Luận (Long Thọ) và Duy Thức Luận (Thế Thân) và sau cùng đến Nam Ấn
Độ tu học và nghiên cứu Kim Cang Đỉnh
(Vajra-Sekhara) với ngài Long Trí gần 7 năm. Đến năm 720 ngài Kim Cương Trí qua
Trung Hoa và đến Lạc Dương để truyền bá Mật giáo cùng với đệ tử là ngài Thiện
Vô Úy. Vì thế ngài Kim Cương Trí là vị Tổ đầu tiên của Mật tông tại Trung Hoa.
Trên phương diện giáo nghĩa và hành trì, họ chia Mật giáo thành ra hai phái:
Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim Cang thừa (Vajrayàna) dựa theo hai bộ kinh
Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh.
Như thế, giáo lý Mật tông thịnh hành ở Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ tám
sau công nguyên và nó đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giới tính
của Bồ Tát Quán Thế Âm từ nam sang nữ. Nhưng Phật giáo Mật tông vay mượn quá
nhiều quan điểm thần thoại của Ấn Độ giáo (Hindu) mà trong đó thần chú, bùa
phép, thờ phượng, cầu khẩn thần thánh là những điển hình. Ngay cả học giả
Edward Conze và Sir Charles Eliot cũng thốt lên rằng “Đây là nguyên nhân khiến cho Phật giáo trở nên quá khó hiểu, trừu tượng
và cũng là nguyên nhân chính không chỉ đóng góp vào việc làm suy tàn Phật giáo
ở Ấn Độ, mà dòng nước suy thoái bắt nguồn từ những yếu tố trên đã làm cho Phật
giáo biến mất tại những quốc gia như Mả Lai Á, Indonesia…”. Trong khi đó, lý
tưởng giải thoát và hạnh nguyện của đức Phật với những lời dạy chân thật như “Chư ác mạc tác, chứng thiện phụng hành, tự
tịnh kỳ ý” nghĩa là hãy làm các việc lành, tránh xa các việc dữ, giữ
tâm ý thanh tịnh, không làm thỏa mãn nhu cầu của tín đồ trong thời điểm đó vì
có lẽ con người quá mệt mỏi với khả năng “tự lực” “tự độ” nên xoay sang cầu
mong “tha lực” cứu độ. Phật giáo Đại thừa Trung Hoa hấp thụ các đặc tính của
Mật giáo để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng vì họ đã quá quen thuộc
với tư tưởng tín ngưỡng của Lão và Khổng giáo, là những tôn giáo tin ngưỡng đa
thần. Tuy nhiên, tín ngưỡng không hề có trong Phật giáo vì đạo Phật là đạo tự
độ, tự giác.
Ngay cả tư tưởng “nhất nhân chứng,
cữu huyền thăng” nghĩa là một người đắc đạo thì cả gia đình quyến thuộc
chín đời được nhờ là hoàn toàn sai lạc, lầm lẫn vì nó đi ngược lại với luật
“nhân quả”. Thí dụ điển hình là sau khi đức Phật thành đạo, vợ Ngài, con Ngài,
dưỡng mẫu và biết bao anh em chú bác của Ngài cũng phải xuất gia, sống đời độc
cư, tinh tấn nỗ lực tu hành và đi theo bước chân của Phật thì mới có giải thoát
chớ đức Phật không cho họ sự giải thoát được. Câu
chuyện bà Thanh Đề, mẫu thân của tôn giả Mục-kiền-liên bị đoạ xuống
địa ngục được tôn giả Mục-kiền-liên và chư tăng cứu độ nhân ngày rằm tháng bảy.
Có một sự thật
không thể sai lầm được, đó là, nếu bà Thanh Đề bị đoạ xuống địa
ngục thì do nghiệp ác bà ấy đã tạo, và tự thân nghiệp xấu ấy chiêu cảm mà khiến
bà sanh vào cảnh giới tối tăm, đau khổ tương ứng với tâm thức tăm tối của bà,
chứ không hề có một Thượng Đế nào đày bà xuống địa ngục. Thật vậy:
“Tội là chi, phước là chi
Đa mang chi hai gánh nặng như chì
Ai bắt tội và ai là người chịu tội?”.
Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của Phật giáo
với các tôn giáo hữu thần khác. Mình gieo nhân thì tự gặt quả lấy,
hoàn toàn không có một tác nhân của Phật, Chúa Trời, Thần, Quỷ can dự vô nhân
quả của mình được. Mình gieo nhân tốt, không cần sự cứu rỗi của ai cũng được
sanh lên các cảnh giới chư Thiên. Nếu mình làm chuyện bất thiện thì sau khi
chết, nghiệp bất thiện nầy tương ứng với cảnh giới của những người bất thiện,
khiến tâm thức của người ấy sanh về cảnh giới chịu khổ sở để trả quả báo ác
độc, vì vậy không có một
vị thần nào đày ta xuống cõi âm ti, địa ngục cả. Đạo Phật lấy nhân quả làm cơ sở vì thế bất cứ giáo lý
nào ngoài nhân quả là không phải của đạo Phật.
2)Dựa theo học giả Yu Chun Fang thì quá trình chuyển đổi giới tính của Bồ
Tát Quán Thế Âm có lẽ xãy ra sớm nhất là vào thế kỷ thứ năm sau công nguyên.
Trong bài báo được công bố năm 1997, Yu Chun Fang viết rằng “Vào khoảng thế kỷ thứ mười sau công nguyên,
ngài Quán Thế Âm càng ngày càng chuyển đổi sang hình thái phụ nữ, rồi vào triều
đại nhà Minh, vị Bồ Tát này thực sự đã biến thành “Vị Nữ Thần Từ Mẫu”.
3)Trong bộ “Lịch Sử Triều Đại Bắc Triều” do học giả Li Baiyao viết rằng “Vào lúc đầu của nhà Đường, Hoàng đế Wu cheng
(561-564AD) của triều đại Bắc Tùy (550-577AD) một đêm nằm mộng thấy đức Quán
Thế Âm trong hình ảnh phụ nữ áo trắng tuyệt đẹp nên ra lịnh cho các nghệ nhân vẽ tranh và tạc tượng như lời ông kể
lại. Từ đó đức Quán Thế Âm được miêu tả là nữ Bồ Tát”.
Qua những tranh tượng nghệ thuật còn lưu lại từ đời Đường (618-907) trở về
trước thì Bồ Tát Quán Thế Âm đã được trình bày dưới dạng nam nhân. Tuy nhiên
bắt đầu từ đời Tống (960-1279) tức là khoảng thế kỷ thứ 11, đức Quán Thế Âm đã
được nhìn thấy dưới dạng nữ nhân như là một vị nữ thần và hình ảnh về một Phật
bà Quán Thế Âm đã được nghệ nhân Trung Hoa sáng tạo. Sự chuyển hóa thành dạng
nữ nhân của Bồ Tát Quán Thế Âm được xem như hoàn tất dưới thời nhà Nguyên
(1206-1368). Từ thời đại nhà Minh trở đi tức là khoảng thế kỷ thứ 15, Bồ Tát
Quán Thế Âm hoàn toàn xuất hiện dưới dạng nữ nhân.
Cùng theo chiều hướng ảnh hưởng lan rộng đó, hình tượng đức Quán Thế Âm
qua hình ảnh của Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát và Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được
truyền sang Việt Nam có lẽ sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 13. Khảo sát pho
tượng Quan Âm tại chùa Động Ngọ, có ghi khắc rõ niên đại chính xác vào
đời Diên Thành thứ năm (1582). Pho tượng tại chùa Thượng Trưng, niên đại được
nói đến cũng được điêu khắc trong giai đoạn nầy, vào tháng tư năm 1592. Sau đó
Việt Nam còn có nhiều hình ảnh Quán Thế Âm khác như Quán Âm Thị Kính, Quán Âm
Diệu Thiện, Quán Âm Đồng Tử. Hiện nay, có pho tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được thực hiện vào thời
nhà Mạc (thế kỷ thứ 16) vẫn còn lưu lại ở Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật tại Hà Nội và
pho tượng này đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc những pho tượng lớn nhỏ
khác.
Quán Thế Âm Tây Tạng
Quán Thế Âm Trung Hoa và Việt Nam
Phật giáo trong thời vua A Dục từ năm 273 đến 232 trước công nguyên, là
một trong những hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất. Ông toàn thắng trong một loạt các
cuộc chinh phạt và đã cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến
Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một quân vương ủng hộ
Phật giáo, ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật
Thích-ca Mâu-ni. Và theo truyền thống Phật giáo, thời kỳ này được xem như là
thời kỳ cực thịnh chẳng khác lúc đức Thế Tôn còn tại thế cho đến triều đại
Mauyan. Nhưng con ma vô thường cũng không thương xót cho dù đó là đạo Phật. Xã
hội Ấn Độ vào thời đức Phật là một xã hội phong kiến, đầy dẫy bất công. Chính
đức Phật đã cực lực công kích chế độ giai cấp, sự kỳ thị phụ nữ và đưa ra tư tưởng
bình đẳng cho tất cả mọi người. Tuy tư tưởng đức Phật chống lại đạo Bà la môn,
nhưng Phật giáo được các vua thời ấy ủng hộ cho nên Bà la môn không làm gì
được. Tuy nhiên, đức Phật lúc nào cũng là cái gai trong mắt của người Bà la môn
vì thế khi Phật giáo suy yếu, người Bà la môn không ngần ngại tiêu diệt Phật
giáo. Trước hết là sự suy thoái và sụp đổ của triều đại Mauyan kéo dài cho đến
cuối thế kỷ thứ hai trước công nguyên đánh đấu cho sự suy tàn của Phật giáo
trên xứ Ấn. Khi triều đại Sunga được thành lập với sự lên ngôi của vị vua
Pusyamitra (187-151 trước dương lịch), Phật giáo đã trải qua nhiều cuộc khủng
bố vô cùng dã man. Ông là kẻ thù dữ tợn nhất của Phật giáo. Vì muốn phục hưng
đạo Hindu, là tiền thân của Bà la môn và là Ấn Độ giáo ngày nay, ông tàn phá
tháp miếu, hỏa thiêu nhiều tu viện từ Madhyadesa cho đến Jalandhar ở vùng
Punjab và không ngần ngại giết chết rất nhiều tu sĩ đức hạnh. Với sự trợ lực
của các vị vua của triều đại Sunga, Ấn Độ giáo bắt đầu khởi xướng một chiến
dịch phục hưng rầm rộ và sau cùng đạo Hindu dành được thế thượng phong và dĩ
nhiên tập quán thờ cúng đa thần được họ xiễn dương tối đa trở lại. Trên thực
tế, khuynh hướng thờ cúng thần linh đã hấp dẫn và có sức mạnh lôi cuốn một số
lượng quần chúng khổng lồ trong đó có cả tín đồ Phật giáo. Để đối phó với vấn
đề nan giải liên quan đến sự tồn vong của Phật giáo lúc bấy giờ, vô số hình
tượng Bồ Tát khác nhau vốn được xem như là thần thánh được đưa vào trong Phật
giáo. Thực tế là nhiều thánh thần của Ấn Độ giáo (Hindu) đã từng bước, từng
bước thay thế hình ảnh của đức Phật giữa xã hội Ấn Độ. Kết quả, kinh điển Đại
thừa ra đời cũng dựa theo lý tưởng Bồ Tát này. Ban đầu các vị triết gia lỗi lạc
của Phật giáo thời ấy nghĩ rằng Bồ Tát chỉ là những biểu tượng cho từ bi, trí
tuệ và những đức năng của đức Phật, nhưng thực tế đa số Phật giáo đồ sau đó chỉ
thích quỳ lạy, cầu xin thay vì nghiên cứu, hành trì cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.
Thậm chí họ biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát còn nhiều hơn đức Phật không phải vì Bồ
Tát Quán Thế Âm dạy họ thực hành từ, bi, hỷ, xả mà vì Bồ Tát có ngàn tay ngàn
mắt, có công nang nghe được tiếng cầu xin và dang tay ra cứu độ. Chưa hết họ
còn lầm lẫn gọi Quán Thế Âm là Phật Bà. Nếu cầu Bồ tát Quán Thế Âm mà cái gì
cũng được thì thế gian này làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật, tai nạn, chiến
tranh, giết chóc, thiên tai, động đất, bảo lụt, sóng thần…? Nếu chư Phật và chư
Bồ Tát ứng hiện để cứu giúp mỗi khi con người cầu khẩn thì còn đâu là lý nhân
duyên, còn đâu là thuyết nhân quả, còn đâu là nghiệp báo hay nói chung còn đâu
là giáo lý Phật Đà? Khi vua Lưu Ly hai lần đem quân muốn tiêu diệt dòng họ
Thích Ca, đức Phật hai lần đích thân ngăn cản, nhưng sau cùng Ngài cũng để cho
ân oán đâu đó tự trang trải. Chính Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông bay
vào thành chọn ra 500 những người ưu tú của dòng họ Thích Ca bỏ vào bình bát
rồi ôm bình bát nhảy lên hư không. Đến nơi an toàn, Tôn giả mở bình bát ra thì
500 người đó cũng đều bị đâm chết, máu chảy ra đầy bình bát.
Lịch sử của những vĩ nhân Trung Hoa thì lúc nào cũng
đậm màu sắc huyền thoại. Thí dụ khi mẹ vua Hán Cao Tổ ngủ ngoài trời, nằm mộng
thấy mình gặp một vị thần và vào lúc ấy bà thấy có một con rồng bao lấy thân
mình, trong khi trời nổi gió, tuôn mưa rồi thọ thai sinh ra Hán Cao Tổ. Đức
Khổng Tử có lai lịch rất huyền bí không kém. Cha mẹ của đức Khổng Tử vì không có con để nối dõi tông
đường, nên phụ mẫu của ngài lên núi Ni Khưu để cầu tự. Sau đó thân mẫu của ngài
nằm mộng thấy một con kỳ lân đến trước mặt bà, nhìn bà rồi quỳ xuống nhả ra một
cây thước bằng ngọc trên có đề mấy chữ: “Thủy tinh chi tử, kế suy Châu vi tố
vương” có nghĩa là con của vì sao Thủy tinh, đến nối truyền cho nhà Châu đã
suy vong mà làm vua không ngôi. Khi ngài mới sinh ra thì có rồng bay đến bao
quanh nhà. Nhưng có lẽ huyền thoại của đức Lão Tử là đặc biệt hơn cả. Mẹ của Lão Tử là một trinh nữ, một hôm bà
đứng dưới gốc cây “lý” thấy trên cây có một trái lý chín rất tươi đẹp và thơm
ngon nên bà bèn với tay hái trái lý mà ăn. Từ đó bỗng nhiên bà có thai. Một hôm
khác bà ra đứng dưới cây lý hóng mát, bỗng nghe ở hông bên trái ngứa ngáy, da
thịt rách ra một đường dài và Lão Tử theo đường nứt đó mà chào đời. Lúc ấy trên
trời hiện ra 9 con rồng phun nước xuống tắm gội cho ngài. Vì ở trong thai 81
năm nên khi ra đời thì tóc, râu đã bạc trắng nên ngài mới có danh hiệu là Lão
Tử. Có lẽ đây là người đầu tiên và độc nhất của nhân loại sinh con lúc bà gần
trăm tuổi. Thật là ngẫu nhiên câu chuyện này sao lại giống như chuyện đức Phật
đản sanh từ hông của hoàng hậu Ma-da và có rồng phun nước? Ngày nay những thế
hệ sinh ra và lớn lên trong những quốc gia khoa học tân tiến thì hiện tượng ra
đời bên hông phải của đức Phật rất khó có thể giải thích một cách hợp lý được.
Sự kiện huyền bí này là theo truyền thuyết Phật giáo Trung Hoa được lưu truyền
qua các kinh như: Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Phật Bản Hạnh Tập, Trường A
Hàm…Thiền tông Trung Hoa giải thích sự kiện sinh bên hông phải là biểu trương
của Phật tánh, chớ không phải là kết tinh do cha mẹ sinh ra. Đó chính là bản
tâm vô trụ siêu việt vượt ra ngoài phạm trù đối đãi nhị nguyên thiện ác, đúng
sai. Tuy nhiên, kinh điển Nguyên thủy Pali không thấy nói đến việc Thái tử sinh
ra từ hông phải của Hoàng hậu Ma-da. Trong Trường Bộ Kinh Tập 1, Kinh Đại Bổn
14 có câu:”Này các Tỳ kheo! Pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ
sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là
như vậy”. Như thế theo kinh tạng Nguyên thủy, sự đản sanh của đức Phật là
một con người bình thường, Hoàng hậu Ma-da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu
phụ khác. Đến ngày khai hoa nở nhụy, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng
mẹ như mọi đứa trẻ khác trên thế gian này. Dựa vào những dự kiện đó, chúng ta
có thể nhìn việc đản sinh của đức Phật bằng hai góc độ khác nhau:
1)Nếu đức Phật là ứng thân của chư Phật thì phàm nhân
và Phật phải có sự ngăn cách. Đó là những gì Phật làm, Phật chứng thì chỉ có
Phật mới thực hiện được vì Ngài là một siêu nhân. Còn phàm nhân cho dù có nỗ
lực cách mấy cũng khó lòng đạt được, nếu không muốn nói là không thể được. Mà
nếu tự mình không làm được thì dĩ nhiên cầu xin, Phật sẽ ban cho thế thôi.
2)Nhưng bây giờ nếu nhìn đức Phật sinh ra và lớn lên
giống như những đứa trẻ khác trên đời. Ngài thấu biết và cảm nhận tất cả những
nỗi khổ trong thế gian cũng như chúng ta và sau cùng Ngài chấp nhận viễn ly tất
cả, bỏ lại cung vàng điện ngọc, bỏ lại vợ đẹp con xinh, bỏ lại tất cả để tinh
tấn tu tập thiền định và kết quả Ngài chứng được Niết bàn, có giải thoát giác
ngộ tự tại. Do đó nếu bất cứ ai có đủ nghị lực, chấp nhận viễn ly, tinh tấn tu
hành như Phật thì cũng sẽ có kết quả như Phật.
Niềm tin là một trong những yếu tố cốt lõi nhất đối với đời sống con
người. Nhờ dựa vào niềm tin đó mà cuộc sống của con người trở nên tiêu cực, hay
tích cực, năng động hay thụ động và quan trong hơn hết là thất bại hay thành công.
Do thiếu niềm tin hoặc do vì niềm tin sai lạc con người có thể đánh mất định
hướng của cuộc sống như nó đang xảy ra.
Trong lãnh vực tôn giáo, niềm tin lại càng quan trọng hơn và họ cho rằng
giáo chủ của tôn giáo họ là đấng siêu nhiên, là đấng sáng tạo và dĩ nhiên học
thuyết của họ là tuyệt đối chính xác, là cứu cánh của cuộc đời. Thậm chí tín đồ
chỉ được phép tin và thực hành học thuyết đó mà không được nghi ngờ, thắc mắc.
Phật giáo thì ngược lại, chính đức Phật đã dạy rằng:” "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ
vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của
Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy
của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì
nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành".
Vì vậy niềm tin của đạo Phật được xây dựng dựa trên nền tảng của trí tuệ, tu
tập và thực nghiệm. Từ đó con người mới có thể giải thoát khỏi nghiệp lực và
khổ đau để đạt đến hạnh phúc chân thật Niết bàn. Đây mới chính là Chánh tín. Ở
đây, Quán Thế Âm là danh hiệu để nhân
cách hóa một phương pháp tu tập. Đó là lối tu “phản văn văn tự tánh”
nghĩa là xoay về để lắng nghe tánh nghe thanh tịnh của lòng mình thay vì chạy
theo những âm thanh thị phi, phải quấy, tốt xấu, hơn thua. Quán là vận dụng cái
trí năng tri soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng. Thế có nghĩa là sự vận
dụng tương tục của tâm tưởng chúng ta. Âm là âm ba, âm hưởng, âm thanh đều là
những đối tượng của nhĩ căn. Do đó Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tâm thầm
lặng mà trong suốt như pha lê và nó thường xuyên liên tục không có giây phút
nào gián đoạn ở lòng ta tức là “tánh nghe”.
Khi Bồ Tát Vô Tận Ý đã tiếp thu
được giáo lý thậm thâm, những lời dạy về phương cách tu hành sâu kín nên phát
tâm cúng dường chuỗi ngọc. Phát tâm
cúng dường có nghĩa là tâm đắc và tiếp thu được những lời dạy quý báu và phương
cách tu hành rốt ráo đó. Bồ Tát Quán Thế Âm sau khi nhận chuỗi ngọc liền chia
làm hai, một đem cúng dường Phật Thích Ca và một cúng dường Phật Đa Bảo. Thế
thì khi muốn thấy Phật Đa Bảo, tức là Pháp Thân Thường Trụ, Bản Thể thanh tịnh
của chính hành giả, thì hành giả phải thu nhiếp tất cả các căn lại, những vọng
tưởng điên đảo phải lôi nó lại, không để cho nó lăng xăng nữa, thì chỗ ấy thấy
rất rõ chơn tướng của Pháp Thân Thường Trụ, thì gọi là Phật Đa Bảo Như Lai. Tại
sao gọi là Đa Bảo? Tại vì nó quí giá vô cùng, không có cái gì quí giá hơn. Đa
là vô cùng, nhiều lắm, Bảo là quí giá. Đa Bảo là vô cùng quí giá. Chuỗi ngọc ở
đây không phải là ngọc ngà châu báu của người thế tục vì Bồ Tát và chư Phật đâu
có cần những thứ hữu vi giả tạm này, mà nó chính là phương pháp để phá thức
uẩn, là cội nguồn phát sinh ra vọng tưởng điên đão, là pháp vô úy thí để giúp
chúng sinh hết lo sợ, buồn phiền và đặc biệt là “nhất tâm” niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm để trở về sống với tỉnh thức chánh niệm, làm chủ lấy thân, tâm
và sống với tri kiến Phật thanh tịnh của chính mình. Khi Bồ Tát Quán Thế Âm
cúng dường chuỗi ngọc cho Phật Thích Ca tức là Hóa thân Phật và Phật Đa Bảo là
Pháp thân Phật có nghĩa là tất cả phương cách tu học, thực hành dầu có huyền
diệu đến đâu cũng đều trở về với bổn tánh của nó. Nói cách khác chúng ta áp
dụng bao nhiêu phương pháp huyền diệu để tu thành Phật như Phật Thích Ca, nhưng
sự thành Phật này chẳng qua là sự trở về
với Pháp thân Phật một khi vô minh phiền não không còn, nghĩa là đức Phật xuất
hiện trên thế gian này là khai mở, chỉ bày khiến cho chúng sinh mở toang tri
kiến Phật của họ và giúp cho chúng sinh thanh tịnh hóa tri kiến Phật đó. Thế
thì cái tri kiến Phật mà kinh nói ở đây chính là trí tuệ tức là cái biết như
thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của các pháp. Mà cái thực tại Vô Ngã
(No-self) chỉ có thể thành tựu qua công phu thiền định và lúc đó lòng chấp thủ
về chủ thể lẫn đối tượng sẽ không còn hiện hữu. Con người có trở về với bổn
tánh, chơn tâm hay Phật tánh chỉ khi nào họ đạt được cái trí tuệ này thì lúc đó
họ sẽ an trú trong sự thấy biết tánh bình đẳng của tất cả mọi sự vật hiện tượng
và tất cả khái niệm hay ý niệm về những cặp phạm trù đối đãi phân biệt sẽ biến
mất. Vì lẽ đó mà kinh Pháp Hoa được biết đến như là kinh Trí Tuệ vậy.
-Vô Tận Ý Bồ-tát nói một bài kệ, để
hỏi đức Phật:
“ Thế Tôn đủ tướng tốt
Con nay xin hỏi Phật
Phật tử kia duyên gì
Tên là Quán Thế Âm”
Kệ đáp:
Vô Tận Ý nghe đây
Hãy nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói:
Nghe danh và thấy thân
Tâm niệm không xao lãng
Hay diệt khổ ba cõi
Giả sử khởi ý hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức Quán Âm kia
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Cá, rồng, quỷ các nạn
Do sức Quán Âm kia
Sóng mòi dập chẳng chìm.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức Quán Âm kia
Như mặt trời trụ không.
Hoặc bị người ác rượt
Rớt xuống núi kim cang
Do sức Quán Âm kia
Chẳng hại đến mảy lông.
Hoặc bị oán tặc vây
Đều cầm dao gia hại
Do sức Quán Âm kia
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Gia hình mệnh sắp chết
Do sức Quán Âm kia
Dao liền gẫy từng đoạn.
Hoặc xiềng xích cầm tù
Tay chân bị cùm gông
Do sức Quán Âm kia
Tháo ra được thong thả.
Trù ếm tra thuốc độc
Muốn hại chết người ta
Do sức Quán Âm kia
Người làm mang hại lấy.
Hoặc gặp La-sát dữ
Độc-long các quỷ yêu
Do sức Quán Âm kia
Chúng liền không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút bén đáng sợ
Do sức Quán Âm kia
Chạy gấp chẳng kể đường
Rắn độc và bò cạp
Phun khí độc mịt mờ
Do sức Quán Âm kia
Tự khắc lui chạy hết.
Mây đen sấm sét nổ
Giá tuôn mưa xối xả
Do sức Quán Âm kia
Tức thời tiêu tan hết.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Mười phương các cõi nước
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Lần lần khiến dứt hết.
Quán chơn, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ quảng đại
Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Quán thanh tịnh không nhơ
Trời trí tuệ phá tối
Hay phục tai gió lửa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Thể Bi ngừa sấm sét
Ý từ đám mây lành
Xối mua pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não.
Kiện tụng ở chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức Quán Âm kia
Oán cừu đều tan hết.
Diệu Âm: Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn hết thế gian
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Thế Âm Thánh Tịnh
Với khổ não chết chóc
Làm chỗ nương cậy cho.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn vô lượng
Thế nên cần đảnh lễ.
Bấy giờ, Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ
ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh
nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn với sức thần thông, đạo nghiệp tự tại
nầy thì nên biết công đức của người đó không phải tầm thường
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn nầy,
trong chúng có 84.000 chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Trì
Địa Bồ Tát là vị Bồ Tát giữ gìn trái đất, là thế giới Ta Bà tức là cõi đất tâm
của chúng sinh. Kinh giới thiệu Bồ Tát Trì Địa để nhắn nhủ với chúng sinh rằng
cõi tâm của con người luôn thay đổi. Nếu chúng ta còn chạy theo tham đắm dục
tình, làm nô lệ cho vô minh phiền não thì cõi đất tâm ấy lúc nào cũng phiền
não, đau buồn tức là chúng ta đang sống trong thế giới Ta Bà. Ngược lại bây giờ
chúng ta nghe theo pháp tu “Phản văn văn tự tánh” của ngài Quán Thế Âm nghĩa là
không nghe những âm thanh bên ngoài nữa mà xoay về nghe tánh nghe của mình thì
những biến động của tâm sẽ tan biến, thế giới Ta Bà biến mất và chúng ta sẽ
sống trong cõi đất tâm vô cùng thanh thản tự tại tức là cõi cực lạc vậy. Nếu chúng sinh
dùng lỗ tai (thịt) để nghe thì chắc chắn sẽ bị ngăn ngại. Tại sao? Bởi vì khi tai nghe những âm thanh, tiếng nói
không hài lòng khiến tâm
bực bội, khó chịu. Ngược lại nghe những lời bùi tai thì say đắm. Thí dụ như vợ chồng, con
cái bất ổn, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng vì tư tưởng khác đồng
chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu không nổi, đâm ra bực tức, rồi sinh
ra chửi bới, đánh đấm…cuối cùng dẫn nhau ra tòa ly dị…hoặc vào tù ra khám. Đó
cũng tại vì chấp lời nói kia là thật nên bị ngăn ngại. Bây giờ nếu hiểu Phật pháp
thì không chấp vào lời nói thị phi của người khác. Tại sao? Bởi vì trên thế
gian này chỉ có ta mới thật sự hiểu rõ ta mà thôi, không một người nào khác có
thể biết ta bằng ta được. Thí dụ một người chê ta là người xấu hoặc khen ta là người tốt thì
họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân của họ mà so sánh,
đánh giá người khác chớ làm sao họ biết ta bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu
mình biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là
người xấu mà có người khen tặng mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình tự lừa dồi mình, sống trong ảo
tưởng. Ngược lại nếu mình là người tốt, luôn nghĩ thiện, nói lời lành và làm việc thiện mà có ai chê
ta thế này thế kia thì ta cứ mặc họ vì cuộc sống nhẹ nhàng, thánh thoát, an vui, tự tại thì
chính ta đã có rồi đâu cần người đời trao tặng nữa. Nên nhớ những
tiếng thị phi, những lời khen chê thì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có
chẳng khác nào thời tiết nóng lạnh bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình
là người không chạy theo âm thanh khách trần phiền não cho nên nghe thì nghe tất cả mà như không
nghe gì hết, không
chấp vào âm thanh lời nói đó, trong ngoài tự tại là có an lạc Niết Bàn.
Tóm
lại, khi chúng sinh nghe phẩm Phổ Môn này mà chính mình nhận thức rằng mỗi
người đều có Diệu Âm, Quán Thế Âm trong họ thì đó chính là sức thần thông, đạo
nghiệp tự tại bất khả tư nghì. Nói các khác không có vị Quán Thế Âm nào ở ngoài
tâm của chúng sinh cho nên không có việc cầu tha lực gia bì vì toàn bộ giáo lý
Phật Đà đều nằm trong vòng nhân quả nên không có Bồ Tát hay Phật nào can dự vào
chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh. Trì Địa Bồ Tát ở đây chỉ là biểu tượng
hóa tâm thức của tất cả chúng sinh bởi vì bất cứ khi nào tâm thức của chúng
sinh thoát khỏi sự chấp thủ, bám vúi và thực sự phát triển từ bi và trí tuệ thì
chính họ đang thọ hưởng những phút giây an lạc trong từng hơi thở của họ và
biến cuộc đời thành an vui tự tại.
Phật pháp thì rộng lớn cao thâm tuy nhiên Phật giáo cũng có một cánh cửa
phổ thông (Phổ Môn) cho những ai muốn phát triển tiềm năng của mình để trở
thành một vị Phật và cánh cửa phổ thông này đưa đến kết quả viên mãn được biểu
tượng hóa bằng Bồ Tát Quán Thế Âm tức là sự nhân cách hóa đức tính từ bi và trí
tuệ của đức Phật. Trong Phật giáo, từ bi và trí tuệ được xem là hai thành tố
của một nhân cách giác ngộ. Trí tuệ sinh khởi nhờ từ bi và từ bi bắt nguồn từ
trí tuệ, tuy hai nhưng mà một bất tức bất ly.
Khi đã thâm hiểu hạnh nguyện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thì chúng sinh từ
nay chỉ đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài với tấm lòng kính ngưỡng chớ không còn
cầu nguyện, van xin cái gì cả bởi vì đạo Phật không phải là đạo tín ngưỡng mà
là đạo thực hành vì có thực hành rốt ráo mới có thực chứng để đạt đến những
thành quả nhiệm mầu và biến cuộc sống đang phiền não khổ đau trở thành thanh
tịnh an lạc Niết bàn. Vì sao đạo Phật chỉ dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quả
mà không dạy cầu nguyện? Bởi vì cầu nguyện chỉ có thể giúp con người có được sự
an bình trong nhất thời, trong giây phút chớ không thể giúp chúng sinh thật sự
giảm bớt hay vĩnh viễn thoáy ly được tất cả những hệ lụy của phiền não khổ đau
mà họ đeo mang từ vô thỉ đến nay.
Thật ra luật nhân quả rất công bằng, hợp lý, không lệ thuộc vào không gian
thời gian, không chỉ áp dụng cho riêng một ai, một sắc dân nào hay cho riêng
tín đồ của bất cứ một tôn giáo nào cả. Ngày nay trong tiến trình khám phá của
khoa học, luật nhân quả được xem như là tiền đề để giải quyết những khó khăn,
những khám phá mới. Những tôn giáo ngoài Phật giáo cũng nhìn nhận ảnh hưởng
trung thực của luật nhân quả trong đời sống của họ. Vậy có thể nói không riêng
gì Phật giáo, luật nhân quả là một quy luật chung cho toàn thế gian vũ
trụ.
Vì
vậy không có việc cầu nguyện để được tai qua nạn khỏi vì không có Phật trời nào
làm chuyện bất công bình để giúp đở những người cầu nguyện hay trừng phạt những
ai không cầu nguyện mà thật ra con người có thoát khỏi tai họa là do những
phước báu mà họ đã tạo tác từ trước. Do đó, thay vì cầu nguyện, con người nên nỗ
lực tạo dựng vun bồi thêm phước đức. Nếu chúng sinh luôn nghĩ thiện, nói lời
thiện và làm việc thiện thì chắc chắn cuộc sống sẽ vô cùng an vui tự tại mà
không cần phải nguyện cầu chi hết.
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ
tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành
mạnh. Có sức khỏe thì tất cả mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay. Tâm kinh dạy
rằng vật chất không ngoài tinh thần và dĩ nhiên tinh thần không ngoài vật chất
bởi vì tinh thần vật chất tác động hữu cơ, bất tức bất ly. Vì thế, tất cả sự
cứu độ của Ngài Quán Thế Âm phải được hiểu là ban cho tinh thần, cho những gì
thuộc về lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức. Ngài Quán Thế Âm
không bao giờ ban cho chúng sinh vật chất hữu vi vì như vậy chẳng khác nào đẩy
chúng sinh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát. Con người hãy thức
tỉnh mà tìm thấy cho mình con đường sáng diệu dụng nhiệm mầu để tự mình giải
thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau. Nếu cầu đức Quán Thế Âm mà
cái gì cũng được độ thì thử nghĩ thế gian này làm gì còn nghèo khổ, bệnh tật,
tai nạn, thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, chiến tranh, giết chóc…? Lời
Phật dạy không sai, chỉ vì chúng sinh hiểu chưa thấu nên áp dụng sai lầm. Bởi vì
nếu hiểu theo “Sự Tướng” thì làm sao thành tựu được, chẳng những không được mà
còn rơi vào mê tín dị đoan trái với luật nhân quả khách quan của nhà Phật.
Nhưng thành tựu ở đây là Phật nói về “Lý Tánh”. Lối tu của Ngài Quán Thế Âm là
“phản văn văn tự tánh” nghĩa là xoay lại tánh nghe của mình. Mà tánh nghe là
cái thể chân thật của mỗi người, không có hình dáng, tướng mạo. Nếu đã không có
hình dáng tướng mạo thì lửa làm sao đốt hay nước nào nhận chìm được. Vì vậy
niệm Quán Thế Âm tức là lắng nghe tánh nghe của chính mình mà quay về sống với
chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì mọi chướng nạn của lửa, nước đều
qua khỏi.
Phải biết rằng tham dục trần thế là vô hạn, nhưng con người lại không có
khả năng nhận ra chúng cho nên khi tham dục không được thỏa mãn thì sẽ gây khổ
đau cho mình và cho người. Cái đà thỏa mãn tham dục cũng ví như chiếc xe đang
chạy xuống dốc, càng xuống dốc thì xe càng chạy nhanh. Khi chưa thỏa mãn những
dục tính thì con người luôn có khuynh hướng tiếp tục theo đuổi chúng cho đến khi
được thỏa mãn nghĩa là càng đeo đuổi thì tham dục càng tăng và càng gây thêm
đau khổ. Chúng sinh chỉ có thể nghiệm được chân hạnh phúc và an nhiên tự tại
khi có ít tham dục. Đây chính là một trong những bước lớn hướng về giải thoát
giác ngộ.
Được như vậy là thực hành rốt ráo
câu :
“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại…”
Đức Phật dạy rằng : ”Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi
vật rồi sẽ thay đổi vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên
nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng”. Con người biết tri túc thiểu dục là
biết diệt trừ tham dục nghĩa là họ biết thỏa mãn với những điều kiện vật chất
khả dĩ giúp họ có đầy đủ sức khỏe để sống và để tu đạo. Đây chính là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục làm
cho thân tâm được thanh thoát nhẹ nhàng và dĩ nhiên có nhiều cơ hội để giúp đở
tha nhân.